Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây đang tập trung đổi mới, hướng
tới một nền giáo dục tiến bộ, hiện đại, bắt kịp xu hướng của các nước trong khu vực
và trên thế giới. Một trong những định hướng lớn hiện nay của giáo dục nước ta đó
là chuyển trọng tâm từ truyền thụ nội dung sang phát triển năng lực người học.
Trong đó, việc phát triển năng lực khoa học cho học sinh thông qua các môn khoa
học ứng dụng như Hoá học là vô cùng cần thiết. Đặc biệt là bài tập Hoá học có nội
dung thực tiễn, bài tập có nội dung tích hợp kiến thức liên môn, … nhằm làm cho
việc dạy học hóa học gắn với thực tiễn cuộc sống hơn, học sinh có hứng thú, say mê
học tập hơn. Luật giáo dục nước ta (năm 2005) tại Chương 1, Điều 3, Khoản 2,
cũng đã nhấn mạnh: “Hoạt động giáo dục phải thực hiện theo nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn …”
[21]. Như vậy, các kiến thức hoá học không chỉ cung cấp những tri thức hóa học
phổ thông, cơ bản mà còn cho người học thấy được mối liên hệ qua lại giữa công
nghệ hoá học, môi trường và con người … Tuy nhiên, các bài tập Hóa học đã và
đang sử dụng hiện nay phần nào còn mang tính hàn lâm, nghèo nàn về nội dung hóa
học, chưa thực sự đáp ứng được nhiệm vụ, sứ mệnh to lớn của môn Hoá học trong
nhà trường. Hầu hết học sinh chưa thực sự biết vận dụng kiến thức hóa học vào thực
tế, chưa thấy được vai trò của hóa học trong đời sống. Một phần vì đó, các em chưa
có nhiều niềm đam mê, say sưa trong học tập, đặc biệt là với môn Hóa học. Vì vậy,
để tạo dựng niềm đam mê học tập, giúp Hóa học gần hơn với thực tiễn thì việc sử
dụng bài tập hóa học trong dạy học có vai trò rất quan trọng.
Tháng 4 - 2012, Giáo dục Việt Nam diễn ra một sự kiện quan trọng, lần đầu
tiên nước ta có khoảng 5.100 học sinh ở độ tuổi 15 của 162 trường thuộc 59 tỉnh,
thành phố, cùng với hơn 70 quốc gia khác trên thế giới tham gia vào cuộc khảo sát
chính thức của PISA 2012. PISA - viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Programme for
International Student Assessment”, được dịch là “Chương trình đánh giá HS quốc
tế” do tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (thường được viết tắt là OECD) khởi
xướng và triển khai. Cho tới nay, PISA là cuộc khảo sát giáo dục duy nhất trên thế
1
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
giới có tính chu kì (3 năm 1 lần) để đánh giá kiến thức và kỹ năng của HS ở độ tuổi
15 - độ tuổi kết thúc giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. PISA nổi bật nhờ
quy mô toàn cầu và tính chu kỳ. Mục tiêu của chương trình PISA nhằm kiểm tra
xem, khi đến độ tuổi kết thúc phần giáo dục bắt buộc, HS đã được chuẩn bị để đáp
ứng các thách thức của cuộc sống sau này ở mức độ nào. Nội dung đánh giá của
PISA hoàn toàn được xác định dựa trên các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc
sống tương lai, không dựa vào nội dung các chương trình giáo dục quốc gia. Thay
vì kiểm tra sự thuộc bài theo các chương trình giáo dục cụ thể, PISA xem xét khả
năng của HS ứng dụng các kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực chuyên môn cơ bản,
khả năng phân tích, lý giải và truyền đạt một cách có hiệu quả khi họ xem xét, diễn
giải và giải quyết các vấn đề [2]. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, PISA được
đánh giá là cuộc khảo sát tin cậy về năng lực của HS.
Theo mẫu khảo sát chính thức mà OECD lựa chọn, HS tham gia PISA ở Việt
Nam chủ yếu rơi vào lớp 10 THPT chính quy; ngoài ra, còn có một số HS trường
nghề, trường THCS, trung tâm giáo dục thường xuyên rơi vào mẫu khảo sát. Trước
thềm sự kiện quan trọng này, Báo Giáo dục và Thời đại đã có cuộc trò chuyện với
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển xung quanh một số vấn đề liên quan đến
kỳ thi PISA. Theo Thứ trưởng: "Tham gia PISA là một bước tiến tích cực trong việc
hội nhập quốc tế về giáo dục của Việt Nam. Những dữ liệu thu thập được (ở quy mô
lớn, độ tin cậy cao) từ PISA sẽ giúp Việt Nam có cơ sở để so sánh mặt bằng giáo dục
quốc gia với quốc tế nhằm biết được những điểm mạnh, điểm yếu của nền giáo dục
nước nhà" [27]. Dựa trên kết quả PISA, OECD đưa ra kết quả phân tích và đánh giá
về chính sách giáo dục quốc gia và đề xuất những thay đổi về chính sách giáo dục
cho các quốc gia. Những kết quả, đề xuất này sẽ góp phần chuẩn bị tích cực cho lộ
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI [26].
Mặt khác, kết quả PISA sẽ gợi ý cho chúng ta đổi mới phương pháp dạy học,
đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá, đưa ra cách tiếp cận mới về dạy - học. Đối
với mỗi HS, tham gia làm các bài thi của PISA, các em sẽ được mở rộng hiểu biết về
thế giới, cọ xát với những tình huống thực tiễn mà HS các nước phát triển đang gặp
và giải quyết. Cùng với đó, các em sẽ học được cách tư duy qua các trả lời câu hỏi
2
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
của PISA, vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Từ đó
góp phần giúp các em điều chỉnh cách học tập, nghiên cứu của mình.
Là người trực tiếp giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường THPT, tôi nhận thấy,
việc sử dụng hệ thống bài tập theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học Hóa học ở
trường THPT là rất quan trọng, mang tính thiết thực cao. Tuy nhiên, do hạn chế về
khuôn khổ luận văn cũng như thời gian nghiên cứu nên trong đề tài này chúng tôi
chỉ nghiên cứu một mảng kiến thức của Hóa học: “Thiết kế và sử dụng hệ thống
bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA theo định hướng phát triển năng
lực cho học sinh”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, sách, giáo trình, tài liệu, bài
viết … liên quan đến việc việc sử dụng bài tập trong dạy học nói chung và môn Hóa
học nói riêng và các tài liệu nghiên cứu liên quan đến PISA như:
- TS. Cao Cự Giác: Đưa ra cách thiết kế và sử dụng bài tập thực nghiệm trong
dạy học Hóa học [9].
