Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp chuẩn hóa dữ liệu địa chính tại phường cẩm sơn thị xã cẩm phả tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.67 MB, 92 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ luận văn nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc./.
Hà nội, ngày tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Hoàng Văn Công


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT
- CNTT: Công nghệ thông tin
- CSDL: Cơ sở dữ liệu
- CSDLĐC: Cơ sở dữ liệu địa chính
- GCN: Giấy chứng nhận
- GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- XML: (eXtensible Markup Language) Ngôn ngữ đánh dấu mở
rộng.
- GCNQSHNƠ: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở

DANH MỤC HÌNH ẢNH
STT

Tên hình
vẽ



1

Hình 2.1

Quy trình tổng quan chuẩn hóa dữ liệu địa
chính

28

2

Hình 2.2

Sơ đồ quy trình xây dựng

29

3

Hình 2.3

Phân loại thửa đất và hoàn thiện hồ sơ địa
chính

32

Nội dung

Trang



3

4

Hình 2.4

Công tác chuẩn hóa cơ sở dữ liệu địa chính

35

5

Hình 2.5

Quy trình công nghệ thiết lập dữ liệu không
gian địa chính

51

6

Hình 2.6

Quy trình công nghệ thiết lập dữ liệu thuộc
tính địa chính

48


7

Hình 3.1

Bản đồ khi đưa về level 10, 41, 42, 43

71

8

Hình 3.2

Bản đồ có đầy đủ thuộc tính

71

9

Hình 3.3

Thông số vẽ nhãn trong famis

72

10

Hình 3.4

Bản đồ tổng


72

11

Hình 3.5

Chuyển đổi bản đồ từ dgn sang shape file

73

12

Hình 3.6

Kết nối CSDL SDE

74

Khởi tạo CSDL đồ họa cho phường Cẩm

74

13

Hình 3.7

Sơn

14


Hình 3.8

Thực hiện chuyển đổi dữ liệu

15

Hình 3.9

16

Hình 3.10

17

Hình 3.11

18

Hình 3.12

Nội dung file Exel

79

19

Hình 3.13

Phần mềm chuyển hóa file Exel


80

20

Hình 3.14

Quá trình chuyển đổi file Exel thành công

80

21

Hình 3.15

Hiển thị dữ liệu

81

Thực hiện chuyển đổi dữ liệu đã thành
công
Bảng nội dung dữ liệu không gian theo
chuẩn địa chính
Hiển thị các lớp thông tin bản đồ sau khi
nhập vào CSDL

75
75
77
78



4

Nội dung CSDL thuộc tính theo chuẩn địa

22

Hình 3.16

23

Hình 3.17

24

Hình 3.18

địa chính
Biến động gộp thửa

25

Hình 3.19

Trước biến động tách thửa

84

26


Hình 3.20

Sau biến động tách thửa

85

27

Hình 3.21

Đăng ký cấp giấy chứng nhận

85

28

Hình 3.22

Biên tập GCN

86

29

Hình 3.23

Cấp GCN

86


30

Hình 3.24

In GCN

87

31

Hình 3.25

Lập và in các loại sổ

88

38

Hình 3.26

CSDL đất đai phường Cẩm Sơn

91

chính
Các chức năng nhập thông tin thuộc tính

82
83
84


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước đây tất cả thông tin về đất đai được lưu trữ theo cách truyền
thống và thủ công như: tài liệu, sổ sách, bản đồ giấy. Việc tra cứu thông
tin đến từng thửa đất, từng chủ sử dụng đất phục vụ cho công tác quản lý
đất đai đang còn gặp khá nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, đất đai thường
xuyên có sự biến động rất lớn, do đó việc cập nhật, chỉnh lý những thông tin
biến động về đất đai một cách kịp thời, chính xác là rất cần thiết. Tuy nhiên
thực tế cho thấy công tác quản lý thông tin, tư liệu về đất đai bằng phương
pháp truyền thống dựa trên hồ sơ, sổ sách và bản đồ giấy mà tại các xã,


5

phường, thị trấn đang thực hiện khó đáp ứng được nhu cầu cập nhật, tra cứu,
khai thác các thông tin về đất đai. Để đáp ứng các yêu cầu thực tế về quản
lý đất đai trong thời gian qua nhiều đơn vị, địa phương đã đầu tư xây
dựng nhiều hệ thống phần mềm khác nhau phục vụ công tác xây dựng,
quản lý và cập nhật dữ liệu địa chính, tin học hoá các quy trình nghiệp vụ
về quản lý đất đai.
Chính vì vậy mà dữ liệu địa chính có vai trò quan trọng trong công
tác quản lý Nhà nước về đất đai và là một loại dữ liệu quan trọng được sử
dụng trong hầu hết các lĩnh vực khác như quy hoạch, xây dựng, giao
thông, nông nghiệp,...Do đó việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính thống
nhất về cấu trúc, nội dung dữ liệu cho phép thực hiện các quy trình
nghiệp vụ quản lý đất đai một cách thống nhất trên toàn quốc, hỗ trợ cho
các lĩnh vực quản lý Nhà nước khác có nhu cầu sử dụng dữ liệu địa chính
được dễ dàng thuận tiện cũng như thúc đẩy việc sử dụng thông tin, dữ
liệu đất đai phục vụ các mục đích phát triển Kinh tế - Xã hội và Quốc

phòng - An ninh.
Khi có cơ sở dữ liệu địa chính thống nhất, việc cung cấp, chia sẻ
thông tin, dữ liệu địa chính không chỉ cho phép tiết kiệm công sức, tiền
của mà còn cho phép thống nhất nguồn dữ liệu giữa các đơn vị cung cấp
thông tin.
Chính vì vậy, được sự phân công của Khoa Trắc Địa Trường đại
học Mỏ Địa Chất và dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Danh Tuyên, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải
pháp chuẩn hóa dữ liệu địa chính tại phường Cẩm Sơn-Thị Xã Cẩm
Phả-Tỉnh Quảng Ninh”
I. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài


