ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
============ ***** ============
PHẠM THỊ OANH
MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI
VỚI TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2003
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
============ ***** ============
PHẠM THỊ OANH
MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI TỰ NHIÊN
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 5.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hàm Giá
HÀ NỘI - 2003
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 7
Chương 1: Quan niệm triết học về mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên 7
1.1. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong lịch sử tư
tưởng trước Mác 7
1.2. Quan niệm mácxít về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên 19
Chương 2: Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ở Việt Nam
hiện nay: vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường 39
2.1. Môi trường và hiện trạng môi trường Việt Nam. 39
2.2. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng môi trường Việt Nam 61
2.3. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu chiến lược và những giải pháp chủ
yếu nhằm bảo vệ môi trường 73
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuở xa xưa, ngay từ buổi bình minh của lịch sử, con người đã luôn luôn
đặt ra những câu hỏi và đi tìm lời giải đáp về bản thân mình, về vũ trụ, về mối
quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh. Vì vậy, mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên là một trong những vấn đề được quan tâm nghiên cứu của hầu
hết các triết gia trong mọi thời đại. Xuất phát từ cách giải quyết vấn đề này mà
con người có thái độ khác nhau trong quan hệ với môi trường xung quanh. Mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên được thể hiện qua những hành động trong
cuộc sống hàng ngày, trước hết là trong hoạt động sản xuất vật chất.
Sản xuất càng phát triển, mức độ tác động của con người vào tự nhiên
càng gia tăng. Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học và công nghệ
đang diễn ra như vũ bão trên phạm vi toàn cầu. Một mặt, cách mạng khoa học và
công nghệ đã mang lại cho con người những tiến bộ vượt bậc trong việc chinh
phục tự nhiên, phát triển sản xuất, song mặt trái của nó cũng bộc lộ gay gắt hơn
bao giờ hết: quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng phức tạp, làm nảy
sinh những vấn đề nóng bỏng về môi trường sinh thái đe doạ sự tồn vong của
loài người. Trái Đất, ngôi nhà chung của chúng ta đang kêu cứu. Bảo vệ môi
trường là trách nhiệm và là lợi ích lâu dài của mỗi quốc gia cũng như cả loài
người.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội mà chúng ta đã đạt được thì
tình trạng khai thác tự nhiên gia tăng và sự thiếu ý thức bảo vệ đã dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Vấn đề sử dụng hợp lý, bảo vệ và tái tạo
tài nguyên, môi trường đang được đặt ra hết sức cấp thiết ở nước ta hiện nay. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra mục
2
tiêu phát triển kinh tế - xã hội: “Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội
với bảo vệ và cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững; tiến tới bảo
đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt ”
[15; 302].
Làm thế nào để có thể giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, đó là bài toán cần có
thêm lời giải về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và
vấn đề đặt ra trong việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay” nhằm đáp ứng
đòi hỏi trên. Chúng tôi mong rằng đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé cùng toàn
Đảng, toàn dân thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề
ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đã được các nhà triết học nghiên
cứu trong lịch sử. Trong triết học Mác, vấn đề này cũng đã được các nhà kinh
điển phân tích rất sâu sắc qua nhiều tác phẩm như: Bản thảo kinh tế – triết học
1844; Tư bản; Chống Đuy Rinh và đặc biệt tập trung trong tác phẩm Biện chứng
của tự nhiên. Trong tác phẩm này Ph. Ăngghen đã cảnh tỉnh chúng ta về những
nguy cơ mà con người có thể gây ra đồng thời nêu lên những luận điểm có tính
nguyên tắc trong quan hệ ứng xử với môi trường tự nhiên.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, trước sự xuống cấp nghiêm
trọng của môi trường và sự cần thiết bảo vệ môi trường sống của con người, liên
tiếp các cuộc hội thảo, các tài liêu, các công trình nghiên cứu của nhiều tổ chức,
nhiều nhà khoa học thuộc các ngành khoa học khác nhau đã được công bố.
Trong nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã thực sự quan tâm đến vấn
đề môi trường. Năm 1982, hàng loạt các hội thảo chuyên đề liên quan đến môi
3
trường và tài nguyên thiên nhiên đã được tổ chức. Năm 1990, Hội nghị quốc tế
về môi trường và phát triển bền vững được tổ chức thành công tại Hà Nội. Hàng
trăm báo cáo tham luận của 80 đại biểu quốc tế của trên 30 nước và tổ chức quốc
tế và của gần 300 đại biểu Việt Nam được trình bày tại hội nghị. Năm 1991 Việt
Nam công bố Kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai
đoạn 1991-2000. Năm 1993, Luật bảo vệ môi trường được Quốc Hội thông qua.
Năm 1998, Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức
Năm 1995, Tuyển tập báo cáo của các nhà khoa học môi trường “Bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững” được xuất bản. Các báo cáo khoa học trong
tuyển tập đã tiến hành điều tra nghiên cứu cụ thể về môi trường và sự ô nhiễm
môi trường ở từng địa phương cũng như trong toàn quốc đồng thời đưa ra những
kiến nghị, giải pháp khắc phục sự ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
Chương trình Khoa học - Công nghệ cấp Bộ “Triết lý về sự phát triển của
Việt Nam” do Giáo sư Phạm Xuân Nam làm chủ nhiệm được xuất bản năm
2000. Chương trình đã nghiên cứu một cách tổng quát những vấn đề khác nhau
trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, trong đó có phân tích trạng thái lý luận
và thực tiễn của vấn đề mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nhằm từng
bước đưa ra một triết lý phù hợp cho sự phát triển bền vững.