- Luận văn thạc sĩ: “Tiếp cận đánh giá PISA bằng phương pháp giải quyết vấn đề
qua dạy học các bài toán thực tiễn phần khối đa diện và khối tròn xoay (hình học không
gian lớp 12 - Ban cơ bản” của Tăng Hồng Dương - lớp Cao học lý luận và phương pháp
dạy học môn Toán K5 - Trường đại học Giáo dục, đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ: “Dạy học phát triển năng lực cho học sinh trung học phổ
thông với các bài toán tiếp cận chương trình học sinh quốc tế (PISA)” của Nguyễn
Quốc Trịnh - lớp Cao học lý luận và phương pháp dạy học môn Toán K5 - Trường
đại học Giáo dục, đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Nguyệt Minh và Hoàng Thị Phương: Thiết kế và
sử dụng bài tập hóa học tiếp cận PISA [14] [16].
- “PISA và các dạng câu hỏi” - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
- “Chương trình đánh giá HS quốc tế (PISA)” của Nguyễn Thị Phương Hoa
trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội số 25/2000 [13].
- “Góp phần tìm hiểu về chương trình đánh giá HS quốc tế (PISA)” của
Nguyễn Ngọc Sơn trên Tập san Giáo dục - Đào tạo số 3/2010 [18].
3
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
- “Chương trình đánh giá HS quốc tế PISA” của Đỗ Tiến Đạt trên Kỷ yếu Hội
thảo Quốc gia về giáo dục Toán học phổ thông năm 2011 [7].
Tuy nhiên, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng các bài
tập Hóa học theo cách tiếp cận của PISA.
4
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học
phần phi kim Hóa học lớp 11 nhằm làm cho việc dạy học hóa học gắn với thực tiễn
cuộc sống hơn, học sinh có hứng thú, say mê học tập hơn, từ đó nâng cao hiệu quả
dạy học Hóa học ở trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
* Nghiên cứu các vấn đề lý luận của đề tài:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu lý luận về bài tập hóa học trong dạy học hóa học.
* Tìm hiểu về chương trình đánh giá HS Quốc tế (PISA)
* Tiến hành điều tra - quan sát, khảo sát, lấy ý kiến … của GV, HS về hệ thống các
bài tập hóa học theo tiếp cận PISA đã và đang sử dụng tại trường:
THPT Hàn Thuyên, Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh
THPT Yên Phong số 1, Tỉnh Bắc Ninh
Và một số trường THPT khác.
* Thiết kế hệ thống bài tập hóa học phần phi kim lớp 11 theo hướng tiếp cận PISA
* Tiến hành thực nghiệm sư phạm:
- Nghiên cứu và đánh giá việc sử dụng hệ thống bài tập hóa học phần phi
kim lớp 11 theo hướng tiếp cận PISA trong dạy học hóa học ở trường THPT.
- Hoàn thiện hệ thống bài tập hóa học phần phi kim lớp 11 theo hướng tiếp
cận PISA trong dạy học hóa học ở trường THPT.
* Đề xuất một số hướng sử dụng hệ thống bài tập tiếp cận PISA trong dạy học hóa
học phần phi kim lớp 11 nhằm làm cho việc dạy học hóa học gắn với thực tiễn cuộc
sống hơn, HS có hứng thú, say mê học tập hóa học …, từ đó nâng cao hiệu quả dạy
học hóa học ở trường THPT.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Nội dung
Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập hóa học phần phi kim lớp 11 theo
5
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
hướng tiếp cận PISA.
4.2. Thời gian
Từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 5 năm 2014.
5. Mẫu khảo sát
Trường THPT Hàn Thuyên, Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh.
Trường THPT Yên Phong số 1, Tỉnh Bắc Ninh.
6. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
6.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học hóa học ở trường phổ thông Việt Nam.
6.2. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình sử dụng câu hỏi và bài tập tiếp cận PISA trong dạy và học môn
Hóa học phần phi kim lớp 11 đã và đang tiến hành ở trường THPT.
- Thiết kế, đề xuất cách sử dụng hệ thống bài tập theo hướng tiếp cận PISA
trong dạy học hóa học phần phi kim lớp 11.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế và sử dụng một hệ thống bài tập theo hướng tiếp cận PISA trong
dạy học Hóa học phần phi kim lớp 11 thì sẽ làm cho việc dạy học hóa học gắn với
thực tiễn cuộc sống hơn, HS có hứng thú, say mê học tập môn hóa học, từ đó nâng
cao hiệu quả dạy học môn hóa học ở trường THPT.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu tài liệu lý luận dạy học có liên quan đến việc sử dụng bài tập
trong dạy học Hóa học ở trường THPT.
- Nghiên cứu tài liệu lý luận dạy học có liên quan đến việc thiết kế bài tập
mới trong dạy học Hóa học ở trường THPT.
- Nghiên cứu nội dung, cấu trúc, chương trình Hóa học phần phi kim lớp 11.
- Nghiên cứu các tài liệu về chương trình đánh giá HS quốc tế PISA.
6
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các hoạt động dạy và học có sử dụng
bài tập hóa học tiếp cận PISA tại trường THPT nhằm phát hiện vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với GV và HS để tìm hiểu ý kiến, quan
niệm, thái độ ... của họ về việc sử dụng câu hỏi và bài tập hóa học tiếp cận PISA
trong dạy và học ở trường THPT, cũng như những thuận lợi và khó khăn mà GV và
HS đã gặp phải.
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng việc sử dụng câu hỏi và bài tập
tiếp cận PISA của GV và HS trong quá trình dạy và học môn Hoá học lớp 11.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia,
các giảng viên và GV có nhiều kinh nghiệm về việc sử dụng câu hỏi và bài tập tiếp
cận PISA trong giảng dạy hóa học hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm: Dựa vào giả thuyết khoa học đã đặt ra, tiến
hành thực nghiệm ở một số trường THPT để xem xét hiệu quả và tính khả thi của hệ
thống câu hỏi và bài tập tiếp cận PISA trong dạy học hóa học lớp 11 phần phi kim
đã được xây dựng.
