Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.36 KB, 13 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Cao Minh Kiểm*
1. MỞ ĐẦU
Cho đến nay, Việt Nam đã hình thành một mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN với
hàng trăm cơ quan thông tin KH&CN công lập hoạt động ở Trung ương, các Bộ/ngành, các tổng
công ty, các địa phương và các đơn vị cơ sở. Sản phẩm mà mạng lưới các tổ chức này cung cấp
cho người dùng tin và xã hội rất đa dạng và phong phú, bao gồm những sản phẩm truyền thống
như ấn phẩm, các bộ phiếu tra cứu thủ công cho tới các CSDL, các Website, các bản tin điện tử,
các băng hình, đĩa hình với âm thanh, hình ảnh động. Phương thức phục vụ thông tin cũng hết
sức linh hoạt, đa dạng: từ thủ công cho tới tự động hoá và phục vụ on-line/ trực tuyến, thuê bao
nguồn tin trên Internet. Mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin này đã góp phần nhất định vào
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ (KH&CN), đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền truyền thông (CNTT&TT) trong những
thập kỷ gần đây đã tác động sâu sắc đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và hoạt động thông
tin KH&CN nói riêng. Người ta đã đề cập đến việc chuyển đổi của thế giới từ kỷ nguyên công
nghiệp sang kỷ nguyên thông tin với kinh tế tri thức, xã hội thông tin. Trong bối cảnh đó, hoạt
động thông tin khoa học và công nghệ đang có những thay đổi quan trọng, đòi hỏi hoạt động này
cũng phải được điều chỉnh phù hợp. Trong bài này, chúng tôi trình bày một số định hướng cho
hoạt động này trong thời gian tới.
2. MỘT SỐ NÉT VỀ HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC THÔNG TIN KH&CN VIỆT NAM
2.1 Mạng lưới các tổ chức thông tin KH&CN Việt Nam
Ở Việt Nam, hoạt động thông tin KH&CN được cho là bắt đầu triển khai từ cuối những năm 50
của thế kỷ XX khi thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Chúng ta có thể phân chia một cách
khái quát quá trình đó thành 4 giai đoạn [7].
- Giai đoạn mở đầu (1959-1972)
- Giai đoạn hình thành và phát triển Hệ thống (1972-1986)
- Giai đoạn đổi mới hoạt động thông tin KH&CN (1986-1996)
- Giai đoạn phát triển phục vụ CNH và HĐH (Từ 1996 đến nay)
Công tác thông tin KH&CN trong thời gian vừa qua đã đạt được những kết quả đáng kể như:
- Mạng lưới tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN quốc gia đã hình thành và phát triển rộng khắp


trên cả nước
- Nguồn tin KH&CN được phát triển đáng kể, cơ bản đáp ứng những nhu cầu cơ bản về thông tin
KH&CN của đất nước
*

Phó Giám đốc, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia


- Công tác phục vụ thông tin đã có bước phát triển mới về chất, đã bám sát được định hướng phát
triển của Đảng và Nhà nước, đáp ứng tốt yêu cầu thông tin của người dùng tin; Hệ thống sản
phẩm và dịch vụ thông tin được phát triển đa dạng;
- Trình độ công nghệ của nhiều tổ chức thông tin KH&CN trong Hệ thống đã được phát triển và
nâng cao. Nhiều tổ chức thông tin KH&CN đã áp dụng những CNTT và truyền thông tiên tiến,
những trang thiết bị hiện đại; Đã hình thành được nhiều mạng thông tin KH&CN, các thư viện
điện tử phục vụ hiệu quả cho quản lý, kinh doanh, nghiên cứu và phát triển, nâng cao dân trí;
- Đội ngũ cán bộ thông tin chuyên nghiệp được hình thành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đã
được nâng cao và có bước phát triển đáng kể
- Hợp tác quốc tế được mở rộng.
Ngày 31/8/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định 159/2004/NĐ-CP về công tác thông tin
KH&CN, trong đó đề cập khái niệm khái niệm "Mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin
KH&CN" thay cho “Hệ thống thông tin KH&CN Quốc gia". Cho đến nay, chúng ta đã tạo lập
được mạng lưới tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN công lập gồm [4]:
- Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ là
đầu mối liên kết trung tâm của mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ.
- Khoảng 40 tổ chức thông tin KH&CN cấp Bộ/ngành, bao gồm các cơ quan thông tin của các bộ
(trong đó có cả 2 trung tâm thông tin chuyên dạng của Bộ Khoa học và Công nghệ là Trung tâm
Thông tin Sáng chế và Trung tâm Thông tin Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng), các cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ.
- 63 cơ quan/đơn vị thông tin KH&CN cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
- Một số cơ quan thông tin KH&CN thuộc các cơ quan trung ương của Đảng và đoàn thể ở Trung

