Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Về di chúc chung của vợ chồng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.77 KB, 21 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU

Có thể nói, từ trước đến nay, những vấn đề liên quan đến tài sản chung của
vợ chồng luôn là những vấn đề được quan tâm, tìm hiểu và chú ý nhiều nhất. Khi
hai người nam nữ chưa bước vào hôn nhân, họ là những người có tài sản riêng,
hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Nhưng khi bước vào hôn
nhân, điều đó đã khác. Nó biểu hiện ở việc: trong thời kì hôn nhân, hai người phải
ràng buộc với nhau bởi rất nhiều bổn phận, nghĩa vụ và quyền lợi. Lợi ích của họ
vì thế đã hòa làm một để trở thành một thứ có tên là lợi ích gia đình. Bên cạnh
những vấn đề liên quan đến quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mỗi cá nhân vợ
hoặc chồng thì còn có những vấn đề liên quan đến di chúc chung của vợ chồng. Đó
chính là những vấn đề về quyền lập di chúc chung của vợ chồng, về hiệu lực của di
chúc chung đó, về tài sản thừa kế chưa chia... Những vấn đề tưởng chừng như đơn
giản, không có gì phải bàn cãi hay tranh luận vì chúng đã được thừa nhận về mặt
pháp lý lại có nhiều bất cập khi thực sự được đưa ra và áp dụng vào thực tế cuộc
sống.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu những vấn đề về “Di chúc chung của vợ chồng”
là một việc cần thiết, quan trọng. Và để có thể hiểu rõ hơn cũng như để nắm được
những vấn đề có liên quan đến di chúc chung của vợ chồng, cá nhân em đã chọn
đề tài: “Về di chúc chung của vợ chồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

0


II.PHẦN NỘI DUNG

1.Một số lý luận về di chúc chung của vợ chồng.
1.1. Lịch sử về di chúc chung của vợ chồng.
Trong tục lệ của ta, việc lập di chúc chung của vợ chồng là một việc được
thừa nhận. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã
hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ chồng là hình thức di chúc thông


dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung là hiện tượng phổ biến. Bởi
lẽ truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng và luôn
muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích
việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung, coi đó như
là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ - chồng. Quá trình
nghiên cứu các bộ Dân luật của các chế độ trước thì thấy các bộ Dân luật Bắc và
Dân luật Trung đều thừa nhận việc lập di chúc chung của vợ chồng. Bộ Dân luật
Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ chồng lập di chúc chung để định đoạt tài sản
chung. Còn pháp luật hiện hành của Nhà nước ta, thông tư 81-Tòa án nhân dân tối
cao ngày 24/7/1981 đã từng nhắc đến di chúc chung của vợ chồng. Pháp lệnh Thừa
kế 1990 tuy không trực tiếp qui định về di chúc chung của vợ chồng, nhưng cũng
gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung. Vấn đề di chúc chung của vợ,
chồng được qui định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005. Các qui định này
trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với qui định của BLDS 1995.
1.2.Nội dung pháp luật điều chỉnh về di chúc chung của vợ chồng.
Điều 663 BLDS quy định về di chúc chung của vợ chồng: “Vợ, chồng có thể
có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”.
Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng, Điều 664
BLDS quy định: “1.Vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
1


chung bất cứ lúc nào. 2.Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy
bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì
người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của
mình.” Với tư cách là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản, vợ chồng có quyền lập
di chúc chung theo thỏa thuận. Do vậy, khi sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung thì vợ chồng cùng nhất trí thực hiện hoặc đồng ý cho một người thực
hiện các hành vi đó. Vợ, chồng có quyền lập chung di chúc định đoạt tài sản chung
hợp nhất có được trong thời kì hôn nhân hợp pháp cho những người thừa kế được