8.3. Phương pháp xử lý thống kê toán học
Phương pháp này được dùng để phân tích và xử lí các số liệu thu được qua
điều tra và thực nghiệm, từ đó rút ra những kết luận của đề tài.
9. Đóng góp mới của đề tài
9.1. Thiết kế hệ thống câu hỏi và bài tập theo cách tiếp cận của PISA trong
dạy học hóa học lớp 11 phần phi kim.
9.2. Đề xuất cách sử dụng hệ thống bài tập theo cách tiếp cận của PISA trong
dạy học hóa học lớp 11 phần phi kim góp phần đáp ứng yêu cầu đào tạo tiếp cận
năng lực cần thiết của người lao động trong thời đại mới.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc thiết kế và sử dụng hệ
thống bài tập tiếp cận PISA trong dạy học phần phi kim hoá học lớp 11.
7
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
Chƣơng 2: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập phần phi kim hóa học
lớp 11 theo hƣớng tiếp cận PISA.
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THIẾT KẾ VÀ
SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾP CẬN PISA TRONG
DẠY HỌC PHẦN PHI KIM HÓA HỌC LỚP 11
1.1. Đổi mới phƣơng pháp dạy học
1.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học trên thế giới
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Trước sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế, khoa học và công nghệ đã tạo nên những thay đổi sâu sắc
trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học
đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục. Các Quốc gia, từ những nước đang
phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu
của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn,
hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước. Giáo dục
được xem là chiếc đòn bẩy, là “công cụ chủ yếu tạo ra sự phát triển”. “Giáo dục
chính là chiếc chìa khóa mở vào cánh cửa tương lai”, một xã hội được xây dựng
trên nền tảng tri thức. Khẩu hiệu “hãy cứu lấy nền kinh tế bằng giáo dục” đã được
nhiều Quốc gia nêu cao [27].
Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm
các yếu tố: Mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học,
phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương
pháp dạy học có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù
8
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
hợp thì mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Bởi vậy,
việc đổi mới giáo dục trước hết là việc đổi mới phương pháp dạy học.
Vấn đề PPDH và đổi mới PPDH được các nhà giáo dục trên thế giới quan tâm
và đề cập rất nhiều trong các bài báo, hội thảo khoa học … Đáng chú ý nhất là khuyến
nghị của UNESCO về phát triển giáo dục vào các năm 1971; 1980; 1990 đều nhất trí
rằng phải thường xuyên “phát triển các phương pháp giáo dục mới, thích hợp hơn có
thể đánh giá đúng mức khả năng học tập tích cực của HS và cũng để thay thế các hệ
thống đánh giá cũ, đặt căn bản trên trí nhớ về các kiến thức, kỹ năng … ” [27]. Từ đó
cho thấy, đổi mới PPDH là một nhu cầu cấp bách của thời đại ngày nay. Cùng với sự
phát triển của Khoa học - Công nghệ, nhân loại đang bước vào thế kỷ của văn minh tri
thức với những thành tựu rực rỡ của khoa học kĩ thuật trong đó có khoa học Hóa học.
Trên thế giới hiện nay, việc đổi mới PPDH đang được tiến hành theo một số
phương hướng như tích cực hoá quá trình dạy học, cá thể hoá việc dạy học, dạy học
lấy HS làm trung tâm, dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học …
Tại nhiều nước phát triển, PPDH là nêu vấn đề để đem ra nghiên cứu, thảo luận.
Cách dạy này đưa đến phương pháp học tập là buộc người học phải tự đi sưu tầm tài
liệu trong các thư viện, trong các trung tâm thông tin, qua mạng, tự thực hành trong
các xưởng trường, tự mày mò thí nghiệm … Và để thảo luận, báo cáo được các điều
đã tìm thấy về phương diện tâm lí, người học phải vận dụng được óc phân tích, so
sánh, phê bình, đánh giá các thông tin để đi đến tổng hợp cho mình một nhận định.
Việc tích hợp kiến thức chuyên ngành vào phương pháp tư duy có thể được
thấy rõ trong năm mục tiêu học tập then chốt được nêu ra bởi UNESCO, giúp làm rõ
các mục tiêu dạy học của phát triển bền vững (ESD). Năm mục tiêu đó là: (1) Học để
biết, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của những kiến thức hàm chứa nội dung ý
nghĩa và chính xác; (2) Học để làm, tập trung vào tầm quan trọng của việc ứng dụng,
sự xác đáng, và những kỹ năng; (3) Học để sống cùng nhau, trong đó thừa nhận tầm
quan trọng của động lực xã hội tích cực; (4) Học cách tồn tại, tập trung vào tầm quan
trọng của trách nhiệm, phát triển cá nhân, siêu nhận thức; (5) Học cách thay đổi bản
thân và xã hội, tập trung vào sự thay đổi nhận thức như là phương tiện cam kết quan
trọng. Học không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia hay một trường học nào [5].
1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam
9
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
Trước đòi hỏi thực tiễn của Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển
thì đổi mới PPDH trong đó có dạy học phổ thông là hết sức cần thiết. Luật giáo dục
2005, Điều 28.2 có ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [17].
Xác định tầm quan trọng của phương pháp dạy học đối với việc nâng cao
chất lượng giáo dục, rất nhiều dự án giáo dục đã coi việc đầu tư cho bồi dưỡng tập
huấn ĐMPPDH, đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại là một thành phần hoạt động
ưu tiên. Tập trung nhất là trong khoảng 5 năm trở lại đây. Các Dự án như Phát triển
giáo dục trung học, Phát triển giáo viên THPT và TCCN, Việt - Bỉ, Oxfam … đều
có những hoạt động phục vụ cho ĐMPPDH của GV. Nhiều hội thảo, đợt bồi dưỡng,
tập huấn đã được tổ chức, rút ra nhiều kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn cho
vấn đề này. Đặc biệt, dự án Việt - Bỉ có phạm vi hoạt động là 15 tỉnh miền núi phía
Bắc nhưng sản phẩm về ĐMPPDH do dự án xây dựng đã được phổ biến toàn quốc
trước khi Dự án kết thúc vào năm 2010; ĐMPPDH đã được đưa lên tầm chỉ đạo,
quản lý, cho thấy tầm quan trọng, cấp bách của việc ĐMPPDH. Việc ĐMPPDH
không chỉ còn là việc của riêng giáo viên, mà phải trở thành nhiệm vụ trọng tâm của
tất cả các cấp quản lý từ Trung ương tới địa phương.