ương.
- Hơn 400 cơ quan TT-TV tại các viện/trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng; Hàng
chục trung tâm thông tin ở các Tổng công ty 90, 91.
Nhiều cơ quan TT-TV đã được Nhà nước và các bộ, ngành, địa phương chú trọng phát triển trụ
sở, nhà xưởng, điều kiện làm việc, đảm bảo trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Điều kiện làm việc
của nhiều cơ quan thông tin KH&CN được liên tục cải thiện.
2.2. Nguồn tin KH&CN
Cho tới nay, trong toàn Hệ thống có hơn 3 triệu đầu tên sách, trên 25 triệu bản mô tả sáng chế
phát minh, trên 200 nghìn tiêu chuẩn; 50 nghìn catalo công nghiệp, 4.000 bộ báo cáo địa chất,
4.500 báo cáo lâm nghiệp; 20.000 báo cáo kết quả nghiên cứu, luận án tiến sĩ; hàng chục triệu
biểu ghi trên CD/ROM,....
Đặc biệt, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia, với tư cách là cơ quan đầu mối trung tâm của
mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN đã được phát triển được nguồn tin KH&CN trực
tuyến với hàng chục nghìn đầu tên tạp chí điện tử, có khả năng truy cập tới hàng chục triệu tài liệu
gốc với độ cập nhật rất nhanh và độ hồi cố khá sâu [2] như:


- STD (Tài liệu KH&CN Việt Nam): hơn 127.000 biểu ghi rong đó có hơn 45.000 biểu ghi có liên
kết đến bài toàn văn.
- ScienceDirect: hơn 2.100 tạp chí điện tử của NXB Elsevier, hơn 9 triệu bài báo toàn văn; một số
lĩnh vực có thể hồi cố từ số đầu tiên của tạp chí.
- SringerLink: hơn 1.200 tạp chí điện tử của NXB Springer (CHLB Đức), truy cập được gần 4
triệu bài báo toàn văn.
- ISI-Web of Knowldge: 2 CSDL trích dẫn KH&CN hàng đầu thế giới của NXB Thomson
Reuters (Science Citation Index Expanded và Social Science Index).
- Proquest Central: một trong những CSDL toàn văn tổng hợp lớn nhất thế giới, chứa thông tin
của trên 11.250 tạp chí (trong đó có 8.400 tạp chí toàn văn), 479 báo toàn văn, 30.000 luận văn
toàn văn; trên 44.000 hồ sơ doanh nghiệp, trên 3.000 Báo cáo công nghiệp;
- Ebrary: CSDL của trên 35.000 sách điện tử;
- Tạp chí điện tử của một số hội KH&CN uy tín về một số lĩnh vực như:

• Hội Hoá học Hoa Kỳ (ACS)
• Hội Kỹ sư Cơ khí Hoa Kỳ (ASME)
• Hội Kỹ sư Xây dựng Hoa Kỳ (ASCE)
• Hội Vật Lý Hoa Kỳ
• Viện Vật lý Hoa Kỳ (AIP).
Đây là một nguồn lực thông tin quan trọng phục vụ hiệu quả cho hoạt động KH&CN của đất nước
2.3. Sản phẩm và dịch vụ thông tin KH&CN
Hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin được phát triển đa dạng, từ truyền thống tới hiện đại.
Hiện tại, theo thống kê chưa đầy đủ, mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN xuất bản
gần 300 ấn phẩm thông tin, trong đó có hàng chục ấn phẩm bằng tiếng Anh dùng để trao đổi quốc
tế. Ngoài ra, hàng năm các cơ quan thông tin KH&CN còn xuất bản nhiều ấn phẩm không định
kỳ, sách chuyên đề, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, tài liệu dịch, các Nông lịch ...
Các tổ chức trong mạng lưới thông tin KH&CN quốc gia đã xây dựng tới trên 300 CSDL tư liệu
và dữ kiện. Tuy nhiên, hầu hết đây mới là các CSDL nhỏ (từ vài nghìn tới vài chục biểu ghi) dùng
để quản trị các nguồn tin của cơ quan. Một số ít cơ quan đã xây dựng được những CSDL quy mô
lớn lớn (như CSDL STD của Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia). Từ chỗ chỉ có các CSDL
thư mục, đến nay nhiều cơ quan thông tin đã xây dựng các CSDL toàn văn.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, nhiều cơ quan đã phát triển loại hình
bản tin điện tử. Sản phẩm này bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ 1995 và đặc biệt phát triển nhanh
về số lượng cũng như chất lượng từ 1997, khi Việt Nam bắt đầu hoà nhập Internet.
Trình độ công nghệ của nhiều tổ chức thông tin KH&CN trong mạng lưới đã được nâng cao.
Nhiều tổ chức thông tin KH&CN đã áp dụng những CNTT và truyền thông tiên tiến, những trang
thiết bị hiện đại. Hầu hết các cơ quan thông tin KH&CN đã kết nối và tích cực khai thác


INTERNET. Nhiều cơ quan thông tin KH&CN đã xây dựng được Cổng Giao tiếp điện tử, Thư
viện điện tử, Website.
Đặc biệt, một số cơ quan thông tin KH&CN đã thực hiện việc đặt mua các CSDL trực tuyến, tạp
chí điện tử trực tuyến. Thí dụ Trung Thông tin KH&CN Quốc gia đã mua quyền truy cập đến các
CSDL toàn văn của Science@Direct, Springer, Proquest Central,..

