PHẦN A: MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt
ra trong qúa trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Chặng đường vẻ vang
80 năm qua của Đảng và nhân dân ta khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu
đạt được trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thống nhất
đất nước, cũng như trong quá trình đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
một lần nữa chứng minh sự phát triển và trưởng thành của Đảng.
Cùng với những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã giành được,
Đảng đã có bước trưởng thành mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đa số
cán bộ, đảng viên giữ được phẩm chất cách mạng. Nhưng chúng ta cũng
nghiêm túc thấy rằng có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống.
Trong khi cách mạng đòi hỏi sự phấn đấu kiên định và bền bỉ để thực
hiện mục tiêu lý tưởng thì một bộ phận cán bộ đảng viên lại giảm sút ý chí,
phai nhạt lý tưởng, dao động về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đáng
chú ý là có cả một số cán bộ, đảng viên cấp cao làm trái Cương lĩnh, Điều lệ
Đảng, vi phạm pháp luật…; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của
một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiệm trọng hơn;
việc thực hiện nguyên tắc tập chung dân chủ không nghiêm; bộ máy tổ chức
của Đảng và Nhà nước chậm củng cố và đổi mới; tinh thần làm việc cầm
chừng; các thế lực thù địch đang dùng mọi thủ đoạn nham hiểm và độc ác
chống lại hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội…
Trước tình hình ấy, một số cấp ủy, đảng viên chưa thấy hết tính chất
nghiêm trọng của thực trạng, còn chủ quan, đơn giản, thờ ơ, không nhận thức
được yêu cầu cấp thiết của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Vì vậy, cần phải
1
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức; về
đội ngũ cán bộ, đảng viên, và phương thức lãnh đạo.v.v. coi đó như một quy
luật phát triển Đảng.
Điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định là “Đảng có vững, cách
mệnh mới thành công”. Cho nên, trong quá trình hoạt động, Đảng Cộng sản
Việt Nam phải luôn chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Khi trở thành Đảng cầm quyền lại hoạt động trong những
điều kiện mới hết sức phức tạp. Đảng ta phải thường xuyên tự chỉnh đốn lại
Đảng nhằm nâng cao trình độ lý luận, chính trị, đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên, nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần đường lối cách
mạng của dân tộc.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một vấn đề hệ trọng liên quan đến sự
mất hay còn của Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN ở nước ta.
Trong tiểu luận này em xin phân tích làm rõ thêm “ Các quan điểm, biện
pháp chỉ đạo công tác công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng Cộng
sản Việt Nam qua một số Đại hội” làm tiểu luận cho môn học: hệ thống quan
điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
2
PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM, BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
Việc nghiên cứu các Văn kiện của Đảng ta để nắm vững các quan điểm
cơ bản của Đảng trong chỉ đạo xây dựng, chỉnh đốn Đảng là điều có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1.1. Tính tất yếu xây dựng và chỉnh đốn Đảng
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” năm 1927 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đặt câu hỏi: “cách mệnh trước hết phải có cái gì” và Người khẳng định:
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh, … Đảng có vững, cách mệnh mới thành
công” [Hồ Chí Minh toàn tập, H, 1995, T.2, tr.267,268]. Quán triệt tinh thần
đó, mà từ ngày thành lập đến nay và trong quá trình hoạt động, Đảng ta luôn
chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Khi
trở thành Đảng cầm quyền lại hoạt động trong những điều kiện mới hết sức
phức tạp, đặc biệt ở những bước chuyểncách mạng, phải thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của mình, để mãi xứng đáng là người lãnh đạo và là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
Trên cơ sở thực tiễn về đổi mới và chỉnh đốn Đảng mà Đảng đã thực
hiện trong các giai đoạn cách mạng trước cùng với yêu cầu xây dựng Đảng
trong thời kỳ đổi mới, chúng ta có thể hiểu: đổi mới và chỉnh đốn Đảng là
cuộc vận động giai đoạn chính trị tư tưởng tiến hành trong Đảng, làm cho cán
bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, đường lối của Đảng; loại trừ những biểu
hiện tiêu cực; khắc phục những yếu kém, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng
viên và bộ máy của Đảng; xây dựng củng cố và bảo vệ Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phù hợp với yếu cầu khách quan của
cách mạng trong thời kỳ mới.