6

Trên cơ sở dữ liệu về quản lý đất đai ở Việt Nam, đề tài tiến hành
nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp chuẩn hóa cơ sở dữ liệu địa
chính sau đó tiến hành thực nghiệp tại phường Cẩm Sơn thị xã Cẩm Phả
tỉnh Quảng Ninh. Từ đó đề xuất quy trình xây dựng và quản lý cơ sở dữ
liệu địa chính nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý đất đai .
II. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mục tiêu đề ra của đề tài là rất lớn, tuy nhiên do thời gian và nguồn
lực có hạn, nên trong luận văn này tác giả xin phép được giới hạn đối
tượng và phạm vi
- Nêu ra những phương pháp chuẩn dữ liệu địa chính ở Việt Nam và
đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về nội dung nói trên như sau:nghiên cứu
phương pháp xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu phổ biến nhất.
- Về phạm vi thực nghiệm giới hạn trong địa bàn phường Cẩm
Sơn- thị xã Cẩm phả-tỉnh Quảng Ninh, đại diện cho khu vực đất ở đô thị

đã có dữ liệu bản đồ và hồ sơ địa chính (dữ liệu bản đồ số và hồ sơ địa
chính dạng số).
III. 4. Nội dung nghiên cứu của đề tài

Đề tài gồm các nội dung nghiên cứu sau:
- Tổng hợp, phân tích về thực trạng tình hình dữ liệu bản đồ và hồ
sơ địa chính, chuẩn dữ liệu địa chính và phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu
địa chính ở Việt Nam;
- Nghiên cứu đề xuất quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính từ
nguồn dữ liệu bản đồ và hồ sơ địa chính đã có;
- Khảo sát, thu thập, phân tích dữ liệu bản đồ và hồ sơ địa chính,
thực nghiệm xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính theo qui trình xây dựng cơ
sở dữ liệu được đề xuất nói trên tại Cẩm Sơn thị xã Cẩm phả tỉnh Quảng
Ninh trên cơ sở sử dụng phần mềm VILIS;


7

- Đề xuất qui trình công nghệ xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính
đồng thời đánh giá tính khả thi, sự phù hợp của qui trình xây dựng về
chuẩn hóa dữ liệu địa chính khi triển khai thực tế tại các địa phương.
IV. 5. Phương pháp nghiên cứu.

Để đạt được mục tiêu và nội dung đề tài của luận văn, phương
pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này bao gồm tổng hợp các
phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp tài liệu:
+ Nghiên cứu thực trạng tình hình dữ liệu địa chính, xây dựng cơ
sở dữ liệu và quản lý cơ sở dữ liệu địa chính hiện nay ở Việt Nam;
+ Thu thập các thông tin tư liệu liên quan đến khu vực thực

nghiệm, phân tích, tổng hợp, đánh giá và đề xuất quy trình xây dựng cơ
sở dữ liệu theo dự thảo chuẩn dữ liệu địa chính;
- Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm xây dựng cơ sở dữ liệu
theo quy định chuẩn dữ liệu địa chính;
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến góp ý của giáo viên hướng
dẫn, các nhà khoa học, các đồng nghiệp về các vấn đề trong nội dung
luận văn.
V. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Với mục tiêu và nội dung của đề tài là nghiên cứu đề xuất phương
pháp xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu địa chính theo một số quy định
kỹ thuật về chuẩn dữ liệu địa chính, triển khai tiến hành thực nghiệm thực
tế, đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn đó là thông qua kết quả
nghiên cứu, đề tài sẽ đưa ra quy trình xây dựng và quản lý cơ sở địa
chính, đánh giá được tính khả thi, sự phù hợp của quy định kỹ thuật về
chuẩn dữ liệu địa chính trong thực tế triển khai ở các địa phương.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ được xem xét và áp dụng vào


8

thực tiễn sản xuất, kịp thời phục vụ công tác xây dựng và quản lý cơ sở
dữ liệu địa chính, góp phần hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống cơ sở dữ
liệu địa chính Việt Nam trong thời gian tới.
VI. 7. Cấu trúc của luận văn
VII. Luận văn gồm phần mở đầu và 3 chương, phần kết luận được

trình bày trong 3 trang.
-


Chương 1: gồm 16 trang

-

Chương 2: gồm 38 trang

-

Chương 3: gồm 32 trang

VIII. 8. Lời cảm ơn

Trong quá trình điều tra, nghiên cứu để hoàn thành luận văn, ngoài
sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo
của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo
của cơ quan, đồng nghiệp và nhân dân địa phương.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn trân trọng nhất tới giáo viên hướng dẫn
khoa học TS: Vũ Danh Tuyên tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô
giáo Khoa Trắc Địa - Trường Đại học Mỏ Địa Chất, Trung tâm lưu trữ và
thông tin đất đai-Tổng cục quản lý đất đai, tập thể phòng Tài nguyên và
Môi trường thị xã Cẩm Phả_tỉnh Quảng Ninh, cán bộ địa chính và nhân
dân Phường Cẩm Sơn đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành
luận văn này.

Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!


9



10

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐỊA
CHÍNH
IX. 1.1 Khái niệm về dữ liệu và cơ sở dữ liệu địa chính
1.1.1. Cơ sở dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu

Cơ sở dữ liệu: Tập hợp dữ liệu được lưu trữ trong máy tính theo một
quy định nào đó và được gọi là cơ sở dữ liệu (Database - CSDL). Nó được tổ
chức thuận tiện cho việc sắp xếp, cập nhật, tra cứu, lưu trữ, cung cấp sao cho
chúng được chia sẻ cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Có nhiều cách để tổ
chức cơ sở dữ liệu, trong đó cách phổ biến hiện hay là tổ chức cơ sở dữ liệu
dưới dạng quan hệ. [9]
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu: Phần chương trình có thể xử lý, thay đổi dữ
liệu gọi là hệ quản trị cơ sở dữ liệu (Database management System - DBMS).
Khả năng của Hệ quản trị cơ sở dữ liệu đó là: Khả năng quản lý những
dữ liệu cố định; Khả năng truy xuất có hiệu quả một khối lượng dữ liệu lớn; Hỗ
trợ ít nhất một mô hình dữ liệu mà nhờ đó người sử dụng có thể xem được dữ
liệu; Hỗ trợ một số ngôn ngữ bậc cao cho phép người sử dụng định nghĩa các
cấu trúc dữ liệu, truy xuất và thao tác dữ liệu; Quản lý giao dịch, cho phép
nhiều người sử dụng truy xuất đồng thời và chính xác đến một cơ sở dữ liệu;
Điều khiển các quá trình truy xuất, giới hạn các quá trình truy xuất dữ liệu của
những người không được phép và kiểm tra độ tin cậy của dữ liệu; Các đặc tính
tự thích ứng, là khả năng tự phục hồi lại dữ liệu do sự cố của hệ thống mà
không làm mất dữ liệu.
Cơ sở dữ liệu có một số ưu điểm sau:
- Giảm sự trùng lặp thông tin xuống mức thấp nhất. Do đó đảm bảo
thông tin có tính nhất quán và toàn vẹn dữ liệu.

- Đảm bảo dữ liệu có thể được truy suất theo nhiều cách khác nhau, có
khả năng xử lý một khối lượng dữ liệu lớn trong một khoảng thời gian ngắn.
- Nhiều người có thể sử dụng một cơ sở dữ liệu
1.1.2. Dữ liệu và cơ sở dữ liệu địa chính

Dữ liệu địa chính: là dữ liệu không gian địa chính, dữ liệu thuộc tính địa


11

chính và các dữ liệu khác có liên quan.
Dữ liệu không gian địa chính: là dữ liệu về vị trí, hình thể của thửa đất,
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; dữ liệu về hệ thống thủy văn; hệ thống
đường giao thông; dữ liệu về điểm khống chế; dữ liệu về biên giới, địa giới; dữ
liệu về địa danh và ghi chú khác; dữ liệu về đường chỉ giới và mốc giới quy
hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch giao thông và các loại quy
hoạch khác, chỉ giới hành lang an toàn bảo vệ công trình.
Dữ liệu thuộc tính địa chính: là dữ liệu về người quản lý, người sử dụng
đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, tổ chức và cá nhân có
liên quan đến các giao dịch về đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
dữ liệu thuộc tính về thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; dữ liệu về
tình trạng sử dụng của thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; dữ liệu
về quyền và nghĩa vụ trong sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất; dữ liệu giao dịch về đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Cơ sở dữ liệu địa chính: là tập hợp thông tin có cấu trúc của dữ liệu địa
chính.
X. 1.2. Thực trạng tình hình dữ liệu bản đồ và hồ sơ địa chính
1.2.1. Tình hình xây dựng hồ sơ địa chính

Việc xây dựng hồ sơ địa chính có thể tóm tắt thành một số giai đoạn sau:

Từ năm 1989, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được chính
thức được thực hiện. Cùng với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
việc xây dựng hồ sơ địa chính được chú trọng thực hiện trên cơ sở rà soát, hoàn
thiện hồ sơ đăng ký ruộng đất lập trong giai đoạn từ 1981-1988. [7]
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, việc rà soát hồ sơ đăng ký ruộng
đất lập theo Chỉ thị 299/TTg đã phát hiện quá nhiều sai sót, tồn tại; hơn nữa hệ
thống chính sách đất đai lúc đó lại đang trong quá trình đổi mới làm cho hiện
trạng sử dụng đất biến động rất mạnh mẽ so với bản đồ và sổ sách đăng ký đã
lập trước đó.
Vì vậy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xây dựng hồ sơ
địa chính ở các địa phương thực hiện trong thời gian này thực hiện rất chậm;


12

hầu hết các địa phương phải tổ chức đo đạc chỉnh lý lại bản đồ giải thửa hoặc
đo vẽ mới bản đồ giải thửa theo tọa độ độc lập; tổ chức kê khai đăng ký và xét
duyệt lại để cấp giấy chứng nhận và lập lại hồ sơ địa chính. Hồ sơ địa chính
giai đoạn này chủ yếu lập theo mẫu quy định tại Quyết định số 56/ĐKTK; song
bên cạnh đó, nhiều địa phương tự quy định các mẫu sổ sách mới dùng trong
đăng ký đất để đáp ứng yêu cầu thay đổi của tình hình thực tế. Các hồ sơ này,
đến nay nhiều địa phương đã chuyển đổi sang mẫu quy định mới, song vẫn còn
một số xã, huyện đang tiếp tục sử dụng. Việc đo vẽ bản đồ địa chính theo hệ
tọa độ thống nhất bắt đầu được triển khai thực hiện theo Quy phạm đo vẽ bản
đồ địa chính tỉ lệ 1/1000, 1/2000, 1/5000 ban hành kèm Quyết định số 220/QĐTCQLRĐ ngày 01 tháng 7 năm 1991 của Tổng cục Quản lý ruộng đất.
Từ sau Luật đất đai 1993, ruộng đất nông, lâm nghiệp được giao ổn
định lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân; người sử dụng đất được hưởng các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp QSDĐ... Do đó,
việc cấp GCN trở thành yêu cầu cấp bách phục vụ cho quản lý đất đai của Nhà
nước và quyền lợi của người sử dụng đất. Công tác đăng ký đất đai, lập hồ sơ

địa chính và cấp GCN bắt đầu được các địa phương tập trung chỉ đạo triển khai
mạnh.
Để phù hợp với yêu cầu quản lý đất đai theo Luật Đất đai năm 1993,
Tổng cục Địa chính đã sửa đổi hoàn thiện để ban hành chính thức 4 loại sổ mới
(gồm sổ địa chính, sổ mục kê, sổ cấp GCN và sổ theo dõi biến động đất đai), hệ
thống đăng ký đất đã có sự thay đổi cơ bản về nội dung dữ liệu đất đai. Quy
định này đã được các địa phương triển khai áp dụng rộng rãi, liên tục đến năm
2004. Các tài liệu hồ sơ địa chính lập theo quy định này, hiện vẫn đang được sử
dụng ở hầu hết các địa phương và chiếm tỷ lệ chủ yếu trong hệ thống hồ sơ địa
chính đã lập của cả nước hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu quản lý Tổng cục Địa
chính ban hành Quy phạm thành lập bản đồ địa chính và Ký hiệu bản đồ địa
chính tỷ lệ 1:500, 1:1000, 1:2000, 1:5000, 1:10000 và 1:25000 theo Quyết định
số 719/1999/QĐ-ĐC và Quyết định 720/1999/QĐ-ĐC (thay thế Quy phạm năm