Bên cạnh việc duy trì các dịch vụ thư viện truyền thống, nhiều cơ quan đã áp dụng các hình thức
dịch vụ hiện đại, tiên tiến: kho mở, mã vạch, cổng từ; khai thác qua mạng, phòng đọc đa phương
tiện, liên kết trao đổi liên thư viện...
Đã hình thành được nhiều mạng thông tin KH&CN, các thư viện điện tử phục vụ hiệu quả cho
quản lý, kinh doanh, nghiên cứu và phát triển, nâng cao dân trí. Đến nay, hầu hết các cơ quan
thông tin KH&CN ở trung ương, bộ/ngành và những thành phố lớn đều đã xây dựng Website về
KH&CN; ở một số cơ quan đã tạo lập Thư viện điện tử chuyên ngành.
Đặc biệt, mạng lưới các tổ chức thông tin KH&CN đã xây dựng một số mạng thông tin điện tử
với nguồn tin phong phú, đáp ứng cơ bản yêu cầu tin của người dùng tin như:
- Mạng thông tin KH&CN Việt Nam (VISTA); Mạng thông tin KH&CN phục vụ vùng sâu, vùng
xa (Thư viện điện tử phục vụ nông thôn);
- Chợ ảo về Công nghệ và Thiết bị Việt Nam (Techmart Vietnam trên mạng);
- Mạng thông tin tiêu chuẩn-đo lường chất lượng TCVNNet
- Mạng thông tin nông nghiệp nông thôn AgroViet;
- Mạng thông tin y học, y tế (CIMSINet);
- Mạng thông tin thương mại VITRANET,....
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã được Bộ KH&CN
giao nhiệm vụ xây dựng Mạng Nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (gọi tắt là VinaREN). Đây là một
mạng viễn thông dùng riêng dành cho các tổ chức KH&CN Việt Nam. Mạng VinaREN đã chính
thức khai trương tháng 3/2009.
Công tác phục vụ thông tin đã có bước phát triển, đã bám sát yêu cầu của Đảng và Nhà nước, cơ
bản đáp ứng được yêu cầu thông tin cơ bản của người dùng tin. Việc phục vụ thông tin KH&CN
cho người dùng tin là lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các cơ quan quản lý, cho cán bộ quản
lý ở các cấp đã được chú trọng và triển khai với nhiều hình thức đa dạng, đặc biệt là các thông tin
nhanh, thông tin chọn lọc, các tổng luận phân tích, các số liệu thống kê, so sánh,...
Phục vụ thông tin KH&CN cho nông nghiệp nông thôn được nhiều cơ quan thông tin chú trọng
phát triển nhất là các cơ quan thông tin địa phương. Đặc biệt là việc nhân rộng mô hình “Cung cấp
thông tin phục vụ phát triển KT-XH nông thôn, miền núi”. Đến nay, mô hình này đã được triển
khai ở trên 30 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương.
Công tác phục vụ thông tin cho doanh nghiệp, phát triển thị trường công nghệ được đặc biệt quan

tâm. Trong những năm qua, Chợ công nghệ và thiết bị đã được tổ chức ở nhiều quy mô, cấp độ
khác nhau như quy mô quốc gia (vào các năm 2003, 2005), quy mô vùng [1]. Chợ công nghệ và


thiết bị trên mạng cũng được một số cơ quan chú ý xây dựng và phát triển (như
www.techmartvietnam.com; www.techmart.cesti.gov.vn; www.techmarthaiphong.com.vn).
2.4. Một số tồn tại của hoạt động thông tin KH&CN Việt Nam
Mặc dù đã có bước phát triển nhất định, nhưng hoạt động thông tin KH&CN của Việt Nam vẫn
còn những tồn tại [5]. Đó là:
- Cơ sở vật chất còn yếu (nhiều nơi chưa có trụ sở, diện tích làm việc chật hẹp, hạ tầng
mạng và trang thiết bị hạn chế,...);
- Tiềm lực thông tin KH&CN còn nhỏ bé, nhất là tiềm lực thông tin số hóa.;
- Chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin chưa cao (do hạn chế về nguồn, về lực lượng
xử lý tin,...); Các CSDL hầu hết là có quy mô nhỏ (từ vài trăm đến vài nghìn biểu ghi), chủ yếu
phục vụ nội bộ. Số lượng CSDL đặc thù có quy mô lớn, có khả năng đáp ứng nhu cầu của người
dùng là rất ít. Nhiều CSDL chưa được đưa lên phục vụ trên mạng. Nhìn chung, chưa có nhiều sản
phẩm thông tin có giá trị gia tăng cao, chưa thể cạnh tranh trên thị trường;
- Đội ngũ cán bộ còn mỏng về số lượng và hạn chế về chất lượng; không ổn định, hay
thuyên chuyển, nhiều cán bộ chưa thực sự gắn bó với nghề nghiệp;
- Nguồn thu từ sản phẩm và dịch vụ là không đáng kể. Hầu hết các sản phẩm, dịch vụ
thông tin KH&CN trong Mạng lưới đều được Nhà nước bao cấp (thu không đủ chi). Các nguồn
khác được đề cập ở đây là hoạt động tin học, quảng cáo, tổ chức hội nghị, hội thảo, dịch thuật,
giới thiệu chào bán công nghệ,...
3. BỐI CẢNH MỚI CỦA HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KH&CN
3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội vĩ mô
Có thể thấy, hoạt động thông tin KH&CN thời gian tới sẽ được triển khai trong một bối cảnh mới,
đòi hỏi có những điều chỉnh phù hợp. Dưới đây là một số nét của bối cảnh kinh tế xã hội vĩ mô:
- Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN, đặc biệt là của CNTT và TT đã tác động
sâu sắc đến sự phát triển của thế giới. Thế giới đang chuyển dần từ xã hội công nghiệp sang xã hội
thông tin với nền kinh tế tri thức. Toàn cầu hoá kinh tế được xác định là một xu thế khách quan,