chỉ định. Nhưng sau đó, vợ hoặc chồng chết trước, người vợ hoặc người chồng có
quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc liên quan đến phần tài sản của
mình, còn phần di sản của người chồng hoặc người vợ chết trước vẫn giữ nguyên
như đã định đoạt trong di chúc chung. Việc người vợ hoặc người chồng còn sống
đã thay đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ phần của di chúc tương ứng với phần tài sản
riêng của mình sau khi đã xác định di sản của người chồng hoặc người vợ đã chết
trước từ khối di sản chung hợp nhất đã dẫn đến hậu quả di chúc chung của vợ
chồng không còn tồn tại. Việc chia di sản của người chết trước là dựa trên phần di
chúc tương ứng với phần tài sản của người chết trước xác định được. Theo đó,
phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trước có hiệu lực thi hành,
chia thừa kế theo phần di chúc của người chết trước tương ứng với di sản của
người chết trước cho những người thừa kế được chỉ định. Trong trường hợp phân
chia tài sản của người chồng hoặc người vợ chết trước, phải xác định được người
vợ hoặc người chồng của người chết trước đó được thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 BLDS. Vì khi vợ, chồng người
này lập chung di chúc thì không thể có tên người chồng hoặc người vợ được thừa
kế theo di chúc tai sản của chính mình. Bên cạnh đó, nếu khi còn sống mà người
chồng hoặc người vợ của người chết trước đã không thay đổi, bổ sung, thay thế,
hủy bỏ phần di chúc liên quan đến tài sản của mình thì cách chia di sản của người
chết trước sẽ không được thực hiện. Và khi đó hiệu lực di chúc chung của vợ
chồng được xác định từ thời điểm người vợ hoặc người chồng của người chết
2


trước chết sau. Theo đó, hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng được
quy định tại Điều 668 BLDS: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời
điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết” được thể hiện.
2.Thực trạng và những bất cập xung quanh vấn đề di chúc chung của vợ
chồng được quy định trong BLDS năm 2005.
2.1.Về quyền lập di chúc chung của vợ chồng.

Điều 646 BLDS 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo đó, di chúc
được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi chủ thể hay một cộng đồng
chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề pháp lý liên quan tới thân trạng
và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được tiến hành sau khi cá nhân chết. Như
vậy, Điều 663 qui định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với
Điều 646 nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn
đến các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví dụ
như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung...
Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong
gia đình, thì việc qui định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần thiết. Bởi
trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của các chế độ trước, việc thừa nhận quyền
lập di chúc chung không chỉ để củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình,
mà việc lập di chúc chung, trước hết, là nhằm tạo ra giải pháp phòng ngừa, tạo ra
sự chế ước đối với người chủ gia đình, theo quan điểm phụ hệ, để bảo vệ quyền
thừa kế của những người thân thích khác trong gia đình.
2.2.Về nội dung và mục đích.

3


Điều 663 BLDS 2005 qui định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định
đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là để định
đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Nếu vợ, chồng chỉ có tài sản chung thì sẽ chẳng
có vấn đề gì rắc rối. Nhưng sẽ phức tạp, nếu vợ, chồng vừa có tài sản chung, vừa
có tài sản riêng, và họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong cùng một di
chúc. Trong trường hợp đó, sẽ có nhiều vấn đề pháp lý đặt ra rất khó xử lý, như:
việc xác định vấn đề hiệu lực của di chúc chung; phần di chúc định đoạt tài sản

riêng có phải là một di chúc riêng; sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di
chúc liên quan tới tài sản riêng của họ có hiệu lực hay chưa... Đây là những vấn đề
pháp lý phức tạp mà BLDS 2005 chưa tiên liệu được.
Như vậy, nếu qui định trên được thực hiện đúng, thì vợ, chồng không thể
dùng di chúc chung để định đoạt tài sản riêng của mình. Điều này sẽ dẫn tới hai hệ
quả là:
+ Khi vợ, chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó chỉ được định đoạt
tài sản chung. Nếu vợ, chồng muốn định đoạt phần tài sản riêng, thì họ phải lập
một tờ di chúc khác. Sẽ phức tạp nếu một người có nhiều sản nghiệp khác nhau
(tài sản riêng hoặc tài sản với vợ hay chồng hợp pháp khác). Điều này sẽ gây ra trở
ngại tâm lý không nhỏ khi người ta muốn lập di chúc chung, vì như thế sẽ tạo ra
thêm nhiều khó khăn cho các bên liên quan, như phải lập nhiều tờ di chúc khác
nhau, thay vì chỉ cần duy nhất một tờ di chúc.
+ Nếu trong di chúc chung vợ - chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản
riêng thì di chúc đó sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Điều này
dẫn tới việc, chỉ dựa vào một tờ di chúc, người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên
cùng sản nghiệp của một người. Từ đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác, như việc
xác định người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị; sự ra đời của những người
mới nằm trong hàng thừa kế, sau khi một bên vợ hoặc chồng chết mà di chúc