Nền giáo dục mới đòi hỏi không chỉ trang bị cho HS kiến thức mà nhân loại đã
tìm ra mà còn phải bồi dưỡng cho HS tính năng động, óc tư duy sáng tạo và thực
hành các yêu cầu đó. Đề án đổi mới căn bản và toàn diện GD - ĐT Việt Nam đã và
đang được bổ sung, hoàn thiện và từng bước được triển khai thực hiện theo đúng tinh
thần của Đại hội Đảng lần thứ 11 và kết luận của Hội nghị TW 8 [26].
Theo TS. Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên TW Đảng, Phó trưởng Ban thường trực Ban
Tuyên giáo TW: Các quan điểm chỉ đạo đổi mới tập trung vào các nội dung trọng
điểm như: “Tiếp tục thực hiện tốt các quan điểm phát triển giáo dục đã được đề ra
trong các Nghị quyết của Đảng; Chuyển từ một nền giáo dục chủ yếu là truyền thụ
kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học …” [8].
Theo TS. Hoàng Thị Tuyết, giảng viên Khoa Giáo dục tiểu học (ĐHSP TP
10
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
HCM): “Bộ GD&ĐT xác định tiếp cận theo hướng năng lực làm sao phát triển cho
học sinh có được những năng lực cơ bản, những năng lực chuyên biệt để có thể vào
đời, đây là hướng quốc tế đang theo xây dựng chuẩn. Chúng tôi sẽ xác lập những loại
năng lực mà các HS xuyên qua các lớp đều đạt, các lớp khác nhau, các cấp học khác
nhau để khi các em ra trường rồi các em vẫn sử dụng năng lực áp dụng việc học vào
cuộc sống của mình và vào các công việc chuyên môn của mình” [8].
Có thể nói, cốt lõi của đổi mới PPDH ở trường THPT là hướng tới giúp học sinh
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, từ bỏ thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc.
1.2. Bài tập hóa học
1.2.1. Xu hướng xây dựng bài tập hiện nay
Nhiều năm qua, việc xây dựng nội dung sách giáo khoa cũng như các loại
sách bài tập tham khảo của giáo dục nước ta nhìn chung còn mang tính hàn lâm,
kinh viện nặng về thi cử; chưa chú trọng nhiều đến tính sáng tạo, năng lực thực
hành và hướng nghiệp cho học sinh; chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của thực tiễn
phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu của người học. Giáo dục trí dục chưa
kết hợp hữu cơ với giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức tự tôn dân tộc ... Do đó, chất
lượng giáo dục còn thấp, một mặt chưa tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực
và trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng được các ngành nghề trong xã hội. Học sinh
còn hạn chế về năng lực tư duy, sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng
với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa
cao; khả năng tự lập nghiệp còn hạn chế.
Trong những năm gần đây Bộ GD&ĐT đã có những cải cách lớn trong toàn
ngành giáo dục nói chung và đặc biệt là trong việc dạy và học ở trường phổ thông
nói riêng; nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. Nội
dung giáo dục, đặc biệt là nội dung, cơ cấu sách giáo khoa được thay đổi một cách
hợp lý vừa đảm bảo được chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, có hệ thống vừa tạo
điều kiện để phát triển năng lực của mỗi học sinh, nâng cao năng lực tư duy, kỹ
năng thực hành, tăng tính thực tiễn. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương
pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự
học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống [15].
Chính vì vậy, việc xây dựng nên những BTHH mới phù hợp với định hướng
11
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
đổi mới của môn Hóa học nói riêng và định hướng đổi mới giáo dục nói chung là rất
quan trọng và có ý nghĩa thiết thực.
1.2.2. Một số định hướng trong việc xây dựng bài tập Hóa học mới [14] [16]
- BTHH phải đa dạng, phải có nội dung hóa học thiết thực trên cơ sở của định
hướng xây dựng chương trình Hóa học phổ thông.
- Nội dung bài tập phải ngắn gọn, súc tích, không quá nặng về tính toán mà
cần chú ý tập trung vào rèn luyện và phát triển các năng lực nhận thức, tư duy hóa
học và hành động cho học sinh.
- BTHH cần chú ý đến việc mở rộng kiến thức hóa học và các ứng dụng của hóa
học trong thực tiễn. Thông qua các dạng bài tập này làm cho học sinh thấy được việc
học hóa học thực sự có ý nghĩa, những kiến thức hóa học rất gần gũi, thiết thực với
cuộc sống. Đồng thời, các BTHH cần khai thác các nội dung về vai trò của hóa học với
các vấn đề kinh tế, xã hội môi trường và các hiện tượng tự nhiên, kích thích được sự
đam mê, hứng thú học tập của học sinh đối với môn Hóa học.
- BTHH định lượng được xây dựng trên quan điểm không phức tạp hóa bởi
các thuật toán mà cần chú trọng đến nội dung hóa học và các phép tính được sử
dụng nhiều trong tính toán hóa học.
- Đa dạng hóa các hình thức câu hỏi, bài tập, như: Sử dụng bảng biểu, sơ đồ, văn
bản, hình ảnh, câu hỏi trắc nghiệm khách quan, câu hỏi tự luận ngắn, câu hỏi mở ...
Như vậy, xu hướng phát triển của BTHH hiện nay hướng đến rèn luyện khả
năng vận dụng kiến thức, phát triển khả năng tư duy hóa học cho học sinh ở các mặt: lí
thuyết, thực hành và ứng dụng. Những bài tập có tính chất học thuộc trong các bài tập
lí thuyết sẽ giảm dần mà được thay bằng các bài tập đòi hỏi sự tư duy, tìm tòi.
1.2.3. Vai trò của bài tập thực tiễn [14] [27]
Việc lồng ghép các bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học, trước hết
tạo điều kiện cho việc học và hành gắn liền với thực tế, tạo cho học sinh sự hứng
thú, hăng say trong học tập.
- Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích
cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến
thức vào cuộc sống.
- Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về hệ tự nhiên và hoạt động của
12
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
nó, tác động của nó đối với cuộc sống của con người.