3
Đổi mới là tất yếu vì nó dúng với quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về
sự phát triển, xem xét, xử lý các sự việc và hiện tượng trong sự vận động và
phát triển của chúng trong những điều kiện khách quan cụ thể. Đổi mới là yêu
cầu tất yếu vì nó là gải pháp cơ bản, bắt buộc để đưa kinh tế - xã hội nước ta
vượt qua vực thẳm của cuộc khủng hoảng trầm trọng đang diễn ra. Đổi mới là
tất yếu vì chính sách, cơ chế kinh tế và phương thức lãnh đạo quan lý bắt
buộc phải được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu khách
quan và điều kiện thực tế của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Hơn nữa, để làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó Đảng ta cần phải
vững mạnh, toàn Đảng tư tưởng và hành động phải nhất trí cao cho nên, chỉnh
đốn Đảng là việc làm thường xuyên và chính yếu, coi đó là quy luật phát triển
của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của xây dựng chỉnh, đốn Đảng là
nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ giúp học theo
đúng quan điểm lập trường vô sản, làm cho Đảng thật trong sạch, vững mạnh
đáp ứng yêu cầu thực tế đang đặt ra.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin,tư tưởng
Hồ Chí Minh phân đấu vì lợi ích của nhân dân, dân tộc. Quy luật phát triển
của Đảng là tự phê bình và phê bình nhằm sửa chữa những sai lầm, khuyết
điểm trong công tác lãnh đạo là tất yếu. Đảng chủ động tự đổi mới, đổi mới tư
duy, đổi mới lãnh đạo nhằm nâng Đảng lên ngang tầm nhiệm vụ mới.
1.2. Quan điểm, biện pháp chỉ đạo của Đảng về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng phải đi liền với nhau, phải gắn bó chặt
chẽ với nhau xây dưng Đảng trong sạch vững mạnh nhằm nâng cao năng lực,
lãnh đạo của Đảng còn chỉnh đốn Đảng là nâng cao tầm năng lực của mỗi
đảng viên, mỗi chi bộ để đáp ứng yêu cầu ngay càng cao của nhiệm vụ mới:
Muốn chỉnh đốn lại Đảng thì trước hết “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư,
4
giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người đầy tớ trung
thành của nhân dân”.
Theo Lênin, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không phải là vấn đề chỉ
thuần túy về tính chất mà xuất phát từ mục đích chính trị từ nhiệm vụ cấp
cách mạng mới, từ những yêu cầu kinh tế - xã hội của đất nước mà Đảng phải
giải quyết chính sách kinh tế mới; đường lối chiến lược là cơ sở tiêu chuẩn
cho việc thanh Đảng.
Chỉnh đốn lại Đảng là một cuộc đấu tranh chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để việc chỉnh đốn lại Đảng có
kết quả, Đảng cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa
vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
1.2.1. Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12-1986). Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới tư duy, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách công tác. Đến Hội
nghị lần thứ sáu (tháng 3-1989), Đảng tiếp tục chỉ rõ đổ mới phương thức
lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hoạt động của hệ thống chính trị.
Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng ta đã
chủ trương nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song trên
thực tế, Đảng ta chưa làm tốt được nhiệm vụ đó. Nhiều năm chúng ta đã coi
nhẹ và có khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Nhiều vấn đề kinh tế,
xã hội chưa được giải đáp và giải quyết đúng đắn; việc rèn luyện cán bộ, đảng
viên còn nhiều thiếu sót; phong cách lãnh đạo chưa được cải tiến để đáp ứng
với những đòi hỏi của tình hình mới. Vì vậy, Đại hội VI của Đảng cho rằng
“Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế;
đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và
công tác” (Sđd, tr 124). Theo hướng đổi mới đó, Báo cáo chính trị Đại hội VI
đã nêu nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng như sau:
Đảng “Phải đổi mới tư duy; Phải đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các
cơ quan lãnh đạo và quản lý; Phải đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các
5
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng; Phải nâng cao chất lượng Đảng
viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; Phải nâng cao sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở và tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng” [Các Đại hội đại
biểu toàn quốc và Hội nghị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 –
2006), Nxb CTQG, tr.437 - 441) .
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (từ
ngày 14 đến ngày 20/6/1988) xác định phương hướng chung của công tác xây
dựng Đảng là: “Phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của
Đảng, quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết đại hội VI và các Nghị quyết của
Trung ương, Bộ chính trị; đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ
cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác; nâng cao giác ngộ cách
mạng; bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, kiến thức và năng lực lãnh đạo chính
trị của cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong
Đảng; tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, bảo đả cho Đang vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới [Các Đại hội
đại biểu toàn quốc và hội nghị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 –
2006), Nxb CTQG, tr.459]S.
1.2.2. Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), Đảng đề ra chủ trương tự
đổi mới, tự chỉnh đốn và đến Hội nghị lần ba (tháng 6-1992), đã cụ thể hóa
chủ trương đó và nhấn mạnh: Lúc này xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm
và xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đây là một nhiệm vụ có tầm quan
trọng đặc biệt và cấp bách; có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước và đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta.