4


chung vẫn chưa phát sinh hiệu lực; cơ sở để xác định giá trị một suất di sản bắt
buộc... là những vấn đề pháp lý không dễ dàng giải quyết.
Ngoài ra, BLDS 2005 không qui định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi
lập di chúc chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như
việc hai bên lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực hay không?
Di chúc vốn là một loại giao dịch pháp lý đơn phương và không mang tính chất
đền bù. Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau, đã

biến loại giao dịch này thành giao dịch pháp lý song phương và mang tính chất có
đền bù, làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Pháp luật của các chế độ trước
tuy có thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, nhưng luôn cấm vợ,
chồng lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau. Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn qui
định: “... hai người không thể cùng làm chung một chúc thư... lưỡng tương đắc
lợi”, tức thừa kế lẫn nhau. Việc pháp luật hiện hành không cấm đoán vợ, chồng
lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng những sẽ không đạt được mục đích tăng
cường tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, mà có thể còn gây nên nhiều hệ
luỵ không thể lường trước được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc
giả tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật; hoặc làm gia tăng nguy cơ khiến
các bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các bên
thực hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau.
2.3. Về quyền lợi của người thừa kế được chỉ định.
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được qui định rõ tại Điều
699 BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ
hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao
động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không
được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp
luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà
không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không

5


dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì những người đó có được chia
thừa kế bắt buộc không? Đây chính là những vấn đề chưa được BLDS 2005 làm
rõ, nên chắc chắn sẽ dẫn tới nhiều vướng mắc trong việc thực thi pháp luật. Không
loại trừ trường hợp người vợ hay người chồng còn sống, vì lý do nào đó, đã khởi
kiện đòi hưởng thừa kế bắt buộc từ phần di sản của người kia trong di chúc chung
thì cũng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết.

2.4.Về hiệu lực của di chúc.
Di chúc chỉ thi hành được kể từ thời điểm mở thừa kế, đó là thời điểm người
để lại di sản chết hoặc được xác định là đã chết theo một bản án tuyên bố người đó
chết có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại Điều 668 BLDS, dường như các nhà
làm luật chỉ chú tâm vào thời điểm có hiệu lực của di chúc chung đó mà không
quan tâm đến tính hiện thực và nguyên tắc pháp luật thừa kế đồng thời không có
sự cá biệt hóa từng chủ thể là vợ hoặc chồng đã cùng lập di chúc chung.
Theo quy định tại Điều 668 BLDS thì di chúc do vợ chồng lập chung chỉ có
hiệu lực thi hành vào thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ hoặc
chồng cùng chết. Trên thực tế, đối với một cặp vợ chồng cụ thể nào đó lập chung
di chúc nhưng sau đó hoặc là người vợ chết trước hoặc là người chồng chết trước
(sự kiện phổ biến trong cuộc sống) thì việc chia di sản của người chết trước đó là
do những người có quyền thừa kế yêu cầu, khi họ không thể thỏa thuận được hoặc
do tâm lý không thể chờ đợi lâu hơn. Bên cạnh đó, di sản thừa kế chưa được chia
do người sau cùng là chồng hoặc vợ chưa chết và do hiệu lực của di chúc vợ chồng
lập chung thì hiệu quả sử dụng tài sản do người còn sống quản lý, có thể dẫn đến
hậu quả gây lãng phí và có thể giảm sút bởi những lí do không lường trước được.
Quan hệ thừa kế di sản là quan hệ tài sản mang tính chất ý chí và ý chí của nững
người thừa kế là được chia di sản nhưng lại bị ngăn chặn bởi luật định. Quy định
về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng là quy định chưa phù hợp
với thực tế. Và với quy định này, Điều 668 BLDS đã gián tiếp tạo ra những điều

6


kiện cho những bất ổn trong mối quan hệ giữa những người thừa kế theo di chúc
chung của vợ chồng và người quản lý tài sản.
Di sản thừa kế có thể bị chiếm đoạt do hiệu lực của di chúc chung của vợ
chồng. Bởi vì việc chia di sản chỉ được phép tiến hành sau khi người sau cùng chết
nên khi người quản lý di sản còn sống, những người thừa kế theo di chúc không