- Học sinh nắm được những ảnh hưởng của những hoạt động của con người
lên hệ tự nhiên. Từ đó, học sinh ý thức được hoạt động của bản thân trong cuộc
sống, đặc biệt là đối với vấn đề môi trường.
- Xây dựng cho học sinh những kĩ năng quan sát, thu nhập thông tin và phân
tích thông tin, dần hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Phát triển kĩ năng nghiên cứu thực tiễn và kĩ năng tư duy để giải thích các
hiện tượng thực tiễn, luôn chủ động trong cuộc sống.
- Giúp HS vận dụng được kiến thức tổng hợp của nhiều lĩnh vực khoa học (vật
lí, sinh học, hóa học, địa lí) và cả kiến thức trong đời sống.
- Vấn đề về môi trường hiện nay đang trở thành vấn đề cấp bách và mang tính
toàn cầu. Môn Hóa học có nhiệm vụ và có nhiều khả năng giáo dục cho học sinh ý
thức bảo vệ môi trường. Cần tích hợp nội dung về bảo vệ môi trường vào việc dạy
học hóa học. Thông qua đó, rèn luyện văn hóa lao động (lao động có tổ chức, có kế
hoạch, gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ nơi làm việc).
- Giáo dục trí dục kết hợp hữu cơ với giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức tự
tôn dân tộc.
Từ những ý nghĩa trên cho thấy việc sử dụng câu hỏi và bài tập thực tiễn
trong dạy học nói chung và Hóa học nói riêng là vô cùng cần thiết, mà điều này
chính là một trong những nội dung quan trọng được PISA chú ý tới.
1.3. PISA và năng lực Khoa học của PISA
Mục tiêu tổng quát của chương trình PISA nhằm kiểm tra xem khi đến độ
tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc, học sinh đã được chuẩn bị để đáp ứng các
thách thức của cuộc sống sau này ở mức độ nào. Ngoài ra, chương trình đánh giá
PISA còn hướng vào các mục đích cụ thể [2]:
- Xem xét đánh giá các mức độ năng lực đạt được ở các lĩnh vực Đọc hiểu,
lĩnh vực Toán và Khoa học của HS.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các chính sách đến kết quả học tập của HS.
- Nghiên cứu hệ thống các điều kiện giảng dạy - học tập có ảnh hưởng đến kết
quả học tập của HS.
PISA thu thập và cung cấp cho các quốc gia các dữ liệu có thể so sánh được
13
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
trên bình diện quốc tế cũng như xu hướng của dữ liệu quốc gia về năng lực Đọc
hiểu, năng lực Toán học và Khoa học của HS độ tuổi 15, từ đó giúp chính phủ các
nước tham gia PISA rút ra những bài học về chính sách đối với giáo dục phổ thông.
PISA tập trung vào đánh giá 3 mảng năng lực chính: Năng lực Toán học phổ
thông; Năng lực Đọc hiểu phổ thông (Reading literacy); Năng lực Khoa học phổ
thông (Science literacy). Đó là những kiến thức và kỹ năng tối cần thiết cho một
học sinh bước vào cuộc sống trưởng thành. Và đó cũng là những kỹ năng và kiến
thức nền tảng, không thể thiếu cho quá trình học tập suốt đời của mỗi người.
1.3.1. Năng lực Khoa học của PISA
Là năng lực của một cá nhân biết sử dụng kiến thức khoa học để xác định
các câu hỏi và rút ra kết luận dựa trên chứng cứ để hiểu và đưa ra quyết định về thế
giới tự nhiên thông qua hoạt động của con người thực hiện việc thay đổi thế giới tự
nhiên. Cụ thể là [2]:
- Có kiến thức khoa học và sử dụng kiến thức để xác định các câu hỏi, chiếm
lĩnh kiến thức mới, giải thích hiện tượng khoa học và rút ra kết luận trên cơ sở
chứng cứ về các vấn đề liên quan đến khoa học.
- Hiểu những đặc tính của khoa học như một dạng tri thức của loài người và
một hoạt động tìm tòi khám phá của con người.
- Nhận thức được vai trò của khoa học và công nghệ đối với việc hình thành
môi trường văn hóa, tinh thần, vật chất.
- Sẵn sàng tham gia như một công dân tích cực, vận dụng hiểu biết khoa học
vào giải quyết các vấn đề liên quan tới khoa học.
* Các câu hỏi ở 3 cấp độ/nhóm sau:
+ Xác định các câu hỏi khoa học: HS nhận biết các vấn đề mà có thể được
khám phá một cách khoa học, nhận ra những nét đặc trưng chủ yếu của việc nghiên
cứu khoa học.
+ Giải thích hiện tượng một cách khoa học: HS có thể áp dụng kiến thức về
khoa học vào tình huống đã cho, mô tả, giải thích hiện tượng một cách khoa học và
dự đoán sự thay đổi.
+ Sử dụng các căn cứ khoa học, lí giải các căn cứ để rút ra kết luận.
14
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
* Ngữ cảnh trong đánh giá năng lực Khoa học
Ví dụ một số ngữ cảnh trong đánh giá Khoa học của PISA [2]:
Con ngƣời
Sức khỏe (duy trì sức khỏe, tai nạn, dinh dưỡng, …).
Tài nguyên (việc tiêu thụ năng lượng và các tài nguyên).
Môi trường (thái độ thân thiện với môi trường, sử dụng và loại bỏ các loại
vật liệu, …).
Rủi ro (do thiên nhiên hay do con người, …).
Các lĩnh vực khác (hứng thú với các giải thích về hiện tượng tự nhiên trong
khoa học, các sở thích, hoạt động, thể thao, âm nhạc dựa trên khoa học …).
Xã hội
Sức khỏe (kiểm soát bệnh tật, sức khỏe cộng đồng, chọn lọc thức ăn, vận
động xã hội, …).
Tài nguyên (duy trì dân số, chất lượng cuộc sống, an toàn, sản xuất và phân
phối lương thực, cung cấp năng lượng …)
Môi trường (phân bố dân số, xử lí rác thải, tác động của môi trường, thời
tiết địa phương, ...).
Rủi ro [những thay đổi bất thường (động đất, thời tiết khắc nghiệt), các thay
đổi chậm rãi và lâu dài (sự sói mòn khu vực bờ biển, trầm tích), đánh giá
rủi ro].
Các lĩnh vực khác (các vật liệu mới, các thiết bị và quy trình, biến đổi gen,
công nghệ vũ khí, vận tải).