13

1991).
Từ khi Luật Đất đai năm 2003 ban hành có hiệu lực, Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã ban hành Quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. Theo quy định này, mẫu
giấy chứng nhận mới đã có sự thay đổi căn bản: cấp theo từng thửa đất và được
cấp thành 2 bản để lưu 1 bản tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, nội
dung trên giấy chứng nhận có đầy đủ thông tin như trên hồ sơ địa chính nhưng
được ghi cụ thể bằng tên gọi đối với tất cả các nội dung mà không ghi bằng ký
hiệu như trước đây. Hồ sơ địa chính vẫn bao gồm bản đồ địa chính, sổ địa
chính, sổ mục kê đất đai, sổ theo dõi biến động đất đai và được lập 3 bộ, để sử
dụng ở 3 cấp xã, huyện, tỉnh như trước đây. Ngoài ra, việc xây dựng hồ sơ địa
chính dạng số bắt đầu được chỉ đạo thực hiện với chủ trương để thay thế dần
cho hồ sơ địa chính trên giấy; tuy nhiên tại thời điểm này, do điều kiện ứng

dụng công nghệ chưa phát triển, nên Bộ vẫn chỉ đạo các địa phương tiếp tục lập
hồ sơ địa chính dạng giấy (kể cả nơi đã triển khai xây dựng hồ sơ địa chính
dạng số).
Theo quy định hiện nay, mẫu và nội dung dữ liệu địa chính trên hồ sơ
địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thay đổi so với các văn
bản quy định trong năm 2004, tuy nhiên giấy chứng nhận có thể được sử dụng
để cấp chung một giấy cho nhiều thửa đất sản xuất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân; đặc biệt bản lưu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xác
định là một bộ phận và là tài liệu pháp lý quan trọng trong hồ sơ địa chính.
Ngoài ra theo quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT các địa phương
xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính (hồ sơ địa chính dạng số) sẽ không phải lập
hồ sơ địa chính trên giấy để sử dụng ở các cấp tỉnh, huyện như trước đây. Cơ
sở dữ liệu địa chính trở thành mục tiêu của chủ yếu việc đăng ký đất đai phải
hoàn thành trên phạm vi cả nước từ nay đến năm 2020.
Việc ứng dụng công nghệ trong việc lập hồ sơ địa chính dạng số (cơ sở
dữ liệu địa chính) theo Thông tư 24/2014/TT-BTNMT đã bắt đầu được triển


14

khai thực hiện ở hầu hết các tỉnh. Song phần lớn các tỉnh thực hiện còn ít, chủ
yếu ở quy mô làm điểm một số xã, huyện do còn nhiều bất cập về thiết bị, năng
lực công nghệ, đặc biệt chưa có phần mềm hoàn chỉnh.
Việc áp dụng phần mềm ở các địa phương hiện nay không thống nhất,
mỗi tỉnh sử dụng một phần mềm khác nhau, thậm chí một số tỉnh còn có sự
khác nhau phần mềm giữa cấp tỉnh và cấp huyện.
Đa số các địa phương đã sử dụng công nghệ để lập hồ sơ địa chính
nhưng chưa được kết nối tự động giữa các cấp; thậm chí nhiều địa phương chỉ
được khai thác sử dụng ở một cơ quan nơi đã thực hiện mà chưa sao cho các
cấp sử dụng. Việc cập nhật, chỉnh lý biến động thường xuyên vào cơ sở dữ liệu

hồ sơ địa chính cũng chưa được thực hiện đầy đủ, không thống nhất giữa các
cấp .
Chất lượng hồ sơ địa chính đã lập còn nhiều sai sót, không đúng quy
định. Hồ sơ địa chính sử dụng nhiều loại tài liệu đo đạc có chất lượng khác
nhau.
1.2.2. Thực trạng dữ liệu bản đồ và hồ sơ địa chính

1. Về nội dung bản đồ địa chính
Do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện từ năm
1989, trong điều kiện hầu hết các địa phương chưa đo vẽ bản đồ địa chính, tiến
độ đo vẽ bản đồ địa chính rất chậm, nên kết quả cấp giấy chứng nhận và lập hồ
sơ địa chính hiện nay chủ yếu phải sử dụng các loại bản đồ giải thửa đo đạc
theo Chỉ thị 299/TTg, bản vẽ trích đo thửa đất…Nội dung dữ liệu của các loại
bản đồ, sơ đồ nói trên như sau:
- Bản đồ giải thửa là loại bản đồ chủ yếu sử dụng cho việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trong giai đoạn 1991-2000 ở các địa phương,
bản đồ giải thửa thường được đo theo lưới tọa độ độc lập (có thể lập cho phạm
vi từng xã hoặc từng khu dân cư, từng cánh đồng). Trên bản đồ giải thửa hầu
như không thể hiện các điểm khống chế tọa độ và độ cao. Độ chính xác của bản
đồ này còn hạn chế; việc ghép nối giữa các tờ bản đồ hầu như không thể thực
hiện được.