Đề án “Xây dựng năng lực quản lý môi trường ở Việt Nam” do các GS Lê
Văn Khoa, TS Nguyễn Ngọc Sinh, TS Nguyễn Tiến Dũng thực hiện đã cung
cấp nguồn tài liệu hết sức phong phú đáp ứng đòi hỏi học tập nghiên cứu của
sinh viên và những người nghiên cứu về môi trường.
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và vấn đề môi trường cũng đã
được nghiên cứu trong một số công trình, bài báo, tạp chí trong những năm gần
đây.
4
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn với bài “Những tư tưởng của Ph. Ăngghen
về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong Biện chứng của tự nhiên”; bài
“Sự liên hệ lẫn nhau giữa các khoa học trong việc giải quyết vấn đề sinh thái”
và nhiều bài báo khác từ những năm 1980 đến nay đã phân tích sâu sắc mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên dưới góc độ triết học và ý nghĩa thực tiễn của nó.
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm với tác phẩm “Môi trường sinh thái: Vấn đề
và giải pháp” xuất bản năm 1997; tác phẩm “Văn hoá sinh thái nhân văn” xuất
bản năm 2001 cùng nhiều bài báo khác đã phân tích rất toàn diện về mối quan hệ
qua lại giữa các yếu tố trong hệ thống Tự nhiên - Con người - Xã hội, về thực
trạng và giải pháp cho vấn đề môi trường ở Việt Nam, trong đó việc xây dựng ý
thức đạo đức sinh thái và xây dựng nếp sống văn hoá sinh thái được hết sức quan
tâm.
Một số tác giả khác như Chu Tuấn Nhạ với bài “Bảo vệ môi trường trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” trên tạp chí Cộng sản số
8/1998; tác giả Nguyễn Duy Quý (chủ biên) với tác phẩm “Đô thị hóa trong quá
trình công nghiệp hoá”; tác giả Trần Trọng Hựu với bài viết về chính sách sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trên tạp chí Hoạt động khoa
học số 2/1998; tác giả Bùi Văn Dũng với đề tài “ Mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” năm 1999; tác Giả Phạm
Văn Boong với tác phẩm “Ý thức sinh thái và vấn đề phát triển lâu bền” năm
2002 đã đề cập đến vấn đề mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, môi
trường ở những góc độ khác nhau. Có thể thấy mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, môi trường đã được các tác giả trong nước đề cập khá toàn diện. Song
do mục đích khác nhau mà mỗi tác giả có một hướng tiếp cận riêng, hầu hết các
tác giả chưa tiến hành khái quát những quan điểm triết học trong lịch sử về vấn
đề này. Mặt khác sự vận động phát triển của tự nhiên, con người, xã hội đang
5
diễn ra hết sức nhanh chóng dưới tác động to lớn của Cách mạng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ở Việt Nam hiện
nay cũng đang biến đổi sâu sắc từng ngày đòi hỏi phải có sự ngiên cứu bổ sung
không ngừng về mặt lý luận. Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi cố
gắng trình bày khái quát lại những quan điểm tiêu biểu về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên trong tư tưởng nhân loại đồng thời có bổ sung thêm những
nghiên cứu mới về hiện trạng môi trường Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Vận dụng quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
để nghiên cứu thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm khai thác, bảo vệ có
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạn chế tác động tiêu cực của con người
đến tự nhiên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau:
1. Khái quát những quan điểm tiêu biểu về mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong lịch sử tư tưởng trước Mác.
2. Làm rõ quan điểm mácxít về cơ sở và đặc điểm của mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
3. Phân tích thực trạng của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ở Việt
Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác, bảo vệ có hiệu quả
nguồn tài nguyên, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của con người đến tự nhiên.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6
Cơ sở lý luận:
Phép biện chứng duy vật, những tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.
Lênin, Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Những quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các kết quả điều tra, nghiên cứu của các
nhà khoa học Việt Nam có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lôgích và lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá,
trên tinh thần kết hợp lý luận với thực tiễn và phương pháp luận biện chứng duy
vật.
5. Đóng góp của luận văn
- Khái quát những quan điểm tiêu biểu về mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên trong lịch sử.
- Làm rõ quan điểm Mác xít về cơ sở và đặc điểm của mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên.
- Bước đầu xây dựng một số luận cứ khoa học và đề xuất một số giải
pháp góp phần vào việc giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu giảng
dạy, học tập cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, môi trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm : hai chương, năm tiết.
7
NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA CON NGƯỜI VỚI TỰ NHIÊN
1.1. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong lịch sử tư tưởng trước
Mác
1.1.1 Triết lý hoà hợp với tự nhiên trong quan niệm truyền thống
phương Đông
Phương Đông là một vùng văn hoá lâu đời với trung tâm là Ấn Độ và
Trung Quốc, hai trong số những nền văn minh sớm nhất, rực rỡ nhất của nhân
loại. Hình thành ở lưu vực của những con sông lớn, dựa trên nền sản xuất nông
nghiệp chủ yếu trồng lúa nước trong điều kiện khoa học, kỹ thuật chậm phát
triển, cuộc sống của các cộng đồng cư dân phương Đông phần lớn dựa vào
những yếu tố tự nhiên có sẵn như nguồn nước dồi dào, đất đai màu mỡ, phì
nhiêu, hệ động thực vật giàu có Đây chính là cơ sở của nếp sống cộng đồng
gắn bó vô cùng mật thiết với thiên nhiên của người dân phương Đông. Từ cuộc
sống bình dị mà phong phú, đa dạng ấy đã sớm hình thành những quan niệm hết
sức sâu sắc về vũ trụ, về con người và mối quan hệ qua lại giữa chúng. Những
quan niệm này ngày càng được phát triển và phổ biến, trở thành truyền thống, trở
thành triết lý sống hoà hợp với tự nhiên của phương Đông.