15
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
Toàn cầu
Sức khỏe (bệnh dịch, sự lây lan của bệnh truyền nhiễm ...).
Tài nguyên (tài nguyên phục hồi được và không có khả năng phục hồi, các
hệ sinh thái, tăng trưởng dân số, … ).
Môi trường (đa dạng sinh học, khả năng duy trì của hệ sinh thái, kiểm soát
ô nhiễm, việc sinh ra và mất đi của đất, ...).
Rủi ro (thay đổi khí hậu, tác động của chiến tranh hiện đại, …).
1.3.2. Bài tập của PISA
Các lĩnh vực khác (sự tuyệt chủng của các loài, thám hiểm không gian,
Các câu hỏi của PISA đều là các câu hỏi dựa trên các tình huống của đời
nguồn gốc và cấu trúc của vũ trụ).
sống thực và không chỉ giới hạn bởi cuộc sống thường ngày của các em trong nhà
trường, và nhiều tình huống được lựa chọn không phải chỉ để học sinh thực hiện các
thao tác về tư duy, mà còn để học sinh ý thức về các vấn đề xã hội (như là sự nóng
lên của Trái đất, phân biệt giàu nghèo …). Dạng thức của câu hỏi phong phú, không
chỉ bao gồm các câu hỏi lựa chọn đáp án mà còn yêu cầu học sinh tự xây dựng nên
đáp án của mình. Chất liệu được sử dụng để xây dựng các câu hỏi này cũng đa
dạng, ví dụ như: Bài tập Đọc hiểu của PISA có thể xây dựng trên bảng biểu, đồ thị,
tranh, ảnh quảng cáo, văn bản, bài báo ... [2].
* Các kiểu câu hỏi được sử dụng:
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn (short response question).
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài (khi chấm sẽ phải tách ra từng phần để cho
điểm) (open- constructed response question).
- Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn) (close constructed response question).
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (Multiple choice).
- Câu hỏi Có - Không, Đúng - Sai phức hợp (Yes - No, True - False).
1.3.3. PISA tại Việt Nam
1.3.3.1. Mục đích tham gia [13]
- VN chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục.
- Tham gia cùng các nước phát triển nhất, cơ hội để Việt Nam học tập trao
đổi về giáo dục, về kinh nghiệm đánh giá quốc tế.
16
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
- Xác định vị trí giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
- Tham gia ĐGN quốc tế nhằm xem xét độ tin cậy của ĐGT; góp phần điều
chỉnh ĐGT.
- Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ đánh giá.
- Điều kiện để đổi mới PPDH, KTĐG góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
- Là bước chuẩn bị cho việc đổi mới chương trình - sách giáo khoa sau 2015.
1.3.3.2. Khó khăn và thách thức [11]
- Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của đánh giá trong quá trình giáo dục
còn khác nhau và hạn chế; độ tin cậy khác nhau khá nhiều giữa các địa phương;
giữa các cuộc đánh giá.
- Hình thức, nội dung, phương thức đánh giá còn đơn điệu, không đa dạng;
chưa chú trọng đến phân tích tất cả các khâu của quá trình đánh giá, tìm hiểu sâu
nguyên nhân, công bố công khai kết quả đánh giá.
- Đối với HS: Khó khăn lớn nhất là: Nội dung, hình thức, cách thức đánh
giá PISA là mới và lạ; thay đổi một thói quen, nếp nghĩ không đơn giản.
- Đội ngũ chuyên gia về đánh giá trong giáo dục còn rất mỏng và tính
chuyên nghiệp chưa cao.
1.3.3.3. Khảo sát thử nghiệm [2] [27]
* Mục đích của đợt khảo sát thử nghiệm:
- Thử nghiệm toàn bộ quy trình khảo sát PISA.
- Thử nghiệm bộ công cụ khảo sát.
* Đối tượng và mẫu:
- HS sinh năm 1995.
- Gồm 09 tỉnh, TP: Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu; TP.Hồ Chí Minh, Gia Lai,
Kon Tum, Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định.
- 40 trường, 35 HS/trường; Tổng cộng 1.080 HS.
* Thời gian khảo sát thử nghiệm: Từ 17 - 19/05/2011.
* Kết quả: KQ chung giữa mức 2 và 3 (450);
Đọc hiểu: 67% Khoa học: 36%; Toán: 21%.
1.3.3.4. Khảo sát chính thức
* Thời gian: 12 - 14 tháng 4 năm 2012.
17
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
* Công cụ khảo sát:
- 13 đề thi rất khác nhau
- 03 bộ phiếu hỏi HS và 01 bộ cho Hiệu trưởng
* Đối tượng khảo sát chính thức: HS sinh năm 1996 (độ tuổi 15); 162 trường
thuộc 59 tỉnh; 35 học sinh/trường. Tổng cộng khoảng 5.100 học sinh.
* Thành lập Hội đồng khảo sát tỉnh, thành phố.
1.3.3.5. Kết quả (04 – 12 - 2013) [27]
Bảng 1.1. Kết quả xếp hạng năm 2012 của PISA
Theo kết quả đánh giá học sinh quốc tế 2012 (PISA), Việt Nam xếp hạng 17
trong số 65 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo kết quả ở từng môn, Việt Nam xếp thứ 8 về Khoa học (528 điểm), xếp
thứ 17 về môn Toán (511 điểm) và xếp thứ 19 về môn Đọc hiểu (508 điểm).
(Năm 2012, trọng tâm của đánh giá tập trung vào môn Toán).
Trước kết quả này Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, cũng là người phụ trách
Dự án PISA của Việt Nam, bày tỏ: "Lần đầu tiên Việt Nam tham gia chương trình
đánh giá này vào năm 2012. Chúng ta là nước có thu nhập bình quân đầu người
thấp nhất trong 65 nước nhưng chất lượng gây bất ngờ cho cả thế giới" [27]. Tuy
nhiên một đánh giá khác về điểm yếu của HS Việt Nam là khả năng linh hoạt trong
18
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
tư duy thấp và sự tham gia của bố, mẹ vào việc học của con đứng gần cuối bảng
trong số 65 nước tham gia.
Ông cho biết Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu, vận dụng các kĩ thuật, phương
pháp của PISA vào công tác đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông, nhất là đổi
mới cách ra đề kiểm tra, đề thi và phương pháp đánh giá chất lượng trên diện rộng của từng địa phương (không phải là đánh giá kết quả của các cá nhân học sinh).