tạo cơ hội cho phát triển. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước tiến nhảy vọt và những đột
phá lớn, tác động nhiều mặt đến tất cả các quốc gia.
- Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, Việt Nam đã lớn mạnh về nhiều mặt,
đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, công cuộc CNH, HĐH
đất nước đã đạt được những kết quả to lớn. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng
khó khăn. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang có tác động không nhỏ đến phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam;
- Sự đổi mới chính sách và cơ chế quản lý theo hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tăng cường sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức dịch vụ công lập.


- Việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO đã mở ra những cơ hội hợp tác và phát triển,
đẩy mạnh hội nhập quốc tế, song cung cho thấy những thách thức mới, đặc biệt, có thể xuất hiện
những dịch vụ thông tin quốc tế với sự cạnh tranh tăng lên, những vấn đề bản quyền sẽ ngày càng
thắt chặt hơn, có thể có tác động đến hoạt động thông tin KH&CN trong nước.
3.2. Hoạt động khoa học và công nghệ đang có những thay đổi để đáp ứng đòi hỏi mới
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 khoá 10 đã xác
định: "tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính sách phát triển KH&CN; nghiên cứu xây
dựng, bổ sung hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ
quốc gia và các ngành, các sản phẩm quan trọng.
Đổi mới có chế tài chính, nâng cao tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của cơ quan nghiên cứu khoa
học. Tiếp tục phát huy dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Phát triển thị trường khoa học, công
nghệ. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học; gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất, kinh
doanh, giáo dục, đào tạo. Có chính sách chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ
nghiên cứu khoa học, nhất là cán bộ đầu ngành, có trình độ cao" [3].
Căn cứ những định hướng đó của Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đặt ra những
nhiệm vụ và giải pháp nhằm đạt mục tiêu "nâng cao trình độ nghiên cứu KH, năng lực sáng tạo
và đổi mới công nghệ, tăng tỷ trọng đóng góp của KH&CN trong việc nâng cao năng xuất, chất
lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, nhăm đẩy nhanh tốc độ và nâng
cao chất lượng tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; tập trung xây dựng được

một nền KH&CN có trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực, thực sự là động lực đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020" [6].
3.3 Lĩnh vực thông tin KH&CN cũng đang có những thay đổi quan trọng, đặt công tác này
trước những vấn đề mới.
- Khuôn khổ pháp lý của hoạt động thông tin KH&CN đã cơ bản được hình thành và đang
tiếp tục được hoàn thiện:
Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2000) đã có những quy định rất cơ bản về thông tin và thống
kê KH&CN. Điều 45 Luật Khoa học và Công nghệ đã xác định rõ vai trò của Chính phủ: "Chính
phủ đầu tư xây dựng hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia hiện đại, đảm bảo thông
tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về các thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực khoa học và công
nghệ ở trong nước và trên thế giới; ban hành quy chế quản lý thông tin khoa học và công nghệ;
hàng năm công bố danh mục và kết quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong
nước". Nhằm phát triển và đẩy mạnh quản lý nguồn tri thức nội sinh, Điều 25 Luật Khoa học và
Công nghệ cũng quy định "Kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân
sách nhà nước phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được lưu giữ tại
cơ quan lưu trữ nhà nước".
Hoạt động thống kê KH&CN đã được đề cập trong Điều 51 Luật Khoa học và Công nghệ năm
2000: "Hệ thống tiêu chí thống kê khoa học và công nghệ được quy định thống nhất trong cả
nước. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, tổ chức
khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ có trách nhiệm báo cáo đầy


đủ, trung thực số liệu thống kê khoa học và công nghệ cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ có thẩm quyền theo sự phân cấp của Chính phủ".
- Công tác quản lý hoạt động thông tin KH&CN được quan tâm triển khai với việc thành
lập Cục Thông tin KH&CN Quốc gia
Nghị định 28/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ, trong cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học
và Công nghệ đã quy định Bộ KH&CN có Cục Thông tin KH&CN Quốc gia. Việc thành lập Cục
thông tin KH&CN quốc gia mà nhằm mục tiêu tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về
thông tin và thống kê KH&CN.