8
Tam tài, mô hình vũ trụ độc đáo của người Trung Quốc nói riêng, người
phương Đông nói chung, là điểm xuất phát của triết lý hoà hợp với tự nhiên.
Tam tài là bộ ba điển hình nhất mô tả cấu trúc không gian vũ trụ bao gồm ba
thành tố Thiên - Địa - Nhân có quan hệ chặt chẽ tạo thành một chỉnh thể. Trong
tam tài, con người là một bộ phận không thể tách rời của trời đất. Con người
không chỉ là sản phẩm của tự nhiên một cách trừu tượng mà được cụ thể hoá là
kết quả của sự giao cảm giữa trời và đất, giữa âm và dương. Con người là hiện
thân của trời đất, trời đất thu nhỏ trong con người. Mỗi con người là một vũ trụ
thu nhỏ trong vũ trụ bao la.
Từ một điểm xuất phát là tam tài, đã hình thành hai khuynh hướng khác
nhau trong quá trình phát triển. Khuynh hướng tích cực xem con người ở vị trí
trung tâm của vũ trụ. Mặc dù con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng con
người không nhỏ bé, không hoà tan hoàn toàn vào tự nhiên. Con người đứng
giữa đất trời, hiện lên giữa đất trời với tầm vóc chân đạp đất, đầu đội trời, nhưng
con người không đối lập với đất trời. Bởi vì giữa người và trời là “thiên nhân
hợp nhất” hay “thiên nhân tương dữ”, “thiên nhân cảm ứng”, tức là giữa người
và trời có thể tương cảm, giao cảm lẫn nhau. Khổng Tử cho rằng nếu “người
bẩm thụ được cái “tính” của trời thì đạo của trời tức là đạo của người” [26; 212].
Như vậy con người hoàn toàn có thể hiểu được, “cảm” được “đạo trời”. Con
người không hoạt động tuỳ tiện cũng không hoàn toàn thụ động mà có thể biến
“đạo của trời” thành “đạo của người” nếu con người cảm được “đạo trời”, thuận
theo “đạo trời” mà hành động. Như vậy là bằng sự nỗ lực, quyết tâm, con người
có thể "cảm" được "đạo trời", biến "đạo của trời" thành "đạo của người" tức là
khi đó "nhân định thắng thiên". Theo quan điểm này con người không hoàn toàn
nhắm mắt theo "thiên mệnh", cũng không thể đi ngược lại"đạo trời" mà phải theo
đó mà hành động. Vì vậy, người phương Đông cho rằng để đạt tới thành công
9
trong bất kỳ hoạt động nào cũng cần hội tụ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân
hoà” mà con người phải tính tới.
Mặc dù quan niệm này được xây dựng dựa trên trực giác của người
phương Đông và không khỏi mang tính cảm tính nhưng đây là một khuynh
hướng tích cực, tiến bộ. Nó hoàn toàn không xa lạ với nguyên tắc căn bản trong
quan điểm mác xít về sự nhận thức và hành động theo quy luật của giới tự nhiên
mà chúng ta sẽ xem xét ở phần sau.
Một khuynh hướng khác lại cho rằng “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”
trong đó “thiên” vừa được xem như một lực lượng thiên nhiên bên ngoài, vừa
như ông Trời. "Thiên mệnh" là số phận của mỗi người như một kịch bản viết
sẵn, một trật tự bất biến. Con người là nô lệ của "thiên mệnh" và phải nhắm mắt
thuận theo " thiên mệnh".
Cùng chung tinh thần thụ động trên, triết học Ấn Độ cổ đại cho rằng mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ là mối quan hệ giữa tiểu ngã và đại ngã, giữa
bộ phận và toàn thể, vừa đồng nhất, vừa khác biệt, như không khí trong bình và
không khí ngoài trời, như sóng biển với biển. Cái tiểu ngã thì nhất thời hữu hạn,
cái đại ngã thì vĩnh hằng bất biến. Vì vậy mục đích của con người là phải làm
điều thiện, điều tốt để trở về với đại ngã, cội nguồn mà mình đã sinh ra. Mặc dù
đây là những quan niệm thể hiện thế giới quan duy tâm, tôn giáo nhưng đều
hướng con người tới sự hoà hợp với tự nhiên, tôn trọng giới tự nhiên từ việc tôn
trọng những sinh linh bé nhỏ nhất.
Quan niệm về bản chất con người cũng là cơ sở hình thành triết lý về sự
hoà hợp giữa con người với tự nhiên. Hầu hết các học thuyết phương Đông đều
cho rằng con người là kết quả của sự hoà hợp các yếu tố trong trời đất mà thành.
Con người chỉ là sự hợp tan của ngũ uẩn, năm yếu tố vật chất và tinh thần trong
vũ trụ. Sự tồn tại, vận động của con người cũng như vạn vật, cỏ cây đều phải
tuân theo những quy luật phổ biến của vũ trụ, đều nằm trong vòng chuyển biến
10
bất tận của “luân hồi”, của “đạo”. Bởi vậy không thể có sự đối lập nào giữa con
người và vạn vật.
Sách Lễ ký của Nho gia có viết: con người là đức của trời đất, là điểm
giao nhau của âm dương, là chỗ hội tụ của quỷ thần, là khí tốt lành của ngũ hành.
Chính vì vậy bản chất ban sơ của con người là thiện, là hài hoà, hoà hợp với
mình, với người, với thế giới xung quanh.
Lão Tử trong Đạo đức kinh cho rằng: con người từ đạo sinh ra và bị chi
phối bởi đạo. Thuận theo “đạo trời” (đạo của tự nhiên) là phải “vô vi”, sống tự
nhiên, thuần phác, đừng làm gì trái với bản tính tự nhiên của đạo. Hãy trở về với
tự nhiên, hãy trả cho con người bản tính tự nhiên vốn có. Quan niệm này về sau
được Trang Tử đẩy đến cực đoan theo tinh thần tuyệt đối hoá bản tính tự nhiên
của con người tách khỏi những quan hệ xã hội. Trang Tử chủ trương “thoát tục”,
“thuận theo tự nhiên”, coi “trời đất với ta cùng là một”.