Tháng 5/2015, học sinh VN sẽ tiếp tục tham gia kỳ khảo sát đánh giá của
PISA với trọng tâm là năng lực Khoa học.
1.4. Thực trạng việc sử dụng câu hỏi và bài tập tiếp cận PISA trong dạy học
môn hóa học 11 ở trƣờng THPT
Để có cái nhìn khách quan về thực trạng sử dụng bài tập hóa học ở trường
THPT, chúng tôi đã tiến hành điều tra một số GV và HS ở các trường THPT trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh và Hà Giang.
1.4.1. Mục đích điều tra
Tìm hiểu và đánh giá đúng thực trạng việc sử dụng bài tập hóa học hiện nay
của một số trường THPT thuộc địa bàn và coi đó là căn cứ để xác định phương
hướng trong nhiệm vụ phát triển tiếp theo của đề tài.
Điều tra để có cơ sở phân tích hiệu quả của quá trình dạy và học của GV và
HS trường THPT, từ đó đưa ra giải pháp giảng dạy và học tập nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học hóa học ở nhà trường.
Lấy được ý kiến, quan niệm của GV và HS về việc sử dụng câu hỏi và bài
tập theo tiếp cận PISA trong giảng dạy và học tập môn hóa học ở trường THPT.
1.4.2. Nội dung điều tra
- Điều tra về thực trạng sử dụng câu hỏi, bài tập hóa học theo tiếp cận PISA
của GV ở trường THPT.
- Đánh giá của GV và cán bộ quản lí về năng lực nhận thức của các em HS
khi sử dụng bài tập tiếp cận PISA ở trường THPT.
1.4.3. Đối tượng điều tra
19
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
- Các GV trực tiếp giảng dạy bộ môn Hóa học ở một số trường THPT thuộc
tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hà Giang.
- Các HS tham gia học các lớp thực nghiệm của đề tài.
- Một số cán bộ quản lí của các Trường, Sở GD&ĐT, các Ban, Ngành có
liên quan.
1.4.4. Phương pháp điều tra
- Gặp gỡ trực tiếp, trao đổi, toạ đàm và phỏng vấn các GV, các cán bộ quản
lí và HS tham gia thực nghiệm.
- Dự giờ, nghiên cứu giáo án của GV.
- Gửi và thu phiếu điều tra cho GV và cán bộ quản lí.
1.4.5. Kết quả điều tra
Trong thời gian từ tháng 10 đến tháng 5 năm 2013, chúng tôi đã:
- Dự giờ 2 tiết của GV hóa học ở trường THPT Hàn Thuyên và 2 tiết của GV
hóa học trường THPT Yên Phong số 1, tỉnh Bắc Ninh.
- Trao đổi và xin ý kiến của một số cán bộ quản lí của các trường, phòng
Giáo dục và Đào tạo.
- Để có cái nhìn khách quan về những mức độ hiểu biết cơ bản và vận dụng
PISA; mức độ biết, hiểu và sử dụng các dạng câu hỏi và BTHH theo tiếp cận PISA
của Giáo viên trong quá trình dạy học hóa học ở trường THPT. Chúng tôi đã gửi
phiếu điều tra đến 64 GV hóa học đang giảng dạy tại các trường THPT. Tỉnh Bắc
Ninh gồm: THPT Chuyên Bắc Ninh, THPT Hàn Thuyên, THPT Hoàng Quốc Việt,
THPT Yên Phong số 1. Tỉnh Hà Giang gồm: THPT Chuyên Hà giang, THPT Lê
Hồng Phong, THPT Ngọc Hà, THPT Nội trú tỉnh Hà Giang. TTGDTX&DN Cầu
Giấy, Hà Nội; THPT Phổ Yên, Thái Nguyên. Kết quả điều tra như sau:
Phiếu điều tra đƣợc tiến hành với 5 mức độ hiểu, biết và vận dụng:
Mức 1. Chưa biết
Mức 2. Đã nghe nhưng chưa hiểu rõ
Mức 3. Đã hiểu rõ nhưng chưa vận dụng
Mức 4. Đã hiểu rõ và thỉnh thoảng vận dụng
Mức 5. Đã hiểu rõ và vận dụng thường xuyên
20
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
Kết quả điều tra được tổng hợp trong các bảng sau:
Bảng 1.2. Mức độ hiểu biết cơ bản và vận dụng PISA của GV trong quá trình
dạy học ở trƣờng THPT
Mức độ
STT
1
2
3
4
5
1
“Chương trình đánh giá HS 15,62%
quốc tế” - viết tắt là PISA
(10GV)
42,19%
(27GV)
42,19%
(27GV)
0%
0%
2
Nội dung đánh giá của PISA 26,56%
đối với lĩnh vực Khoa học
(17GV)
42,19%
(27GV)
31,25%
(20GV)
0%
0%
3
Các dạng câu hỏi PISA trong 32,81%
lĩnh vực khoa học
(21GV)
45,31%
(29GV)
21,88%
(14 GV)
0%
0%
4
Cách xây dựng các câu hỏi 39,07%
và bài tập PISA
(25GV)
45,31%
(29 GV)
15,62%
(10 GV)
0%
0%
5
Cách chấm điểm trong PISA
35,94
(23GV)
50,00%
(32 GV)
14,06%
(9 GV)
0%
0%
Bảng 1.3. Mức độ biết, hiểu và sử dụng các dạng câu hỏi và BTHH theo tiếp
cận PISA của GV trong dạy học Hóa học
ST
T
Mức độ
Dạng câu hỏi và bài tập
1
2
3
4
5
9,37
60,94
29,69
%
%
%
(6
(39
(19
kinh nghiệm của HS
GV)
GV)
GV)
Câu hỏi và bài tập dựa trên 9,37% 35,94
21,88
23,44
9,37
%
%
%
%
(6
(23
(14
(15
(6
GV)
GV)
GV)
GV)
GV)
Mô tả, giải thích hiện tượng thực
1
2
tế trong đời sống bằng kiến thức
0%
hóa học, chú ý khai thác vốn
việc đọc hiểu văn bản, nghiên
cứu sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh
... có liên quan
21
0%
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
Câu hỏi và bài tập hóa học xuất
phát từ những bối cảnh, tình
3
huống trong thực tiễn liên quan
0%
đến các vấn đề xã hội, kinh tế,
sức khỏe, khoa học, công nghệ,
9,37
34,38
43,75
12,50
%
%
%
%
(6
(22
(28
(8
GV)
GV)
GV)
GV)
32,81
42,19
25,00
%
%
%
(21
(27
(16
GV)
GV)
GV)
môi trường ...