thể yêu cầu xác định khối tài sản của vợ chồng người lập di chúc chung, đặc biệt là
khối tài sản của người chồng hoặc người vợ chết trước có bao nhiêu trong khối tài
sản chung đó. Nếu người chồng hoặc người vợ khi còn sống đã lạm dụng quy định
của pháp luật, không khai thác tài sản theo mục đích sinh lợi mà tẩu tán tài sản vì
những mục đích không lành mạnh, hoặc chi tiêu hoang phí làm hao tán tài sản
chung, cho đến khi người vợ hoặc chồng là người chết sau cùng, tài sản còn rất ít
hoặc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì người thừa kế theo di chúc trong
trường hợp này đã bị thiệt hại.
Nếu có trường hợp, khi còn sống, người chồng hoặc người vợ chết trước có
nghĩa vụ tài sản với người khác do có hành vi gây thiệt hại, hoặc do vay tài
sản…thì quyền tài sản của những người mà người chồng hoặc vợ chết trước phải
có nghĩa vụ liệu sẽ được giải quyết thế nào khi trên thực tế những người thừa kế
chưa được hưởng tài sản. Hay nếu như có người vợ hoặc chồng còn sống thì nghĩa
vụ thanh toán từ tài sản của người chết để lại với tư cách là người thừa kế hay
người được ủy nhiệm thì điều này chưa được pháp luật quy định.
2.5. Về di sản thừa kế chưa chia.
Do hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng xác định từ thời điểm
người sau cùng chết hoặc thời điểm vợ chồng cùng chết, vì vậy người chồng hoặc
người vợ còn sống vẫn quản lý, sử dụng tài sản chung. Người vợ hoặc chồng còn
sống vừa với tư cách là người sở hữu phần tài sản của mình, vừa với tư cách sử
dụng tài sản của những người thừa kế theo di chúc, phần tài sản mà người thừa kế
theo di chúc được hưởng nhưng chưa được chia. Một câu hỏi được đặt ra là: hiệu
7


lực của di chúc phát sinh từ thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản nhưng do
người đó đã lập di chúc với vợ hoặc chồng của mình mà hiệu lực chia tài sản thừa
kế của người chết trước chưa thực hiện được. Quy định này không phù hợp với đời
sống thực tế và hiệu quả điều chỉnh không thể cao.
Di sản thừa kế cũng không thể hiểu là tồn tại ở dạng tĩnh mà phải đặt nó

trong mối quan hệ với xã hội sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và di sản phải
được khai thác để phát sinh lợi nhuận. Trong chừng mực nhất định, di sản thừa kế
chưa được chia còn được hiểu như khoản vốn cần sử dụng vào sản xuất, kinh
doanh. Nếu trong thời gian người vợ hoặc chồng còn sống sử dụng di sản chưa
chia của người chồng hoặc vợ chết trước vào sản xuất kinh doanh, thu được lợi
nhuận thì đó là di sản thừa kế hay thuộc quyền sở hữu của người vợ hoặc chồng
còn sống đó. Đây thực sự là một vấn đề cần được quan tâm.
3.Một số phương hướng, kiến nghị đưa ra nhằm giải quyết những bất cập về
vấn đề di chúc chung của vợ chồng.
3.1.Định hướng chung.
3.1.1. Cần tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định chung về
di chúc cá nhân và thiết kế thành một mục mới trong BLDS 2005
Tuy di chúc chung của vợ, chồng cũng có những đặc điểm giống như một di
chúc thông thường do cá nhân lập ra, nhưng di chúc chung còn có những đặc thù,
như: do ý chí của hai cá nhân là vợ – chồng cùng tham gia định đoạt, dựa trên quan
hệ hôn nhân đang còn hiệu lực của hai người đó; dùng để định đoạt khối tài sản
chung của vợ, chồng; vợ, chồng có thể thỏa thuận các nội dung của di chúc chung;
chỉ được sửa đổi khi có sự đồng của vợ chồng nếu cả hai đều còn sống, và được
sửa đổi riêng phần di chúc trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản
chung nếu một bên đã chết.

8


Như đã xác định, di chúc chung cũng là một loại di chúc, nên phải tuân thủ
các quy định chung về điều kiện có hiệu lực của di chúc, về thời điểm phát sinh
quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức, về thời hiệu khởi kiện thừa kế, về thực hiện
việc phân chia tài sản theo di chúc, về quyền thừa kế của những người thừa kế bắt
buộc… Ngoài ra, còn có những nội dung khác liên quan đến thời hiệu khởi kiện,
sự bảo toàn giá trị khối di sản là tài sản chung cho đến khi chia di sản theo di chúc