Tóm lại, truyền thống hoà hợp với tự nhiên chủ yếu xem con người là bộ
phận của tự nhiên, coi trọng mặt thống nhất trong quan hệ giữa con người với tự
nhiên, từ đó dẫn đến thái độ tôn trọng tự nhiên và mô phỏng trật tự của tự nhiên.
Đây là một truyền thống đáng quý. Nó tạo nên tâm hồn, tình cảm, nét văn hoá
phong phú, sinh động, độc đáo của phương Đông. Đó là cơ sở để hình thành nếp
sống, nếp nghĩ với tình cảm yêu thiên nhiên, gắn bó với tự nhiên, với con người,
cần được kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Tuy nhiên nếu xu hướng này
bị đẩy tới cực đoan sẽ hạn chế khả năng sáng tạo và những sức mạnh to lớn
trong việc tác động cải tạo giới tự nhiên của con người mà theo Ph. Ăngghen,
chính điều đó lại là cái phân biệt chủ yếu giữa con người với động vật.
1.1.2 Triết lý chinh phục tự nhiên trong quan niệm truyền thống
phương Tây
Khái niệm “Phương Tây” được dùng để chỉ vùng văn hoá có khởi nguồn
từ văn hoá Hy Lạp - La Mã, sau mở rộng ra các nước Âu - Mỹ và các nước chịu
11
ảnh hưởng của văn hoá Âu - Mỹ. Nét đặc trưng của văn hoá phương Tây trong
việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa con người với tự nhiên là thiên về tìm
hiểu, khám phá, chinh phục tự nhiên. Tinh thần chủ động tích cực ấy có cội
nguồn sâu xa từ truyền thống tôn vinh con người đã xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ
đại.
Đại biểu cho khuynh hướng đề cao con người trong triết học Hy - La cổ
đại, trước hết phải kể đến Prôtago. Khi đề cập đến vấn đền chân lý, ông đưa ra
luận điểm nổi tiếng: “Con người là thước đo của mọi vật”. Theo Prôtago, chuẩn
mực để đánh giá mọi vấn đề chính là ý kiến cá nhân của chủ thể.
Tư tưởng đề cao con người được Xôcrát phát triển tới đỉnh cao. Bắt đầu từ
Xôcrát, vấn đề con người trở thành trọng tâm nghiên cứu của triết học. Theo
ông, triết học không phải là gì khác hơn sự nhận thức của con người về chính
bản thân mình. Xôcrát đề cao năng lực tư duy, năng lực suy nghĩ của con người,
cái mà nhờ đó con người khẳng định vị trí trung tâm của vũ trụ. Ông bổ sung
thêm vào luận điểm của Prôtago: “Con người với tư cách là kẻ biết suy nghĩ mới
là thước đo của mọi vật”. Với luận điểm nổi tiếng “con người hãy nhận thức
chính mình” ông được xem là cội nguồn của chủ nghĩa hiện sinh hiện đại, một
khuynh hướng triết học đi sâu vào đời sống nội tâm của cá nhân con người, đẩy
sự sáng tạo tự do cá nhân lên tới cực đoan vượt qua mọi giới hạn.
Lịch sử Tây Âu suốt thời kỳ Trung cổ chịu sự thống trị của tinh thần Kitô
giáo về sự sáng tạo của Thượng đế. Luận thuyết này cho rằng Chúa đã sáng tạo
ra thế giới, vạn vật và con người. Con người là đỉnh cao của sự sáng tạo nên bản
thân con người cũng có tính sáng tạo. A.G. Spirkin cho rằng: “Kitô giáo thần
thánh hoá nhân cách tuyệt đối của tạo hoá và bằng cách đó cũng thần thánh hoá
cả con người như là hình ảnh đồng dạng của tạo hoá” [40; 188]. Mặc dù dưới
hình thức hư ảo và thần bí nhưng những quan niệm tôn giáo này, trong một
12
chừng mực nhất định, đã tạo cho con người lòng say mê và sự tin tưởng mãnh
liệt vào sức mạnh bản thân, kích thích thái độ tích cực của con người trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
Bước sang thời kỳ Phục hưng và Cận đại, sự phát triển nhảy vọt của sản
xuất và khoa học đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con người. Truyền thống
tôn vinh con người thời kỳ cổ đại được khôi phục và phát triển mạnh mẽ trong
mọi lĩnh vực. Thời kỳ này ở Italia đã dấy lên khẩu hiệu “con người hãy thờ
phụng chính bản thân mình, hãy chiêm ngưỡng cái đẹp của chính mình”. Hình
ảnh bức tượng “Người khổng lồ” của Mikenlan Giêlo mô tả con người tràn đầy
sức sống và hoài bão tự do đã trở thành biểu tượng của thời kỳ Phục hưng và
Cận đại. Ph. Ăngghen nhận xét: “Đó là một thời đại cần có những con người
khổng lồ và đã sinh ra những con người khổng lồ: khổng lồ về năng lực suy
nghĩ, về nhiệt tình và tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về học
thức sâu rộng” [29; 254]. Giờ đây mối quan hệ giữa con người và thế giới trở
thành trung tâm của các quan niệm triết học. Ph. Bêcơn đã coi nhiệm vụ của triết
học và khoa học là nền tảng lý luận cho con người trong công cuộc canh tân đất
nước nhằm xoá bỏ mọi bất công, xây dựng xã hội phồn vinh. Theo ông “mục
đích của xã hội chúng ta là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn
của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên trong
chừng mực con người có thể làm được” [dẫn theo 54; 265-266]. R. Đềcáctơ nêu
rõ nhiệm vụ của triết học là phải xây dựng một triết học thực tiễn nhằm giúp con
người trở thành những chủ nhân và chúa tể của giới tự nhiên.