- Công tác thống kê KH&CN được quan tâm hơn và cần được triển khai mạnh hơn trong
hoạt động của ngành KH&CN
Năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/2006/NĐ-CP về thống kê KH&CN. Đồng thời,
Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản pháp quy về thống kê nói chung. Gần đây Chính phủ
cũng đang tiếp tục yêu cầu đổi mới đồng bộ hệ thống chỉ tiêu thống kê nói chung, trong đó có
những chỉ tiêu thống kê về KH&CN;
- Cơ chế quản lý KH&CN theo hướng nâng cao tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN, trong đó có tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN, tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh
Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định những vấn đề liên quan đến cơ chế tự chủ
tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN. Quy chế này sẽ có những tác động ngày càng rõ hơn
vào hoạt động của các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN trong thời gian tới;
Mức độ hỗ trợ tổ chức các Chợ công nghệ và thiết bị bằng ngân sách KH&CN để phát triển thị
trường công nghệ sẽ thay đổi theo hướng lấy thu bù chi, giảm dần sự hỗ trợ từ ngân sách. Theo
Thông tư liên tịch số 152/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 17/12/2007 hướng dẫn quản lý tài
chính đối với hoạt động tổ chức Chợ Công nghệ và thiết bị (Techmart), mức hỗ trợ của nhà nước
đối với tổ chức Techmart sẽ giảm dần xuống mức chỉ đảm bảo 20% chi phí về Cơ sở vật chất kỹ
thuật và các khoản chi của Ban tổ chức vào năm 2014 và từ năm 2015 trở đi kinh phí từ ngân sách
chỉ đảm bảo cho các hoạt động chung của Ban Tổ chức, kinh phí khác cho tổ chức Techmart phải
huy động từ đóng góp của các đơn vị tham gia và các nguồn thu khác.
4. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN KH&CN THỜI
GIAN TỚI
Từ việc tổng kết những kết quả đã đạt được, đánh giá những vấn đề tồn tại của hoạt động thông
tin KH&CN và xem xét bối cảnh bối cảnh, chúng ta có thể thấy hoạt động thông tin KH&CN cần
xác định mục tiêu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhằm đạt được mục tiêu trên, góp phần vào phát triển hoạt động KH&CN của nước nhà, hoạt
động thông tin KH&CN cần được triển khai theo những định hướng sau:
4.1. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về thông tin và thống kê KH&CN
Trong thời gian vừa qua, công tác quản lý nhà nước về thông tin và thống kê KH&CN chưa được
triển khai đúng tầm và chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về KH&CN. Theo
tinh thần Nghị định 28/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu



tổ chức của Bộ KH&CN, Bộ KH&CN có nhiệm vụ: "Quy định và hướng dẫn hoạt động thông tin,
truyền thông, thư viện, thống kê khoa học và công nghệ và phát triển thị trường công nghệ; chỉ
đạo và hướng dẫn hoạt động của mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ;
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho thông tin và thống kê khoa học và công nghệ, tổ chức các
chợ công nghệ và thiết bị, các trung tâm giao dịch công nghệ, triển lãm khoa học và công nghệ,
xây dựng cơ sở dữ liệu về nhân lực và thành tựu khoa học và công nghệ, đầu tư phát triển các
mạng thông tin khoa học và công nghệ tiên tiến kết nối với khu vực và quốc tế".
Những hoạt động quản lý nhà nước về thống kê KH&CN cần được triển khai có thể bao gồm:
- Dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực
thông tin, thư viện, thống kê KH&CN, phát triển chợ công nghệ và thiết bị và phát triển các mạng
thông tin KH&CN tiên tiến ;
- Dự thảo chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm, hàng năm, đề án xây
dựng cơ sở hạ tầng cho thông tin, thư viện, thống kê KH&CN, phát triển chợ công nghệ và thiết
bị, trung tâm giao dịch thông tin công nghệ và đầu tư phát triển các mạng thông tin KH&CN tiên
tiến;
- Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật, chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đề án sau khi được cấp có thẩm
quyền ban hành, phê duyệt;
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực thông tin, thư viện, thống kê KH&CN,
phát triển chợ công nghệ và thiết bị, các mạng thông tin KH&CN tiên tiến như:
+ Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin và các
thành tựu KH&CN tiên tiến; Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
+ Đăng ký, lưu giữ và sử dụng kết quả các nhiệm vụ KH&CN; Quản lý và cấp mã số chuẩn
quốc tế cho các xuất bản phẩm kế tiếp (ISSN);
+ Hoạt động hợp tác quốc tế.
- Phối hợp thanh tra; kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính về hoạt
động thông tin, thư viện, thống kê KH&CN, phát triển chợ công nghệ và thiết bị theo quy định
của pháp luật;