chung, quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc, quyền khởi kiện để xin
tòa án tuyên bố di chúc vô hiệu do được lập không hợp pháp.
Bởi vậy, cần quán triệt quan điểm tách quy định về di chúc chung thành một
mục riêng nhằm đảm bảo tính đặc thù của các quy định này, đồng thời dự liệu đầy
đủ các nội dung khác nhau của di chúc chung. Cụ thể, quy định về di chúc chung
sẽ được thiết kế thành một mục riêng – mục 2 của Chương thừa kế theo di chúc
trong BLDS 2005. Theo đó, Chương thừa kế theo di chúc sẽ có hai mục là: mục 1
quy định chung về di chúc và thừa kế theo di chúc; mục 2 quy định về di chúc
chung của vợ, chồng. Bên cạnh đó, các quy định về di chúc chung của vợ chồng
phải được quy định sao cho nhất quán với các quy định khác có liên quan.
3.1.2. Cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề thời điểm có hiệu lực của di
chúc chung.
Xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là một vấn đề pháp lý
quan trọng nhằm xác định thời điểm phát sinh quyền thừa kế của những người
thừa kế theo di chúc chung, cũng như có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xác lập
quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của mỗi bên vợ hoặc
chồng. Bởi vậy, cần thừa nhận cả hai khả năng là vợ, chồng có thỏa thuận về thời
điểm có hiệu lực của di chúc chung và trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận về
vấn đề này trong di chúc chung. Mục đích là làm cho quy định về thời điểm có
hiệu lực của di chúc chung vừa bảo đảm tính đặc thù của việc thể hiện ý nguyện
chung của vợ, chồng, nhưng cũng đảm bảo tính thống nhất với các quy định khác

9


có liên quan. Ví dụ: di chúc chung có thể định đoạt tài sản chung và cả tài sản
riêng của mỗi bên vợ, chồng, trong trường hợp vợ, chồng có đề cập đến tài sản
riêng trong di chúc chung đó; hoặc hiệu lực (một phần) của di chúc chung có thể
được xác định vào thời điểm một bên vợ hoặc chồng chết. Nhưng nếu vợ, chồng
thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung hoặc thỏa thuận về thời

điểm phân chia di sản thì cần phải tôn trọng thỏa thuận đó.
Sự kết hợp mềm dẻo giữa quy định về di chúc cá nhân, quyền thừa kế của cá
nhân với việc lập di chúc chung, hiệu lực và thực thi di chúc chung có một số đặc
thù, sẽ làm cho quy định về di chúc chung không mâu thuẫn với quy định chung về
thừa kế, nhưng vẫn bảo đảm được các nội dung cần thiết và những dấu hiệu riêng
biệt của loại di chúc đặc thù này. Để đạt được yêu cầu đó, nhà làm luật cần quán
triệt quan điểm xem di chúc chung của vợ, chồng như là trường hợp đặc biệt của di
chúc cá nhân, là sự cộng lại của hai di chúc cá nhân, có tính đến sự đặc thù về hiệu
lực của quan hệ hôn nhân giữa những người lập di chúc chung, cũng như đối tượng
của di chúc ở đây là tài sản chung của vợ, chồng.
3.1.3. Ngoài việc quy định rõ ràng về các trường hợp cụ thể đặc thù của di chúc
chung, pháp luật cần giải quyết rốt ráo các vấn đề bất cập phát sinh từ việc thừa
nhận các đặc thù đó.
Khi luật thừa nhận những tính chất, dấu hiệu đặc thù của di chúc chung sẽ
dẫn đến một số điểm khác biệt trong việc áp dụng pháp luật và hậu quả pháp lý của
của việc áp dụng các quy định khác biệt đó. Trong những trường hợp như vậy, nhà
làm luật cần tính đến những hệ quả kéo theo khi chấp nhận các quy định đặc thù
này. Ví dụ: khi một phần nội dung có định đoạt đến tài sản riêng thì việc xác định
thời điểm hiệu lực của phần di chúc riêng này dẫn đến hậu quả như thế nào, nếu
như vợ, chồng thỏa thuận với nhau về thời điểm di chúc chung là thời điểm người
sau cùng chết; hoặc nếu vợ, chồng không thỏa thuận được về việc sửa đổi, bổ sung
di chúc chung và một bên đã tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung thì phần sửa đổi,

10


bổ sung đó có giá trị không; hoặc nếu một người để lại nhiều tờ di chúc chung với
nhiều người vợ, chồng hợp pháp khác nhau của họ mà trong đó thỏa thuận nhiều
thời điểm có hiệu lực khác nhau, đồng thời họ còn lập cả di chúc riêng để định
đoạt tài sản riêng, thì các di chúc này được thực hiện như thế nào… cũng cần phải