Với tinh thần đề cao sức mạnh của con người và sự phát triển vượt bậc của
khoa học tự nhiên, châu Âu thời kỳ này đã đạt những tiến bộ khổng lồ trong
nhận thức và chinh phục tự nhiên. Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy lý và phương
pháp tư duy siêu hình giữ vị trí thống trị trong nhận thức khiến người ta rơi vào
13
xu hướng tuyệt đối hoá, chỉ thấy mối quan hệ một chiều trong việc chinh phục tự
nhiên của con người.
Triết học Cổ điển Đức tiếp tục khuynh hướng đề cao con người thời kỳ
Phục hưng - Cận đại và đã đạt được bước tiến mới song nó chứa đầy mâu thuẫn,
đặc biệt là trong quan niệm về bản chất con người. Cantơ đã phân chia con người
thuộc về hai thế giới, thế giới hiện tượng luận và thế giới vật tự nó (thế giới bản
chất của sự vật hiện tượng). Ở thế giới hiện tượng luận, con người nhận thức dựa
trên giác tính và con người hoàn toàn bất lực trước giới tự nhiên như là thế giới
vật tự nó. Giữa con người và vật tự nó có một hố sâu ngăn cách không thể vượt
qua. Mặt khác trong hoạt động thực tiễn, hoạt động đạo đức, con người lại thuộc
về thế giới vật tự nó và con người hoàn toàn có thể tự do trước các quy luật của
tự nhiên nếu con người nghe theo sự chỉ dẫn của "mệnh lệnh tuyệt đối". Trong
hai mặt hoạt động của con người, Cantơ đặt hoạt động thực tiễn cao hơn hoạt
động lý luận. Chỉ có trong hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội, con người mới
đạt tới tự do, mới phát triển toàn diện con người, mới thực hiện được "mục đích
tối cao" của tự nhiên : phát triển mọi tư chất của tự nhiên chứa đựng trong nhân
loại [dẫn theo 54; 408]. Cantơ đã phạm phải sai lầm khi chia cắt tuyệt đối hai thế
giới : thế giới hiện tượng luận và thế giới vật tự nó trong bản chất con người,
song ông đã chống lại phương pháp tư duy siêu hình thống trị trước đó và đặt
nền móng cho phương pháp tư duy biện chứng trong triết học cổ điển Đức. Sau
này Hêghen tiếp tục quan tâm tới mặt xã hội trong con người, ông khẳng định
con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, vì vậy mang bản chất
xã hội. Tư duy, ý thức con người chỉ có thể phát triển trong chừng mực con
người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả
của toàn bộ lịch sử do chính mình tạo ra. Ông đã nhìn toàn bộ mối quan hệ của
con người với tự nhiên trong tiến trình lịch sử nhân loại như một quá trình biện
14
chứng. Tuy nhiên cả Cantơ và Hêghen đều đề cao sức mạnh hoạt động trí tuệ
của chủ thể tới mức cực đoan. Họ thần thánh hoá con người tới mức coi con
người là chúa tể của giới tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt
động của con người.
Đối lập với quan điểm duy tâm trên, Phơbách cho rằng con người là sản
phẩm, là kết quả của sự phát triển của giới tự nhiên. Ông khẳng định sự thống
nhất hữu cơ giữa con người và giới tự nhiên. Phơbách đề cao con người cá thể
mà không thấy con người trong các mối quan hệ xã hội, trong quá trình sản xuất
vật chất, trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Theo Phơbách con người
chỉ là sản phẩm của tự nhiên một cách trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp.
Như vậy, theo quan điểm truyền thống phương Tây, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của con người được đề cao trong quan hệ với tự nhiên. Tinh thần
duy lý đề cao sức mạnh của khoa học, của trí tuệ con người đã thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đem lại những thành tựu vô cùng to
lớn trong việc chinh phụ tự nhiên, phát triển sản xuất. Nó đã góp phần làm nên
diện mạo của nền văn minh phương Tây với những giá trị lớn lao để lại cho loài
người. Tuy nhiên những hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường mà nền sản
xuất đã gây ra khiến người ta phải nhìn nhận lại những quan điểm chinh phục tự
nhiên truyền thống.
Năm 1897, trên 100 nhà khoa học và các quan chức cao cấp dự hội thảo
"dự báo tương lai châu Âu" đã lên án chủ nghĩa duy lý đề cao sức mạnh tuyệt đối
của khoa học, của trí tuệ con người. Sau chiến tranh thế giới thứ hai xuất hiện
những phong trào trở về với tự nhiên như là một phản ứng chống lại nền văn
minh. Phong trào xanh ra đời và nhanh chóng lan rộng trở thành những phong
trào rầm rộ. Theo A.Toffler, đó là phản ứng của bản năng sinh tồn chống lại
nguy cơ đe dọa địa cầu. Năm 1968, Câu lạc bộ Rôma ra đời tập hợp nhiều nhà
15
khoa học danh tiếng trên thế giới. Họ đưa ra công bố "giới hạn của sự tăng
trưởng" trong đó phân tích những tổn hại về môi trường do quá trình tăng trưởng
kinh tế gây lên và cảnh báo rằng, nếu nhân loại cứ phát triển như hiện nay thì sau
100 năm nữa sẽ tới một "giới hạn cuối cùng".