15

Nội dung bản đồ giải thửa chỉ biểu thị một số nội dung chủ yếu như thửa
đất, địa giới hành chính, giao thông, thủy hệ, một số địa vật, địa danh và một số
thông tin khác; trong đó thửa đất là nội dung quan trọng nhất của bản đồ giải
thửa thể hiện các yếu tố: ranh giới thửa đất, số thứ tự thửa đất, loại đất, diện
tích thửa đất. Hầu hết các bản đồ loại này không có yếu tố địa hình và nội dung

quy hoạch sử dụng đất hầu như chưa được thể hiện.
- Bản đồ địa chính được thành lập theo các quy phạm thành lập bản đồ
địa chính do Tổng cục Quản lý ruộng đất, Tổng cục Địa chính, Tổng cục Quản
lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành (gồm các quy phạm ban
hành vào các năm 1991, 1995 và 1999, 2008,2013); được triển khai thực hiện
từ năm 1991 đến nay.
Bản đồ địa chính được thành lập trên cơ sở toán học gồm: ê-líp-xô-ít
quy chiếu, hệ tọa độ nhà nước, lưới chiếu, múi chiếu, các tham số khác. Trên
bản đồ theo quy định phải có đầy đủ các điểm toạ độ, độ cao nhà nước các cấp
hạng, điểm địa chính, điểm độ cao kỹ thuật; điểm khống chế ảnh ngoại nghiệp,
điểm khống chế đo vẽ. Các giá trị tọa độ, độ cao được biểu thị là tọa độ, độ cao
quốc gia theo hệ tọa độ HN-72 hoặc VN-2000.
Nội dung bản đồ địa chính biểu thị một số nội dung chủ yếu về địa giới
hành chính các cấp, các yếu tố quy hoạch và hành lang an toàn công trình, các
thông tin thửa đất, các đối tượng theo tuyến, yếu tố địa hình, các yếu tố địa vật.
Ngoài các yêu tố trên, trong bản đồ địa chính còn có các ghi chú: ghi chú về địa
danh, xứ đồng, tên gọi các công trình, tên các cơ quan, đơn vị sử dụng đất để
phục vụ việc nhận dạng, định hướng khi sử dụng bản đồ. Mức độ biểu thị các
ghi chú này tùy thuộc vào từng địa phương và nhìn chung chưa thống nhất.
2. Về nội dung hồ sơ địa chính
- Hệ thống dữ liệu hồ sơ địa chính đã thiết lập, đang có giá trị sử dụng
hiện nay trên phạm vi cả nước là rất đa dạng, không thống nhất giữa các loại
mẫu quy định ở các thời gian khác nhau. Các loại mẫu ban hành càng về sau
càng có nhiều nội dung, yêu cầu thể hiện thông tin ngày càng đòi hỏi chặt chẽ.


16

Trong đó, các tài liệu hồ sơ địa chính xây dựng theo các quy định trước trước
năm 2005, nhìn chung không có đủ nội dung theo yêu cầu quản lý đất đai hiện

nay:
- Mẫu sổ địa chính ban hành theo Quyết định số 56/RĐ- ĐKTK (1981)
thiếu nhiều thông tin: Các thông tin bổ trợ cho việc xác định tên hộ gia đình, cá
nhân (năm sinh, họ tên vợ/chồng, giấy CMND); thời hạn sử dụng đất; mục đích
sử dụng đất; số vào sổ cấp GCN; những ràng buộc quyền sử dụng đất khi đăng
ký; nguồn gốc sử dụng đất; tài sản gắn liền với đất và đặc biệt hạn chế trong
việc cập nhật, chỉnh lý biến động. Việc chuyển đổi loại sổ này sang mẫu mới
thống nhất là hết sức cấp thiết mới đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai.
- Mẫu sổ địa chính ban hành theo Quyết định số 499/QĐ-TCĐC còn
thiếu các thông tin: nguồn gốc sử dụng đất (được Nhà nước giao có thu tiền
hay không thu tiền; Nhà nước cho thuê đất trả tiền hàng năm hay trả một lần,
Nhà nước công nhận quyền sử dụng,…), giá đất, Tình hình thực hiện nghĩa vụ
tài chính (Ghi nợ và tình hình trả nợ; miễn hoặc giảm nghĩa vụ tài chính), số
phát hành GCN.
- Mẫu sổ Mục kê đất ban hành theo Quyết định số 56/RĐ- ĐKTK và
Quyết định số 499/QĐ-TCĐC còn thiếu các thông tin: hệ thống thông tin mục
đích sử dụng đất theo GCN được cấp, mục đích sử dụng đất theo quy hoạch;
- Hệ thống các loại đất (mục đích sử dụng đất) đã có nhiều thay đổi
(theo Quyết định số 56/RĐ- ĐKTK có 51 loại, theo Quyết định số 499/QĐTCĐC có 32 loại chi tiết, theo Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT có 47 loại,
theo Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT hiện hành còn 38 loại; trong đó đặc biệt
là các loại đất trong nhóm đất chuyên dùng có xu hướng ngày càng phân chi
tiết hơn (Quyết định số 56/RĐ- ĐKTK có 6 loại đất, Quyết định số 499/QĐTCĐC có 11 loại, Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT hiện hành là 28 loại.
Riêng loại đất xây dựng và đất chuyên dùng khác trước đây, nay được xác định
lại thành 12 loại khác nhau phải điều tra thực tế mới điều chỉnh lại được.
- Loại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở còn


17

chưa thống nhất nội dung giữa loại giấy theo Nghị định số 60/CP và giấy theo

Nghị định số 90/2006/NĐ-CP; đặc biệt nội dung về đất còn thiếu nhiều thông
tin theo yêu cầu của quản lý đất đai (nguồn gốc sử dụng đất, thời hạn sử dụng,
những hạn chế quyền sử dụng, nghĩa vụ tài chính về đất đai).
- Việc thể hiện các nội dung thông tin trên từng loại tài liệu hồ sơ địa
chính ở nhiều địa phương còn chưa đầy đủ, chưa đúng theo quy định (như
thông tin về tên người sử dụng đất đối với trường hợp của hộ gia đình, về mục
đích sử dụng đất, thời gian sử dụng đất); nhất là các trường hợp hồ sơ thiết lập
trước năm 2005.
- Tình trạng sai sót, nhầm lẫn trong việc thể hiện nội dung thông tin trên
các tài liệu hồ sơ địa chính còn rất lớn và phổ biến ở nhiều địa phương.
XI. 3. Thực trạng về chuẩn dữ liệu địa chính ở Việt nam