được dự liệu.
Việc dự liệu các tình huống trên một mặt khắc phục những bất cập của quy
định hiện hành về vấn đề hiệu lực của di chúc chung, đồng thời qua đó cũng hoàn
thiện việc xây dựng một mục riêng để quy định về vấn đề di chúc chung, như đã
kiến nghị ở mục 3.1.1. ở trên.
3.2.Những phương hướng, kiến nghị cụ thể.
Dường như kiến nghị bãi bỏ qui định di chúc chung của vợ, chồng là không
khả thi, vì đây là một thực tiễn pháp lý và tục lệ, đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt
Nam. Vấn đề cần thiết hiện nay là, làm sao vẫn duy trì di chúc chung nhưng phải
hạn chế tối đa những rắc rối, phức tạp do việc thừa loại di chúc này mang lại. Bởi
thế, em xin đưa ra một số kiến nghị của một số nhà làm luật, mà qua quá trình tìm
hiểu về vấn đề di chúc chung của vợ chồng em tham khảo được, nhằm phục vụ cho
việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật có liên quan tới di chúc
chung của vợ, chồng:
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
theo hướng dự liệu cả trường hợp có thỏa thuận và không thỏa thuận giữa vợ,
chồng về thời điểm này.
Theo đó, Điều 668 BLDS 2005 được sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
Điều 668 (sửa đổi, bổ sung) về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ,
chồng:
“Khi có một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vợ, chồng không có thỏa
thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung thì chỉ phần di chúc chung có
11


liên quan đến phần di sản của người chết trước được định đoạt trong di chúc
chung có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc chung về thời điểm
có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản được
định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng chỉ được phân chia từ thời điểm đó.

Việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không làm ảnh hưởng đến
quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của các bên vợ, chồng
trong việc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền thừa kế hợp pháp của mình khi một bên vợ
hoặc chồng chết trước”.
Nội dung điều luật được đề nghị sửa đổi nói trên vừa hóa giải sự xung đột
giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với các quy định về thời
điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền thừa kế, mốc tính thời hiệu khởi kiện,
mốc để tính thời hạn từ chối di sản, quyền yêu cầu chia thừa kế, quyền được hưởng
thừa kế bắt buộc…, nhưng cũng vừa thể hiện sự mềm dẻo của luật pháp. Qua đó,
tạo cơ hội để những người thừa kế hợp pháp của mỗi bên vợ hoặc chồng được
quyền khởi kiện để chia thừa kế bắt buộc, yêu cầu tòa án tuyên bố di chúc chung
vô hiệu hoặc yêu cầu tòa án tước quyền thừa kế của người được chỉ định thừa kế
theo di chúc chung nhưng có hành vi trái pháp luật được quy định tại Điều 643
BLDS 2005.
3.2.2. Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của phần di chúc do một bên
sửa đổi, bổ sung mà không được sự đồng ý của người kia.
Pháp luật hiện hành không thừa nhận một bên vợ hoặc chồng có quyền tự ý
sửa đổi, hủy bỏ di chúc chung mà không được sự đồng ý của người kia. Việc này
đã xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với phần tài sản riêng của
mình. Mặt khác, người ta có thể lẩn tránh pháp luật bằng cách định đoạt phần tài
sản của họ bằng cách khác, như tặng cho, hoặc bán…

12


Để đảm bảo quyền tự do định đoạt của cá nhân, đảm bảo di chúc được lập
phù hợp với ý chí đích thực, tự nguyện của mỗi bên vợ – chồng, bên cạnh việc quy
định vợ, chồng cùng nhau thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung, thiết
nghĩ cũng cần phải thừa nhận quyền tự do của mỗi bên vợ, chồng trong việc sửa
đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần quyền của mình trong khối tài sản

chung, dù không được sự đồng ý của bên kia. Đồng thời với việc thừa nhận mỗi
bên vợ hoặc chồng có quyền tự do sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc chung trong
phạm vi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, luật cũng cần phải quy định hệ quả
pháp lý của việc này, nhất là việc xác định thời điểm có hiệu lực của từng phần di
chúc chung sau khi di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, sửa đổi Điều 664
BLDS 2005 như sau:
Điều 664: “Khoản1(nội dung khoản 1 giữ nguyên).
Khoản 2(sửa đổi, bổ sung): Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Một bên cũng có
quyền tự mình sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần di sản của
mình. Việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung theo ý chí của một bên chỉ có giá trị
trong phạm vi phần sửa đổi, bổ sung nhưng không vượt quá phần tài sản của
người đó trong khối tài sản chung.
Khoản 3(kế thừa quy định của Điều 671 BLDS 1995):
Nếu vợ, chồng thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời
điểm người sau cùng chết, mà có một bên vợ chồng đã chết, thì người vợ hay
chồng còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của
mình.
Khoản 4(bổ sung quy định mới về hiệu lực của phần di chúc chung bị sửa
đổi, bổ sung và phần không bị sửa đổi bổ sung):