Sinh thái học phương Tây hiện đại ra đời vào những năm 60 của thế kỉ XX
do Lêopolt, một nhà khoa học Mỹ là người đặt nền móng. Có thể xem đây là một
nỗ lực về mặt lý luận nhằm xây dựng những quy tắc chuẩn mực hướng dẫn con
người trong việc thiết lập một tương giao mới với giới tự nhiên trong đó không
cho phép con người khai thác tự nhiên chỉ vì lợi ích của con người. Sinh thái học
hiện đại phê phán ba quan niệm truyền thống điển hình của phương Tây về mối
quan hệ của con người với tự nhiên. Thứ nhất, đó là chủ nghĩa nhân bản Hy - La
cổ dại coi con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, trung tâm của vũ trụ, có
quyền thống trị giới tự nhiên. Thứ hai, chủ nghĩa duy lý thế kỉ XVII - XVIII coi
con người là chủ nhân và chúa tể của giới tự nhiên. Thứ ba, quan điểm thiên
chúa giáo cho rằng chúa sáng tạo ra con người theo hình ảnh đồng dạng của
chúa, vì vậy cũng có quyền thống trị giới tự nhiên. Với những quan niệm truyền
thống này con người rơi vào chủ nghĩa duy nhân loại coi con người là sinh thể
trung tâm, thượng đẳng, đó là chủ nghĩa vị kỷ chủng loại và là nguyên nhân sâu
sa của vấn đề môi trường đang đè nặng lên nhân loại hôm nay.
Những nhà sinh thái học đều chủ trương xây dựng một quan hệ hài hòa
mới với môi trường, với tự nhiên trên một tiền đề căn bản là quyền tồn tại, quyền
sống của tự nhiên. Tuy nhiên cho đến nay đã hình thành ba khuynh hướng khác
nhau của sinh thái học. Khuynh hướng Duy Sinh Vật do nhà khoa học Taylor,
người Mỹ sáng lập ra. Taylor đưa ra những luận điểm có tính nguyên tắc làm cơ
sở cho học thuyết của mình mà ông gọi là quan điểm duy sinh vật :
16
1. Hệ môi sinh là một mạng lưới bao gồm những thành phần liên kết chặt chẽ
với nhau.
2. Mọi sinh vật, mọi cộng đồng đều có lợi ích riêng và phải được tôn trọng
như nhau.
3. Mỗi sinh vật là một trung tâm sống có mục đích riêng, có giá trị nội tại là
quyền sống, quyền tồn tại của chúng. Giá trị đó phải được xem là một ý niệm
triết lý - đạo đức thì con người mới thấy được bổn phận đối với thiên nhiên.
4. Loài người là một thành viên bình đẳng của cộng đồng sinh vật. Cần phải
phủ nhận ưu thế tuyệt đối của loài người theo quan điểm truyền thống để tạo nên
một quan điểm mới về bình đẳng loài và bổn phận tôn trọng các loài của con
người.
Quan điểm của phái duy sinh vật có những mặt tích cực nhất định, nó
được rất nhiều người ủng hộ nhưng cũng bị phê phán mạnh mẽ. Những người
phê phán cho rằng quan điểm này đã đưa phạm trù đạo đức, phạm trù của xã hội
loài người vào thế giới sinh vật là không thể thực hiện được. Hơn nữa quy luật
đấu tranh sinh tồn của tự nhiên làm cho quan điểm này khó đứng vững.
Khuynh hướng Duy Môi Sinh đòi hỏi con người không chỉ tôn trọng các
sinh vật mà còn phải tôn trọng cộng đồng sinh vật và cả những điều kiện tồn tại
của chúng như đất, nước,không khí Theo Lêopol, một hành động được coi là
đúng (thiện) khi nó nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, sự ổn định và vẻ đẹp của cộng
đồng sinh vật cũng như môi trường bao quanh, hành động ngược lại sẽ là sai
(ác). Ông cũng nói tới quyền sống, quyền tồn tại của sinh vật và cả những vật thể
vô cơ. Bản thân khuynh hướng này đặt ra mục tiêu tích cực song nó lại dễ bị lạm
dụng, người ta có thể nhân danh cộng đồng tiêu diệt cá thể và dẫn tới chủ nghĩa
phát xít môi sinh vì mục tiêu chính trị.
17
Sinh Thái Học Bề Sâu do Naess sáng lập với ý đồ đề xuất một khuynh
hướng mới khắc phục những khiếm khuyết của hai khuynh hướng trên. Naess
cho rằng để xác định vị trí của con người trong tự nhiên không thể dùng suy luận
lôgíc mà phải bằng trực giác. Trực giác cho phép người ta nhận biết bản thể của
các sinh vật trong vũ trụ. Về thực chất không có chủ thể, không có khách thể tồn
tại độc lập, không có sự tách biệt giữa người và vật mà mọi thực thể đều được
cấu tạo bằng quan hệ với nhau. Con người chỉ là một hữu thể mà bản chất được
xác định qua quan hệ với các hữu thể khác, là một mắt lưới trong mạng lưới các
hữu thể rộng lớn. Thế giới quan cũ đã sai lầm khi gán cho con người một ưu thế
tuyệt đối. Sinh thái học bề sâu chủ trương một chủ nghĩa bình đẳng môi sinh và
cho rằng nếu con người không biết đến sự tùy thuộc lẫn nhau giữa vạn vật mà cố
xác lập một quan hệ chủ tớ với thiên nhiên thì sẽ tự tách biệt đối với chính mình.
Theo Naess, sinh thái học bề sâu gặp gỡ tư tưởng truyền thống phương Đông cổ
đại ở chỗ : sự tự thực hiện bản ngã hay là thanh hóa bản ngã, đó là sự đồng hóa
của tiểu ngã với đại ngã, giữa cá thể với vũ trụ làm cho bản ngã của mình lan
rộng, hòa nhập với đại ngã của toàn vũ trụ. Trong quá trình thanh hóa bản ngã
con người sẽ hòa nhập với môi trường, sẽ trở nên yêu mến, tôn trọng thiên nhiên
như chính mình, đó là nghệ thuật sống của nhà hiền triết.