Trước năm 2010.
Hệ thống quản lý đất đai Việt Nam hoạt động theo mô hình phân cấp.
Các tỉnh chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động quản lý đất đai ở địa phương
theo chỉ đạo và hướng dẫn kỹ thuật của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Thời gian qua do chưa xây dựng được một “Chuẩn” về dữ liệu địa chính
chính thức để áp dụng thống nhất trên toàn quốc vì vậy các địa phương đã thiết
lập và duy trì dữ liệu địa chính với cấu trúc và nội dung không đồng nhất.
Có thể tóm tắt thành một số giai đoạn sau:
- Thời kỳ đo đạc lập bản đồ địa chính và hồ sơ địa chính trước năm 1954
ở Miền Bắc và trước năm 1975 ở Miền Nam: bản đồ và hồ sơ địa chính chủ
yếu ở dạng giấy và với nội dung tương đối đơn giản mục đích xác định được
diện tích đất đai, chủ sử dụng (sở hữu) làm công cụ để thu thuế là cơ bản. Bản
đồ chủ yếu được vẽ dưới dạng sơ đồ hoặc bình đồ không có tọa độ hoặc theo
tọa độ giả định của địa phương.
- Thời kỳ đo đạc lập bản đồ, hồ sơ địa chính theo Chỉ thị 299/TTg của
Thủ tướng Chính phủ: Thời kỳ này chủ yếu bản đồ được lập theo tọa độ địa
phương hoặc hệ tọa độ Nhà nước HN-72. Phần lớn bản đồ được lưu trữ ở dạng



18

giấy, trên đế phim Diamat hoặc sao lưu bằng phương pháp in ÔZalit. Các bản
đồ này chủ yếu hiện đang lưu trữ tại kho lưu trữ thuộc Trung tâm Thông tin tài
nguyên môi trường thuộc sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh. Một khối
lượng nhỏ được sao lưu để sử dụng tại cấp huyện.
- Thời kỳ hậu 299 đến trước năm 1999: Các địa phương đã bắt đầu ứng
dụng công nghệ số để thành lập bản đồ địa chính tùy thuộc vào khả năng về
kinh phí và trình độ cán bộ của từng địa phương. Khuôn dạng của bản đồ và hồ
sơ địa chính rất đa dạng. Bản đồ chủ yếu ở khuôn dạng của phần mềm
AutoCad, ITR, một phần ở khuôn dạng của MapInfo… và chủ yếu ở hệ tọa độ
HN-72; hồ sơ địa chính chủ yếu được quản lý ở dạng CSDL trong Foxpro.
- Sau năm 1999 khi Tổng cục Địa chính ban hành áp dụng phần mềm
FAMIS cho công tác thành lập bản đồ địa chính, bản đồ địa chính đã cơ bản
thống nhất một khuôn dạng của phần mềm Microstation và Hồ sơ địa chính đã
cơ bản theo phần mềm CadDB. Tuy nhiên, trong thời gian này do phần mềm
lập hồ sơ địa chính chưa hoàn thiện và không đáp ứng được các yêu cầu có tính
đặc thù của địa phương nên vẫn còn có nhiều địa phương tiếp tục sử dụng các
phần mềm do tự phát triển để xây dựng hồ sơ địa chính sau đó chuyển đổi sang
khuôn dạng của CadDB và cơ bản bản đồ vẫn xây dựng trên hệ tọa độ HN-72.
- Sau năm 2000 khi ban hành hệ tọa độ VN-2000 và các phần mềm
trong đăng ký đất đai đã phần nào được hoàn thiện và nâng cấp như phần mềm
CILIS, PLIS, ViLIS, ELIS, CCAD&CDATA…được đưa vào sử dụng. Khoảng
trên 30 tỉnh sử dụng theo CILIS, 20 tỉnh theo khuôn dạng ViLIS, một số tỉnh sử
dụng cả hai khuôn dạng, số tỉnh còn lại sử dụng theo các phần mềm do đơn vị
thi công tự lập hoặc theo phần mềm của địa phương. Đến năm 2007 khi Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành Quyết định số 221/2007/QĐ-BTNMT quy
định sử dụng thống nhất phần mềm ViLIS trong các Văn phòng đăng ký quyển
sử dụng đất thì việc xây dựng hồ sơ địa chính chủ yếu sử dụng phần mềm nói

trên. Tuy nhiên, phần mềm CILIS và ELIS vẫn được tiếp tục triển khai song
hành, đặc biệt là các tỉnh có sự tài trợ của Chương trình SEMLA.


19

Tóm lại, do sự thiếu thống nhất như đã nêu ở trên đã để lại kết quả là hồ
sơ địa chính và bản đồ được thiết lập ở rất nhiều dạng khác nhau nên đã gây
khó khăn trong việc tích hợp dữ liệu khi xây dựng một cơ sở dữ liệu thống nhất
để có thể chia sẻ thông tin không những trong nước mà với cả các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Thêm vào đó, việc thiếu một chuẩn dữ liệu và quy trình tác nghiệp trong
thiết lập và duy trì dữ liệu địa chính sẽ khiến cho công tác quản lý đất đai trở
nên không thống nhất giữa các tỉnh.
Định hướng của Bộ Tài nguyên và Môi trường là xây dựng một Hệ
thống thông tin đất đai thống nhất toàn quốc. Để có thể có một CSDL đất đai
thống nhất có thể tích hợp được từ các CSDL đất đai thành phần tại các Sở
TN&MT, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng và ban hành một chuẩn dữ
liệu địa chính thống nhất trong cả nước.
Trong bất kỳ một CSDL được đưa vào sử dụng chung đều phải tiến
hành chuẩn hoá dữ liệu. Có như vậy việc khai thác dữ liệu mới có thể chia sẻ
cho nhiều đối tượng sử dụng, việc hiện chỉnh dữ liệu từ nhiều nguồn mới đảm
bảo tính thống nhất.
Ngoài ra còn thêm một số dữ liệu từ các nguồn ở các cơ quan điều tra cơ
bản khác. Người sử dụng rất đa dạng từ ngành quản lý đất đai cả trung ương và
các cấp địa phương, các cơ quan quản lý Nhà nước, các bộ ngành khác, từ các
tổ chức trong nước và ngoài nước, từ các đối tượng là cư dân có nhu cầu. Trong
bối cảnh như vậy việc chuẩn hoá dữ liệu, hệ thống thiết bị, tổ chức quản lý phải
rất thống nhất.
Cơ sở dữ liệu đất đai là một trong bảy CSDL quốc gia trong chương

trình ứng dụng công nghệ thông tin của Chính phủ. Để có thể tích hợp và trao
đổi dữ liệu giữa các CSDL quốc gia với nhau, cần thiết phải xây dựng chuẩn
hoá cho từng CSDL thành phần.
Hiện nay tập hợp dữ liệu của ngành quản lý đất đai đã khá lớn. Một
phần ở dạng truyền thống trên giấy, một phần ở dạng số như trong nhiều định