13


Thời điểm có hiệu lực của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung và
phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung theo thỏa thuận của vợ, chồng được xác
định theo Điều 668 Bộ luật này. Phần di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung bởi
quyết định đơn phương của một bên vợ hoặc chồng có hiệu lực theo quy định tại
Điều 667 Bộ luật này”.
Quy định như trên nhằm đảm bảo quyền tự do định đoạt cá nhân trong việc

để lại di sản thừa kế, đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa quy định này với các
quy định khác có liên quan, như quy định về quyền sở hữu chung của vợ, chồng
đối với tài sản chung, quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế, thời điểm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại… Hơn thế
nữa, quy định này còn tạo cơ hội để một bên có thể sửa chữa những quyết định sai
lầm của mình khi lập di chúc chung: được sửa đổi, bổ sung di chúc chung mặc dù
không được bên kia đồng ý.
Đồng thời với việc sửa đổi quy định tại Điều 664 như vừa nêu, vấn đề thời
điểm có hiệu lực của di chúc chung trong trường hợp có sửa đổi, bổ sung cũng
được quy định cụ thể theo hướng: ổn định giá trị pháp lý của phần di chúc chung
không bị sửa đổi, bổ sung; nếu việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung có sự thỏa
thuận của vợ, chồng thì thời điểm có hiệu lực của nó được xác định theo nguyên
tắc chung (Điều 668); đồng thời tách riêng phần di chúc được sửa đổi, bổ sung bởi
quyết định đơn phương của một bên vợ, chồng để xem xét như một di chúc cá
nhân.
3.2.3. Bổ sung thêm quy định về thời điểm có hiệu lực của các di chúc có liên
quan, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ, chồng để lại nhiều di chúc khác nhau.
Trong trường hợp một người để lại di chúc chung và nhiều di chúc cá nhân
khác nhau hoặc để lại nhiều di chúc chung khác nhau (hoặc nhiều di chúc chung
với nhiều người vợ hay người chồng hợp pháp khác nhau của người đó) thì sự ảnh
hưởng hiệu lực giữa các di chúc này với nhau ra sao, và thời điểm phát sinh hiệu
14


lực của các di chúc là thời điểm nào, là vấn đề phức tạp nhưng vẫn chưa được quy
định cụ thể trong luật hiện hành. Thiết nghĩ, giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của
mỗi tờ di chúc trong trường hợp này phải được xem xét như những di chúc riêng
biệt của một cá nhân, dựa trên mối tương quan về nội dung, cũng như thời điểm
mà mỗi tờ di chúc được lập. Tùy nội dung các di chúc có mâu thuẫn nhau hay
không, tùy thời điểm lập các di chúc là trước hay sau, mà quy định cụ thể về giá trị

pháp lý cũng như hiệu lực của từng tờ di chúc đó một cách hợp lý, tương tự như di
chúc của cá nhân. Nội dung này được thiết kế thành điều luật mới. Nội dung điều
luật có thể được diễn đạt ngắn gọn bằng phương pháp dẫn chiếu điều luật quy định
về những nội dung tương ứng của di chúc cá nhân.
Theo đó, thiết nghĩ cần bổ sung khoản mới là “Nếu một người vừa lập di
chúc chung, vừa lập di chúc riêng hoặc lập nhiều di chúc chung với nhiều người
khác nhau, thì việc xác định giá trị pháp lý của mỗi tờ di chúc được dựa theo quy
định tại các Điều 662, Điều 664, khoản 5 Điều 667 và Điều 668 của Bộ luật này”.
Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết những
những di chúc có nội dung mâu thuẫn nhau, trong trường hợp các di chúc đó được
lập vào những thời điểm khác nhau bởi mỗi bên vợ hoặc chồng, hoặc bởi cả hai
vợ, chồng. Theo đó, nếu nội dung của các tờ di chúc không mâu thuẫn nhau, thì
các di chúc đó đều có giá trị pháp lý; nếu nội dung của các di chúc mâu thuẫn nhau
thì di chúc sau cùng là di chúc có giá trị pháp lý; nếu một phần di chúc trước có
mâu thuẫn với di chúc sau, thì phần di chúc trước đó không có giá trị pháp lý còn
di chúc sau và phần di chúc trước không mẫu thuẫn với di chúc sau có giá trị pháp
lý. Quy định như trên cũng tạo ra sự thống nhất với quy định mới về quyền sửa
đổi, bổ sung di chúc chung của một bên vợ hoặc chồng.
3.2.4. Cần quy định rõ ràng về hệ quả của việc xác định thời điểm có hiệu
lực của di chúc chung với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế.