4.2. Củng cố và phát triển mạng lưới các tổ chức thông tin KH&CN công lập
Thời gian qua, mạng lưới các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN đã được hình thành và hoạt động
trong cả nước. Tuy nhiên, do hiện tại có sự tồn tại độc lập tương đối giữa hoạt động thông tin, tin
học và thống kê nên có những mô hình tổ chức khác nhau.
Ở cấp Bộ/ngành, có thể tồn tại những loại hình cơ quan có liên quan đến thông tin và thống
kê như viện/trung tâm thông tin, trung tâm tin học, trung tâm thống kê hoặc có sự kết hợp giữa
những hoạt động này (trung tâm tin học và thống kê; trung tâm tin học và thông tin KH&CN,...).
Ở cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, việc tổ chức các đơn vị thông tin đã được quy
định tại Thông tư 05/2008/TTLT-KHHCN-BNV của Liên bộ KH&CN và Bộ Nội vụ ngày
18/6/2008 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên
môn giúp UBND quản lý nhà nước về KH&CN tại địa phương, các tổ chức thông tin KH&CN ở
địa phương được tổ chức như sau:


- Tại các Sở KH&CN tỉnh/TP trực thuộc Trung ương có:
+ Phòng Quản lý chuyên ngành (là cơ quan quản lý các hoạt động sở hữu trí tuệ,
thông tin và thống kê KH&CN, …);
+ Trung tâm Tin học và Thông tin KH&CN (là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo
Nghị định số 115/2005/NĐ-CP).
- Tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện) có Phòng Kinh tế hoặc
Phòng Công thương có chức năng tham mưu giúp UBND huyện quản lý nhà nước về KH&CN.
Phòng này có chức năng quản lý KH&CN nói chung, trong đó có "xây dựng hệ thống thông tin,
thống kê KH&CN theo sự chỉ đạo của Sở KH&CN”.
Hiện nay, Bộ KH&CN đang phối hợp với Bộ Nội vụ dự thảo thông tư hướng dẫn về nhiệm
vụ, quyền hạn và mối quan hệ của các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN công lập. Nếu được ban
hành, thông tư này là một công cụ quan trọng để củng cố và phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ
thông tin KH&CN công lập.
Để triển khai việc củng cố và phát triển mạng lưới tổ chức dịch vụ, có thể cần thiết xây
dựng và triển khai Đề án hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin KH&CN quốc gia.
4.3. Tiếp tục nghiên cứu chuyển đổi các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN sang hoạt động

theo cơ chế của Nghị định 115/2005/NĐ-CP
Hiện nay, việc chuyển đổi của các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN sang hoạt động theo cơ chế
Nghị định 115/2005/ND-CP còn hạn chế [5]. Theo thống kê chưa đầy đủ. mới chỉ có khoảng 7%
trong số 70 đơn vị thông tin bộ ngành và địa phương chuyển đổi theo Nghị định 115/2005/NĐCP. Một số tổ chức đang xây dựng đề án. Một số tổ chức lại chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự
chủ tự chịu trách nhiệm của Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Hiện nay Chính phủ đang dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 115/2005/NĐ-CP, cho phép kéo
dài thời gian thực hiện chuyển đổi đến hết 2011 (với khối trung ương) và 2013 (đối với khối địa
phương). Vì thế việc tiếp tục chuyển đổi các tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN theo tinh thần
Nghị định 115/2005/NĐ-CP vẫn là một nhiệm vụ cấp bách và quan trọng.
4.4. Đẩy mạnh phát triển nguồn tin KH&CN, đặc biệt nguồn tin nội sinh
Phát triển nguồn tin KH&CN nội sinh là một công việc quan trọng. Chú trịng phát triển nguồn tin
này thông qua việc củng cố và tăng cường công tác thu thập, lưu giữ, xử lý và phổ biến thông tin
về các nhiệm vụ KH&CN, kết quả nhiệm vụ KH&CN, luận án tiến sỹ, thông tin điều tra cơ bản.
Quản lý tốt nguồn tài liệu KH&CN nội sinh là một vấn đề hết sức quan trọng, cần nhanh chóng
hoàn thiện các quy định pháp lý, có cơ chế thu thập và phổ biến hiệu quả nguồn thông tin quý báu
này của đất nước.
Năm 2007, Bộ KH&CN đã ban hành Quy chế Đăng ký, lưu giữ và sử dụng kết quả thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ kèm theo Quyết định số 03/2007/QĐ-BKHCN ngày 16 tháng 3
năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ). Quy chế quy định thủ tục, trình tự và trách


nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc đăng ký, lưu giữ và sử dụng thông tin của kết quả thực
hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Đẩy mạnh công tác đăng ký và thông tin về nhiệm vụ KH&CN và kết quả các đề tài nghiên cứu
KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước, đặc biệt là các nghiệm vụ KH&CN cấp bộ, ngành và
địa phương.
Đẩy mạnh công tác điều hoà, phối hợp công tác bổ sung và phát triển nguồn tin KH&CN nước
ngoài, thông qua phát triển Liên hợp Nguồn tin KH&CN Việt Nam (Vietnam Scientific and