20

dạng khác nhau, một phần đã ở dạng thống nhất theo định hướng của Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Vấn đề đặt ra là phải xem xét biện pháp chuẩn hoá dữ
liệu như thế nào để thu được một CSDL thống nhất. Các vấn đề cần giải quyết
như sau:
- Xây dựng cơ sở dữ liệu theo quy định kỹ thuật chuẩn thống nhất cho
dữ liệu địa chính.
- Xây dựng quy trình thống nhất để chuyển các dữ liệu cũ về dạng chuẩn
đã định; xây dựng quy trình thống nhất về thu thập dữ liệu để có được các dữ
liệu chuẩn.
XII. 1.2.3 Hiện trạng phần mềm xây dựng, quản lý, cập nhật cơ sở dữ liệu địa chính

Hiện nay nhiều địa phương đã ứng dụng công nghệ thông tin để xây
dựng, lưu trữ, quản lý, cập nhật cơ sở dữ liệu đất đai, nhưng công nghệ khác
nhau, việc thiếu quy định về chuẩn dữ liệu đã gây khó khăn cho công tác tổng
hợp và lưu trữ thông tin. [8]
1. Phần mềm xây dựng bản đồ địa chính
Hiện tại, các doanh nghiệp thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Sở
Tài nguyên và Môi trường và các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh
vực đo đạc bản đồ đang sử dụng các phần mềm được xây dựng từ các dự án
của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các doanh nghiệp tư nhân:
- Phần mềm FAMIS: Tác giả (Đinh Hồng Phong) phần mềm này được

xây dựng từ khá sớm trong giai đoạn đầu ứng dụng công nghệ số vào công tác
đo đạc và thành lập bản đồ địa chính. Phần mềm này được cung cấp miễn phí
cho các doanh nghiệp, các Sở Tài nguyên và Môi trường để ứng dụng thành lập
bản đồ địa chính;
- Phần mềm eMap: phần mềm này được xây dựng bởi công ty TNHH
Tin học eK. Phần mềm này hiện đang được sử dụng rộng rãi tại các doanh
nghiệp của Bộ, các công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực đo đạc bản đồ và
một số Sở Tài nguyên và Môi trường;


21

- Phần mềm CESMAP: phần mềm này được xây dựng trong môi trường
AutoCAD bởi công ty Địa chính công trình;
- Phần mềm CADAS: phần mềm được xây dựng bởi công ty TNHH Tin
học Hài Hoà. Phần mềm này chủ yếu được sử dụng trong công tác đo đạc, đền
bù giải phóng mặt bằng;
2. Phần mềm xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu
- Phần mềm CiLIS, ELIS: Các phần mềm được xây dựng bởi Cục Công
nghệ thông tin, Bộ Tài nguyên Môi trường;
- Phần mềm ViLIS: phần mềm được xây dựng bởi Trung tâm ứng dụng
và Phát Triển công nghệ địa chính- Tổng cục Quản lý đất đai.

- Phần mềm TMV.LIS: phần mềm được xây dựng bởi Công ty cổ phần
công nghệ thông tin địa lý eK ( Tổng công ty tài Nguyên & Môi Trường.)
- phần mềm Microstation

Mapping Office là một phần mềm mới nhất của tập đoàn
INTERGRAPH bao gồm các phần mềm công cụ phục vụ cho công việc
xây dựng và duy trì toàn bộ các đối tượng địa lý dưới dạng đồ họa:

IRASB, IRASC, GEOVEC. Các file dữ liệu dạng này được sử dụng làm
đầu vào cho các hệ thống thông tin địa lý hoặc các hệ quản trị dữ liệu bản
đồ. Các phần mềm ứng dụng của Mapping Office được tích hợp trong
một môi trường đò họa thống nhất MicroStation để tạo nên một bộ các
các công cụ mạnh và linh hoạt phục vụ cho việc thu thập và xử lý các đối
tượng đồ họa. Đặc biệt trong lĩnh vực biên tập và trình bày bản đồ, dựa
vào rất nhiều tính năng mở của MicroStation cho phép người thiết kế sử
dụng các ký hiệu dạng điểm, dạng đường, dạng vùng và rất nhiều các
phương pháp trình bày bản đồ được coi là khó sử dụng với các phần mềm
khác (AutoCAD, Mapinfo…) lại được sử dụng dễ dàng trong
MicroStation. Ngoài ra, các file dữ liệu của các bản đồ cùng loại được tạo
dựa trên nền một file chuẩn (seedfile) được định nghĩa đầy đủ các thông


22

số toán học bản đồ, hệ đơn vị đo được tính toán theo giá trị thật ngoài
thực địa làm tăng giá trị chính xác và thống nhất giữa các file bản đồ.
MicroStation là một phần mềm trợ giúp thiết kế (CAD) và là môi
trường đồ họa rất mạnh cho phép xây dựng và quản lý các đối tượng đồ
họa thể hiện các yếu tố bản đồ.
-Phần mềm VILIS.
-Phần mềm ViLIS được lập trình phát triển trên một số công nghệ nền
của các phần mềm thương mại. Các công nghệ nền được sử dụng trong hệ
thống phần mềm ViLIS bao gồm:
-

Hệ quản trị cơ sở dữ liệu ORACLE Standard và SLQ server sử dụng để lưu trữ
cho cơ sở dữ liệu đất đai cấp tỉnh;