Câu hỏi và bài tập hóa học về
thế giới tự nhiên, khoa học,
4
công nghệ cần vận dụng kiến
0%
thức liên môn của nhiều lĩnh
vực: Toán học, Vật lí, Hóa học,
0%
Sinh học, Địa lí …
Câu hỏi và bài tập hóa học nhằm
phát triển năng lực riêng biệt của
khoa học hóa học: Kiến thức về
5
chất, biến đổi hóa học ...; Các kĩ
0%
năng: Quan sát, thực hành, nêu
0%
0%
giả thuyết, dự đoán, phân tích
kết quả thực nghiệm trong
67,19
32,81
%
%
(43
(21
GV)
GV)
nghiên cứu khoa học hóa học
Câu hỏi và bài tập hóa học
nhằm phát triển tư duy phê
phán, tính sáng tạo ở HS: Bài
tập mở, nhiều hướng giải, HS
6
được trình bày ý kiến của cá
0%
nhân về các vấn đề kinh tế, xã
hội, sức khỏe, khoa học công
nghệ và môi trường ... trên cơ
sở những lập luận mang tính
khoa học
22
18,75
50,00
20,31
10,94
%
%
%
%
(12
(32
(13
(7GV)
GV)
GV)
GV)
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
Câu hỏi và bài tập hóa học yêu
cầu HS hoạt động nhóm báo
7
cáo về một vấn đề xã hội, kinh
0%
tế, sức khỏe, khoa học, môi
0%
trường ... liên quan đến kiến
21,88
64,06
14,06
%
%
%
(14
(41
GV)
GV)
(9GV)
thức hóa học
Câu hỏi và bài tập hóa học mà
HS được thể hiện thái độ của
mình đối với các vấn đề của
8
khoa học hóa học: Sự hứng thú
32,81
42,19
25,00
%
%
%
(21
(27
(16
GV)
GV)
GV)
với khoa học; Sự ủng hộ
nghiên cứu khoa học; Trách
nhiệm với môi trường và sử
0%
0%
dụng tài nguyên thiên nhiên
=> Từ các kết quả điều tra trên, có thể cho phép một số nhận xét chung sau:
- Những dạng bài tập liên quan đến những vấn đề thực tế của cá nhân và
cộng đồng, những dạng bài tập phát huy năng lực, tư duy khoa học của HS đã được
sử dụng nhưng còn rất hạn chế trong kiểm tra - đánh giá HS.
- Chưa khai thác triệt để các ứng dụng của Hóa học trong thực tế và các vấn
đề thực tiễn có liên quan đến kiến thức Hóa học vào nội dung bài tập nên tính thực
tiễn của môn học chưa cao.
- GV ít để ý đến ý kiến cá nhân HS, HS lĩnh hội kiến thức còn bị động, phụ
thuộc nhiều vào giáo viên.
23
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trong chương này, luận văn đã:
- Nêu ra được việc đổi mới PPDH trên thế giới từ đó liên hệ với việc đổi mới
PPDH ở Việt Nam.
- Đưa ra được một số định hướng trong việc xây dựng bài tập hóa học mới;
xác định vai trò của bài tập thực tiễn.
- Tìm hiểu về PISA và năng lực Khoa học của PISA, PISA tại Việt Nam …
Sau đó tiến hành điều tra thực trạng việc sử dụng câu hỏi và BTHH theo tiếp cận
PISA trong dạy học môn Hóa học ở một số trường THPT. Kết quả điều tra cho thấy
nhu cầu sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 tiếp cận PISA là rất cần thiết.
24
Đề tài: Thiết kế và sử dụng hệ thống bài tập Hóa học 11 phần phi kim tiếp cận PISA
theo định hƣớng phát triển năng lực cho học sinh
CHƢƠNG 2
THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP PHẦN PHI
KIM HÓA HỌC LỚP 11 THEO HƢỚNG TIẾP CẬN PISA
2.1. Phân tích chƣơng trình hóa học 11 phần phi kim
2.1.1. Mục tiêu
Môn Hóa học ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu đào tạo của nhà trường THPT. Môn Hóa học cung cấp cho học sinh một hệ
thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực về hóa học, hình thành ở các em
một số kĩ năng phổ thông, cơ bản và thói quen làm việc khoa học, góp phần hình
thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động, chuẩn bị cho học sinh
học lên và đi vào cuộc sống lao động.
Chương trình môn Hóa học lớp 11 phần phi kim phải giúp cho học sinh đạt
các mục tiêu cụ thể sau đây [24] [25]:
2.1.1.1. Về kiến thức
Học sinh có được một hệ thống kiến thức phổ thông, đi sâu hơn vào nghiên
cứu dựa trên những kiến thức đơn giản về Hóa học đã học ở các lớp dưới:
- Nghiên cứu về nhóm Nitơ: Vị trí, cấu tạo nguyên tử, tính chất hóa học, ứng
dụng cuả nitơ, photpho; Thành phần, cấu tạo phân tử, tính chất vật lí, hóa học, ứng
dụng, điều chế một số hợp chất của chúng: Amoniac, muối amoni, axit nitric, muối
nitrat, axit photphoric, muối photphat, một số phân bón hóa học …
- Nghiên cứu về nhóm Cacbon: Vị trí, cấu tạo nguyên tử, tính chất hóa học,
ứng dụng cuả cacbon, silic; Thành phần, cấu tạo phân tử, tính chất vật lí, hóa học,
ứng dụng, điều chế một số hợp chất của chúng: CO, CO2, muối cacbonat, SiO2, axit
silixic, muối silicat …
2.1.1.2. Về kĩ năng
- Kĩ năng cơ bản tối thiểu làm việc với các chất, dụng cụ hóa học, quan sát,
mô tả hiện tượng và tiến hành một số thí nghiệm hỗn hợp đơn giản trong môn học.
- Biết cách làm việc khoa học, biết cách hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức.
- Biết thu thập, phân loại, tra cứu và sử dụng thông tin tư liệu.
- Biết phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, có thói quen học tập và tự học.
25