Technological Iinformation Resources Consortium).
4.5. Tăng cường và phát triển công tác thông tin phân tích, thông tin phục vụ quản lý, phục
vụ đổi mới và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu chiến lược; quy hoạch và kế hoạch
phát triển KT-XH.
Công tác thông tin KH&CN phục vụ lãnh đạo và quản lý cần được hoàn thiện, thay đổi về chất;
đặc biệt cần chú ý phát triển thông tin phân tích, tổng hợp, tình báo cạnh tranh, cảnh báo công
nghệ, nghiên cứu thị trường, thẩm định công nghệ,... Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh
tế quốc tế, công tác thông tin này ngày càng có vai trò quan trọng.
4.6. Đẩy mạnh công tác thông tin phục vụ phát triển thị trường công nghệ.
Đẩy mạnh công tác thông tin phục vụ hoạt động xúc tiến và phát triển thị trường. Thị trường công
nghệ là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và được chú trọng
phát triển trong thời gian tới. Công tác thông tin hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ cần hướng
vào việc thông tin rộng rãi các sản phẩm KH&CN được mua bán thuận lợi trên thị trường, tổ chức
các Chợ công nghệ và thiết bị, phát triển sàn giao dịch công nghệ trên mạng, nâng cao nhận thức
của công chúng và phổ biến kiến thức KH&CN trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Từ nay tới 2010, hoạt động Techmart vẫn còn nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên theo
Thông tư 152/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 17/12/2007 của liên bộ Bộ KH&CN và Bộ Tài
chính hướng dẫn quản lý tài chính đối với hoạt động tổ chức Chợ Công nghệ và thiết bị
(Techmart), mức hỗ trợ của nhà nước đối với tổ chức Techmart sẽ giảm dần.
Phát triển sàn giao dịch công nghệ, trung tâm chuyển giao công nghệ cũng là một hướng
hoạt động thông tin KH&CN tham gia vào phát triển thị trường công nghệ. Bộ Khoa học và Công
nghệ cũng đang đầu tư phát triển một số Sàn giao dịch công nghệ.
Phát triển dịch vụ thông tin KH&CN phục vụ doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vai trò quan
trọng trong phát triển KT-XH. Do vậy, việc cung cấp thông tin phục vụ doanh nghiệp, đặc biệt
doanh nghiệp nhỏ và vừa là một trong những hướng công tác cần được đặc biệt chú trọng. Trong
lĩnh vực này, cần chú ý phát triển công tác thông tin phân tích, tổng hợp, tình báo cạnh tranh,
cảnh báo công nghệ, cảnh báo chiến lược, nghiên cứu thị trường, thẩm định công nghệ,... ; Hình
thành và phát triển Mạng thông tin KH&CN phục vụ doanh nghiệp.
4.7. Đẩy mạnh công tác thông tin KH&CN phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
công tác thông tin KH&CN phục vụ chuyển giao nhanh và ứng dụng KH&CN vào sản xuất

nông nghiệp.


Phổ biến tri thức KH&CN, thúc đẩy ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp là một trọng
tâm của HĐH, CNH sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là một nội dung quan trọng của Chương
trình "Xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao KH&CN phục vụ phát triển KT-XH nông thôn
và miền núi" giai đoạn đến năm 2010. Những phương hướng đẩy mạnh công tác này bao gồm:
xây dựng và nhân rộng mô hình cung cấp thông tin KH&CN tuyến quận, huyện, xã, phường; hình
thành và phát triển Mạng thông tin KH&CN nông thôn, miền núi; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong phổ biến tri thức KH&CN đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
4.8. Đẩy mạnh phát triển và khai thác Mạng Nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN) và
các mạng thông tin KH&CN.
Mạng Nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN1), chính thức được khai trương tháng 3/2008
để phục vụ cộng đồng nghiên cứu và đào tạo. VinaREN là mạng truyền thông dùng riêng cho lĩnh
vực nghiên cứu và đào tạo. Mục tiêu của mạng VinaREN là nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên
cứu và đào tạo và thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá thông qua liên kết mạng giữa các tổ chức KH&CN trong nước và kết nối vào các
mạng nghiên cứu và đào tạo quốc tế và khu vực. Hiện tại, Mạng VinaREN đã xây dựng được
đường trục quốc gia Hà Nội-Đà Nẵng-Tp Hồ Chí Minh, kết nối được với các mạng quốc tế thông
qua kênh kết nối TEIN-2 (45/155 Mbps), APAN, GLORIAD, v.v.. Hơn 50 viện nghiên cứu,
trường đại học, học viện, bệnh viện, v.v. đã trở thành thành viên VinaREN.
Phát triển Mạng thông tin KH&CN Việt Nam, nâng cao năng lực của mạng để thực sự trở thành
trung tâm liên kết mạng lưới tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN; Chú trọng phát triển thư viện
điện tử, cổng giao tiếp điện tử và website thông tin KH&CN; Tham gia tích cực vào việc xây
dựng và phát triển các Trung tâm tích hợp dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương.
4.9. Triển khai và phát triển hoạt động thống kê KH&CN
Thống kê KH&CN là một hình thức hoạt động thông tin KH&CN đặc biệt. Năm 2006, Chính phủ
đã ban hành nghị định 30/2006/NĐ-CP về thống kê KH&CN, khẳng định tầm quan trọng của
công tác thống kê KH&CN. Gần đay nhiều văn bản pháp quy quan trọng liên quan đến thống kê
KH&CN đã được ban hành như:

- Quyết định 305/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia; trong đó xác định 9 chỉ tiêu thống kê KH&CN;
- Quyết định số 111/2008/QĐ-TTg ngày 15/8/2009 ban hành Chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp
dụng đối với Bộ, ngành;
- Quyết định số 144/2008/QĐ-TTg ngày 28/10/2008 ban hành Chương trình điều tra thống kê quốc
gia.
Trong những quyết định này, Thủ tướng đã quy định chi tiết những biểu mẫu báo cáo thống kê mà
Bộ Khoa học và Công nghệ phải chủ trì tổng hợp và những cuộc điều tra thống kê KH&CN quy
mô quốc gia mà Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì thực hiện để tổng hợp các chỉ tiêu
thống kê quốc gia về KH&CN.
1

Vietnam Research and Education Network


Trên cơ sở các quy định pháp luật về thống kê nói chung và thống kê KH&CN, Bộ Khoa học và
Công nghệ ban hành một số văn bản quy định về thống kê KH&CN. Cho đến nay Bộ Khoa học và
Công nghệ đã ban hành các văn bản sau:
- Quyết định số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 04 tháng 9 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ ban hành một số bảng phân loại thống kê khoa học và công nghệ (gồm các bàng phân
loại sau: Bảng phân loại lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ; Bảng phân loại mục tiêu
kinh tế-xã hội của hoạt động khoa học và công nghệ; Bảng phân loại dạng hoạt động khoa học và
công nghệ).
- Thông tư số 05/2009/TT-BKHCN ngày 30 tháng 3 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ quy định về chỉ tiêu thống kê KH&CN.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, công tác thống kê KH&CN cần được đẩy mạnh ở trung
ương (tại Bộ KH&CN), địa phương (các sở KH&CN). Đặc biệt cần chú ý phát triển sự liên kết
giữa thống kê và thông tin KH&CN.
5. KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, hoạt động thông tin KH&CN của Việt Nam đã có những bước phát triển và

đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Mạng lưới tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN quốc gia
đã được hình thành, nguồn lực thông tin KH&CN bước đầu đáp ứng được nhu cầu thông tin cơ
bản của đất nước, trình độ công nghệ của các tổ chức thông tin KH&CN đã được nâng cao với sự
ứng dụng mạnh mẽ CNTT và truyền thông, kết nối Internet. Nhiều cổng giao tiếp điện tử, thư viện
điện tử, website về KH&CN của các cơ quan thông tin đã được xây dựng và bắt đầu phục vụ hiệu
quả.
Trong giai đoạn mới, trước bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tri
thức, phát triển mạnh mẽ của KH&CN, hoạt động thông tin KH&CN đang đứng trước những cơ
hội và thử thách mới. Những nhiệm vụ trong giai đoạn tới sẽ không kém phần khó khăn. Trong
những năm tới, chúng ta cần có sự đổi mới toàn diện trong hoạt động KH&CN nói chung, hoạt
động thông tin KH&CN nói riêng để có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, góp phần vào hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Minh Kiểm và Lê Thị Khánh Vân. Vai trò của các trung tâm thông tin KH&CN trong việc
hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam. Báo cáo trình bày tại Đại hội Cán bộ
thư viện Đông Nam Á lần thứ 14 (CONSAL 14), tổ chức từ ngày 20-23/4/2009 tại Hà Nội, Việt
Nam.
2. Cao Minh Kiểm. Nguồn tin của Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia phục vụ nghiên cứu và
đào tạo. Báo cáo trình bày tại Hội nghị Mạng nghiên cứu và đào tạo Việt Nam (VinaREN) lần
thứ IV, tổ chức tại Hà Nội, tháng 3/2009.
3. Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 28/5/2009 của Chính phủ Ban hành chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH TW Đảng khoá X về một số nhiệm vụ,
giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của
Đảng.


4. Nguyễn Tiến Đức. Chuyển đổi các tổ chức thông tin KH&CN theo Nghị định 115 của Chính
phủ. Thông tin-Tư liệu, 2009, số 3.
5. Quyết định số 1434/QĐ-BKHCN ngày 30/7/2009 của Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành Chương
trình hành động của Bộ KH&CN thực hiện kết luận 234-TB/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết

số 22/NQ-CP của Chính phủ.
6. Tạ Bá Hưng, Cao Minh Kiểm và Nguyễn Tiến Đức. Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ
ở Việt Nam: hiện trạng và định hướng phát triển. Thông tin tư liệu, 2005, Số 4. (1).



×