-

Hệ quản trị cơ sở dữ liệu SQLserver sử dụng để lưu trữ cho các cơ sở dữ liệu
đất đai ở cấp huyện.
Phần mềm ViLIS là một phần mềm hệ thống thông tin đất đai đa mục
tiêu. Mục tiêu chính của ViLIS là cung cấp hệ thống phần mềm để tạo ra một
môi trường làm việc hiện đại và thống nhất cho công tác quản lý đất đai. Phần
mềm ViLIS bao gồm nhiều phân hệ. Các phân hệ chính của phần mềm ViLIS
bao gồm:
- Phân hệ Quản trị người sử dụng và quản trị hệ thống: phân hệ thực
hiện chức năng quản trị, phân quyền người sử dụng đối với hệ thống, có chức
năng cho phép thêm mới, xoá bỏ người sử dụng của hệ thống; phân quyền cho
từng người sử dụng trong hệ thống;
- Phân hệ Quản trị cơ sở dữ liệu: Phân hệ thực hiện chức năng quản trị
cơ sở dữ liệu: cho phép thiết lập cơ sở dữ liệu, sao lưu, phục hồi cơ sở dữ liệu;
chuyển đổi cơ sở dữ liệu từ các phần mềm khác vào cơ sở dữ liệu được sử dụng
cho phần mềm ViLIS 2.0.
- Phân hệ Kê khai đăng ký: Cung cấp các chức năng chính phục vụ tác
nghiệp của các Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, huyện theo
quy định hiện hành về lập, chỉnh lý và quản lý hồ sơ địa chính.


23

- Phân hệ Biên tập bản đồ: Thực hiện chức năng quản lý bản đồ: hiển thị
bản đồ địa chính, kiểm tra tính đồng nhất, đảm bảo tính đúng đắn, tránh dư
thừa dữ liệu của cơ sở dữ liệu bản đồ; thực hiện các thao tác bản đồ: chia tách
thửa đất, gộp thửa đất, thay đổi hình dạng thửa (biên tập bản đồ địa chính).
- Phân hệ Tra cứu tìm kiếm: Cung cấp các chức năng về tra cứu tìm
kiếm trên hệ thống, trên mạng internet, trên mạng diện rộng intranet.

- Phân hệ Quản trị danh mục: Thực hiện các chức năng quản trị cập nhật
danh mục thư viện của hệ thống như danh mục mục đích sử dụng; danh mục
đối tượng sử dụng; danh mục tờ bản đồ; danh mục hệ toạ độ; danh mục địa
danh hành chính tỉnh, huyện, xã.
- Phân hệ Hồ sơ địa chính: Cung cấp chức năng về việc thành lập và in
ấn các sổ sách địa chính, in ấn bản đồ địa chính sau khi được cập nhật.
- Phân hệ Quản lý kho hồ sơ địa chính: Thực hiện các chức năng về lưu
trữ hồ sơ địa chính theo các thời kỳ, đảm bảo quản lý hồ sơ lịch sử thửa đất.
Bộ phần mềm ViLIS hiện đang được triển khai và ứng dụng tại các Văn

phòng Đăng ký đất đai các địa phương.
*( Phần mềm Famis, phần mềm Microstation, Phần mềm VILIS là
những phần mềm chính để xây dựng cơ sở dữ liệu).


24

Chương 2
QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐỊA CHÍNH
XIII. 2.1. Nguồn tư liệu sử dụng

Trải qua các giai đoạn khác nhau tư liệu sử dụng phục vụ công tác quản
lý Nhà nước về đất đai ở các địa phương có nhiều loại khác nhau và có thể khái
quát như sau:
2.1.1. Dữ liệu không gian địa chính

Dữ liệu không gian gồm các Bản đồ địa chính chính quy thành lập theo
hệ tọa độ HN-72 hoặc hệ tọa độ VN-2000. Việc thành lập bản đồ địa chính
chính quy được thực hiện theo quy trình, quy phạm nên chất lượng bản đồ đáp
ứng được các yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước về đất đai.

- Bản đồ địa chính dạng số, lưu trữ trong định dạng phần mềm
MicroStation (DGN), định dạng phần mềm AutoCAD (DWG) hoặc định dạng
phần mềm Mapinfo (Tab)...
- Bản đồ địa chính dạng giấy.
Tùy theo thời gian được thành lập, các bản đồ địa chính nói trên được


25

thành lập theo một trong các quy phạm sau:
- Thông tư 55/2013/ TT- BTNMT quy định về thành lập bản đồ địa
chính.
- Thông tư 25/2014/TT-BTNMT quy định về bản đồ địa chính.
2.1.2. Dữ liệu hồ sơ địa chính.

Dữ liệu thuộc tính gồm các loại cơ bản sau: Hồ sơ dạng số, dưới dạng
các Sổ bộ địa chính, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dạng số hoặc dưới
các định dạng dữ liệu của một số phần mềm hỗ trợ xây dựng, quản lý hồ sơ địa
chính như CiLIS, ViLis, ELIS, eCadas,...
- Hồ sơ dạng giấy, dưới dạng các Sổ bộ địa chính, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất dạng giấy hoặc bộ hồ sơ đăng ký đất đai dạng giấy đang
được lưu trữ và quản lý tại các cơ quan quản lý về đất đai.
Các hồ sơ này bao gồm:
- Sổ tiếp nhận và trả kết quả đăng ký, cấp GCN quyền sử đụng đât,

quyền sử hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Sổ Địa chính (sổ địa chính điện tử).
- Sổ Mục kê.
- Sổ cấp GCN quyền sử đụng đất, quyền sử hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất.

- Sổ Theo dõi biến động đất đai.
- Bản lưu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Bộ hồ sơ lưu (đơn đăng ký, giấy tờ pháp lý về quyền...).
Tùy theo thời gian thành lập mà các hồ sơ nói trên được thành lập theo
các thông tư hướng dẫn sau:
- Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30 tháng 11 năm 2001 hướng
dẫn việc đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất;
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 hướng
dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính;
- Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 08 năm 2007 hướng


×