Nhìn chung những nhà sinh thái học đều phê phán chủ nghĩa duy lý truyền
thống phát triển phình to về mặt trí tuệ, khoa học, kĩ thuật dẫn tới sự thiếu hụt
đời sống tâm hồn, tình cảm, đạo đức. Theo họ điều này cần phải được bù đắp và
có thể tìm thấy sự quân bình trong một số học thuyết phương Đông cổ đại. Có
thể thấy sinh thái học hiện đại là một tiếng nói cảnh tỉnh loài người trước nguy
cơ có thật về sự khủng hoảng môi trường. Họ có những luận điểm hợp lý (như
luận điểm về sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần trong hệ môi sinh ) phù
hợp với quan điểm mác xít cũng như quan điểm truyền thống phương Đông. Tuy
18
nhiên đây là một khuynh hướng cực đoan phủ nhận hoàn toàn vai trò của trí tuệ,
của sự sáng tạo con người trong quan hệ với tự nhiên, nó có nguy cơ dẫn đến
thái độ phi nhân bản không cần thiết.
Tóm lại, trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã hình thành hai hệ thống quan
điểm lớn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tuy nhiên chúng ta cần có
cách tiếp cận hai hệ thống quan điểm đó theo tinh thần biện chứng. Quan điểm
chủ đạo trong truyền thống phương Tây là chinh phục tự nhiên. Ngược lại, quan
điểm chủ đạo trong truyền thống phương Đông là hoà hợp với tự nhiên, nhưng
không phải ở phương Đông con người luôn sống hoà hợp với tự nhiên. Hơn nữa
không nên cho rằng mọi triết lý chinh phục tự nhiên là sai lầm, hoặc trong một
hệ thống quan điểm có tính chất cực đoan lại không có một giá trị nào hết. Xu
hướng kết hợp quan niệm truyền thống phương Đông và phương Tây ở dạng
hiện đại có sự hợp lý của nó. Quan niệm phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất
hài hòa giữa con người với vũ trụ, với tự nhiên, điều đó nằm trong tính tự nhiên
vốn có của bản chất con người, vì con người được sinh ra từ những yếu tố của tự
nhiên, con người là sản phẩm sự phát triển của giới tự nhiên. Song người phương
Đông không thấy được rằng con người một mặt là bộ phận của tự nhiên, mặt
khác lại là bộ phận tách ra như một mặt đối lập của tự nhiên, nhờ đó họ có thể
tác động lại cải tạo tự nhiên để hoàn thiện bản thân mình cũng như hoàn thiện
chính bản thân tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên là thống nhất nhưng không
đồng nhất tuyệt đối mà là sự thống nhất của hai mặt đối lập, sự thống nhất của
một mâu thuẫn biện chứng. Quan niệm truyền thống phương Tây đã dường như
đối lập với phương Đông khi họ chủ yếu xem xét con người với tư cách là một
bộ phận phát triển cao nhất của giới tự nhiên, là bộ phận tách ra như một mặt đối
lập của tự nhiên. Thực chất hai hệ thống quan niệm này không loại trừ nhau mà
chúng phản ánh hai mặt của cùng một bản chất trong mối quan hệ của con người
19
với tự nhiên, hai mặt của cùng một bản chất quy định lên bản chất con người. Sự
kết hợp những yếu tố hợp lý của hai hệ thống quan niệm này cho phép bổ sung
những thiếu sót căn bản của chúng, trên cơ sở đó phát triển một hệ thống quan
điểm toàn diện và khoa học hơn. Triết học Mác ra đời không nằm ngoài hệ thống
thế giới quan phương Tây, không nằm ngoài truyền thống chinh phục tự nhiên
của phương Tây, nó đã vượt bỏ những quan niệm truyền thống để mang trong
mình tinh hoa của tư tưởng nhân loại. Triết học Mác không trực tiếp kế thừa giá
trị quan phương Đông, song giữa hai hệ thống tư tưởng lớn này lại có sự gặp gỡ
giao thoa khi triết học Mác xem xét toàn diện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trên cả hai mặt thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng. Trên cơ sở kế thừa
những hạt nhân hợp lý trong quan niệm truyền thống phù hợp với sự phân tích
thực tiễn phát triển của đời sống, của nền sản xuất xã hội trong lịch sử loài
người, triết học Mác đã xây dựng một cơ sở lý luận khoa học về mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên.
Triết học Mác đưa con người trở về thống nhất hài hòa với tự nhiên,
nhưng không phải trở về với tự nhiên "mông muội tối tăm" nguyên thủy như Lão
Tử hay một số xu hướng tư tưởng phương Tây hiện đại muốn làm. Triết học
Mác đưa con người trở về với thiên nhiên trên một trình độ mới, đó là một thiên
nhiên đã được cải tạo, đã được làm giàu, một thiên nhiên mang tính người. Thiên
nhiên thứ hai đó đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của con người và không
đối lập với thiên nhiên hoang dã, nó chỉ có thể có được bằng sự tác động và cải
tạo hợp quy luật của con người. Triết học Mác không những không phủ nhận vai
trò chinh phục, cải tạo tự nhiên của con người mà còn chỉ ra một con đường
thích hợp để chinh phục, cải tạo tự nhiên mà luận văn sẽ đề cập ở phần sau.