15


Nếu thừa nhận vợ, chồng có thể thỏa thuận xác định thời điểm có hiệu lực
của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết thì cần phải xác định rõ hậu quả
của quy định này đối với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế. Về nguyên tắc, thời
hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế .
Bên cạnh đó, để tạo căn cứ pháp lý rõ ràng cho việc áp dụng quy định pháp
luật về cách tính thời hiệu khởi kiện thừa kế, thiết nghĩ nhà làm luật cần bổ sung

quy định về căn cứ làm gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện thừa kế, nếu
quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng
chết, nếu vợ, chồng có thỏa thuận. Cụ thể:
Điều 645 (bổ sung):
“Khoản 1 (nội dung quy định hiện hành được giữ nguyên và thiết kế thành
khoản 1 của Điều luật).
Khoản 2 (bổ sung): Thời hiệu khởi kiện thừa kế được bắt đầu lại trong các
trường hợp sau:
Khi vợ, chồng có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời
điểm bên sau cùng chết, thì thời hiệu khởi kiện thừa kế bắt đầu lại từ ngày di chúc
chung có hiệu lực.”
Quy định này không cản trở những người thừa kế khởi kiện sớm hơn để xin
chia thừa kế phần di sản không được định đoạt trong di chúc chung; hoặc khởi
kiện xin tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu do di chúc không hợp pháp hoặc
người thừa kế theo di chúc chung chết trước người lập di chúc, không có quyền
hưởng thừa kế hoặc từ chối quyền hưởng di sản; hoặc khởi kiện xin chia thừa kế
theo quy định tại Điều 669 của Bộ luật này (thừa kế bắt buộc).
Thông qua những kiến nghị trên, ta có thể thấy rằng, quy định của luật hiện
hành về vấn đề di chúc chung của vợ chồng vẫn còn nhiều bất cập và chưa tính
đến nhiều hệ quả pháp lý khác có liên quan, nhất là khi vợ, chồng lập nhiều di
16


chúc khác nhau, gồm cả di chúc riêng của cá nhân và di chúc chung với người vợ
hay người chồng khác (ví dụ người vợ hay người chồng sau trong trường hợp ly
hôn hoặc do một bên chết trước). Bởi vậy, việc sửa đổi, bổ sung điều luật này phải
được xuất phát từ quan điểm mềm dẻo, tôn trọng quyền tự do lập di chúc của cá
nhân, và phải đặt nó trong quan hệ tổng thể với các quy định khác có liên quan,
như quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền hưởng di sản
của người thừa kế, quyền được hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc

của những những người thừa kế bắt buộc của người để lại di sản…; đồng thời phải
giải quyết toàn diện các hệ quả pháp lý đặt ra của việc thừa nhận các thời điểm có
hiệu lực khác nhau của di chúc chung, của di chúc sửa đổi, bổ sung di chúc chung
và các di chúc khác của mỗi bên vợ hoặc chồng, thời hiệu khởi kiện về thừa kế
trong trường hợp có di chúc chung…, có tính đến những tính chất đặc thù của di
chúc chung. Có như vậy mới khắc phục triệt để những bất cập của quy định về thời
điểm có hiệu lực của di chúc chung trong Bộ luật Dân sự hiện hành.

17


III. PHẦN KẾT LUẬN

Qua việc tìm hiểu vấn đề về di chúc chung của vợ chồng

cho thấy, di chúc

chung của vợ, chồng hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản. Luật thực định chỉ
dùng một hai điều luật ngắn để điều chỉnh vấn đề này, rõ ràng là chưa tương xứng
và không đủ liều lượng cần thiết. Đó sẽ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bất cập
và thiếu nhất quán trong việc thực thi pháp luật về vấn đề liên quan.
Theo quan điểm của cá nhân em, em đồng tình với những kiến nghị, những
định hướng trong việc sửa đổi, bổ sung những điều, khoản mới liên quan đến di
chúc chung của vợ, chồng. Và vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung nội dung này trong
BLDS 2005 là việc cần thiết và nên làm ngay để tránh được những bất cập giữa
những quy định của luật hiện hành và thực tế cuộc sống. Đây cũng là một việc làm
quan trọng góp phần đảm bảo sự hạnh phúc, hòa thuận trong gia đình, và giữa mỗi
thành viên. Bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.

18



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Trường Đại hoac Luật Hà Nội,
NXB CAND.
2.Luật thừa kế Việt Nam, TS Phùng Trung Tập, NXB HN.
3.Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử: www.nclp.org.vn
4.Thời hiệu khởi kiện thừa kế – Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện,
Lê Minh Hùng, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2004, tr. 40 – 50.
5.Trang web: www.hcmulaw.edu.vn.
6.Bộ Luật Dân sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Lao
Động.

19


20



×