Ngày nay chúng ta tiếp thu những tinh hoa tư tưởng truyền thống phương
Đông và phương Tây trên cơ sở lý luận biện chứng mácxít không phải là phục
20
cổ, không phải là đưa con người trở về quá khứ. Phải nâng giá trị quan truyền
thống lên bình diện hiện đại, tạo cho giá trị quan đó tính chất hiện đại. Mọi sự kế
thừa, phát triển đều phải trên cơ sở thực tiễn và thực tiễn là câu trả lời đúng đắn
nhất. Bài học ở Singapore cho thấy nhờ kết hợp các giá trị tư tưởng truyền thống
với nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại, đất nước này đã giải quyết thành công
những vấn đề khó khăn mà nhiều nước khác đang mắc phải như vấn đề môi
trường, đạo đức, lối sống, gia đình để xây dựng một nền kinh tế "cất cánh" và
một môi trường sống trong lành, văn minh hiện đại.
Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu quan điểm mácxít như là cơ sở lý luận,
phương pháp luận cho việc xem xét mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ở
nước ta hiện nay.
1.2 Quan niệm mácxít về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
1.2.1 Con người là một bộ phận không thể tách rời mà giới tự nhiên đã
sản sinh ra.
Các sự vật, hiện tượng đa dạng, phong phú, vô cùng vô tận, song chúng
không phải là những mảnh tách rời, biệt lập, không phải là những bản chất đối
lập nhau, chúng chỉ là những biểu hiện khác nhau của vật chất đang vận động.
Từ những vật hết sức nhỏ bé đến các hành tinh khổng lồ, từ giới vô sinh đến giới
hữu sinh, từ động vật cho đến con người, tất cả đều chỉ là những dạng khác nhau
của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Các bộ phận khác nhau của thế giới vật chất không tĩnh tại, không cô lập,
chúng luôn tác động qua lại, vận động, chuyển hoá lẫn nhau theo nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến. Con người là một bộ phận phát triển cao của thế giới vật
chất, nhưng dù có phát triển cao như thế nào chăng nữa thì cũng chỉ là một bộ
phận trong hệ thống bao trùm Tự nhiên - Con người -Xã hội, nó không tách rời
khỏi mạng lưới các liên hệ. Mỗi liên hệ trong hệ thống là một mâu thuẫn biện
21
chứng trong đó con người và tự nhiên vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, chúng
luôn tác động qua lại nhau để cùng vận động, phát triển. Hệ thống Tự nhiên -
Con người - Xã hội có cấu trúc liên hoàn, chặt chẽ, một hệ thống cân bằng động
trong đó những cân bằng liên tục bị phá vỡ và cân bằng mới được thiết lập nhờ
khả năng tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự phục hồi của nó. Song khả năng này có
những giới hạn nhất định và có thể mất đi nếu con người tác động tùy tiện trái
với quy luật của tự nhiên, vượt quá giới hạn tự phục hồi của giới tự nhiên. Quan
hệ biện chứng giữa con người và giới tự nhiên không phải do một lực lượng tinh
thần siêu nhiên quy định, nó dựa trên tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo
Ph. Ăngghen: “Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và
tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài lời lẽ khéo léo của kẻ
làm trò ảo thuật mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và
khoa học tự nhiên” [29; 67]. Lịch sử phát triển lâu dài và khó khăn của khoa học
tự nhiên đã cho ra đời những phát minh vĩ đại vào thế kỷ XIX (định luật bảo toàn
và chuyển hoá năng lượng; học thuyết tế bào; thuyết tiến hoá ) chứng minh cho
tính thống nhất vật chất của thế giới. Ngày nay, các khoa học hiện đại về vũ trụ
đã chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới ở bề rộng, ở tầm vĩ mô của
nó. Bên cạnh đó, các thành tựu của vật lý học, hóa học… lại chứng minh tính
thống nhất của thế giới ở bề sâu, ở mức độ vi mô. Đặc biệt đóng góp của các
ngành sinh học phân tử, di truyền học đã cho thấy sự thống nhất về thành phần
cấu trúc, tổ chức của các cơ thể sống và các trình độ phát triển khác nhau của
chúng. Không còn nghi ngờ gì, chính sự phát triển của khoa học tự nhiên đã
khám phá ra bản chất của sự sống và sự thống nhất vật chất của nó với giới tự
nhiên. Giờ đây, để xem xét thế giới “hệt như nó tồn tại” thì phải loại trừ sự đối
lập một cách tuyệt đối giữa con người và giới tự nhiên, phải thấy rằng “con
người với tự nhiên là một”. Nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế giới phải
22
là nền tảng trong việc xem xét mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó bác
bỏ hoàn toàn những quan điểm phi lý và trái tự nhiên của đạo Thiên chúa về bản
chất thần thánh của con người, về sự đối lập giữa con người và giới tự nhiên
[xem 29; 655].
Sự xuất hiện con người là kết quả sự tiến hoá của giới tự nhiên trong nhiều
triệu năm. Con người là “một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên đã sản sinh
ra được” [29; 475]. Từ sự hình thành vũ trụ, các hành tinh, những thể An-bu-min
đến chất nguyên sinh sống. Từ những cỏ cây, động vật đầu tiên đến những loài
động vật có xương sống và đến con người. Đó là quá trình phát triển mang tính
khách quan và tất yếu. Một quá trình khách quan được Ph. Ăngghen phân tích rất
sâu sắc trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, nó cho chúng ta thấy con người
là tiếp nối của tự nhiên. Tuy rằng con người ngày nay đã bỏ xa giới động vật
trong quá trình tiến hoá, nhưng như thế không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất
cả những cái tự nhiên, cái sinh học để không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên
của mình. Ngược lại, yếu tố tự nhiên, yếu tố sinh học luôn luôn là một mặt trong
bản chất con người, nó làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá
thể phải phục tùng các quy luật tự nhiên, gắn bó hữu cơ như một bộ phận của tự
nhiên.
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế triết học 1844, C. Mác viết : “Giới tự
nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân không phải là thân
thể của con người – là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới
tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà
với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói
rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói
như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự
nhiên vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”[32; 135]. Trong những tác