Từ sau Đại hội VI, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VI) và Nghị quyết
Trung ương 3 (khóa VII) đã xác định việc đổi mới, chỉnh đốn các tổ chức cơ
sở Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, có tính cấp bách của toàn Đảng.
* Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, xây dựng cho được một
đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo chính trị,
cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực,
6
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thực hiện được sự chuyển tiếp
vững vàng các thế hệ cán bộ… Trong công tác cán bộ, cần coi trọng cả ba
mặt: bồi dưỡng, bố trí đúng để phát huy lực lượng cán bộ hiện có; kịp thời
thay những cán bộ kém năng lực, xử lý những cán bộ tham nhũng, thoái hóa,
những cán bộ có quan điểm và tư tưởng chính trị lệch lạc vi phạm kỷ luật của
Đảng; tích cực quy hoạch, đào tạo cán bộ dự bị ở các cấp.
Trong Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng của Ban chấp
hành Trung ương (khoá VI). Phần thứ hai: nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng trong thời gian tới. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối
cảnh quốc tế, trong nước và tình hình Đảng ta hiện nay đòi hỏi Đảng nhất
thiết phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp
bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới, sự
ổn định và phát triển của đất nước và đối với vận mệnh của bản thân Đảng.
Đây cũng là nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân… Yêu cầu đổi mới và
chỉnh đốn đảng trong những năm tới là:
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực
lãnh đạo chính trị; đổi mới một bước cơ bản nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng; bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống
nhất trong Đảng; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên; khắc phục
có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ tham nhũng, khôi phục và
nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng; chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và
đội ngũ cán bộ; làm cho Đảng có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, năng lực và
sức chiến đấu mới, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân vượt mọi khó khăn, thử
thách, phấn đấu thực hiện có kết quả các nghị quyết của Đại hội VII.
1.2.3. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “…
thường xuyên tự đổi mơi, tự chỉnh đốn… là quy luật phát triển của
Đảng”[Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb
CTQG, H, 1996, tr.47].
7
Đại hội VIII của Đảng khẳng định: đổi mới và chỉnh đốn Đảng “phải
gắn với đổi mới các lĩnh vực kinh tế, xã hội, với việc kiện toàn hệ thống chính
trị, với phát huy óc sáng tạo và khơi dậy phong trào cách mạng của nhân dân”
[Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII của Đảng, Nxb CTQG, H. 1996, tr.48].
Những tổng kết trên đây có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc, đóng góp
vào lý luận xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền. Sự khẳng định này dựa trên
các căn cứ: Thư nhất, sự ra đời của Đảng Cộng sản là một tất yếu lịch sử. Vai
trò lãnh đạo của Đảng là sứ mệnh thiêng liêng do nhân dân va dân tộc giao
phó. Khi trở thành Đảng cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng ảnh hưởng
quyết định đến tất cả các lĩnh vực của đất nước và dân tộc. Lúc bình thường
vai trò của Đảng đã rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn của cách
mạng có yêu cầu, nội dung lãnh đạo mới, cao hơn vì thực tiễn diễn biến nhanh
và phức tạp hơn nhiều. Trước tình hình đó, với tư cách là Đảng cầm quyền, để
phòng nguy cơ thoái hóa biến chất, Đảng phải “cả quyết sửa lỗi mình” [Hồ
Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T.2, tr.260], và tự nâng mình lên
cho phù hợp với yêu cầu cách mạng mới. Mặt khác, với tư cách là đội tiên
phong cua giai cấp công nhân Việt Nam, lãnh đạo các lĩnh vực của đơi sống
xã hội, đòi hỏi Đảng phải đủ sức lãnh đạo, giải quyết những vấn đề hệ trọng
của đất nước. Để Đảng không thoai hóa, biến chất và ngang tầm với thời kỳ
mới, tất yếu Đảng phải khẩn trương tự đổi mơi, tự chỉnh đốn. Qua đổi mới và
chỉnh đốn, bản thân Đảng được củng cổ và tăng cường, phát triển. Có như thế,
Đảng mới giữ vững vai trò lãnh đạo trong thực tế.
Thứ hai, toàn bộ thành tựu và khuyết điểm trong quá trình phát triển
của cách mạng, của công cuộc đổi mới đều gắn với trách nhiệm lãnh đạo và
hoạt động của Đảng. Sự lãnh đạo đó là nhân tố quyết định tạo ra những thành
tựu mới. Trên cơ sở đó, Đảng ngày càng trưởng thành và phát triển.
Thứ ba, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng vừa phát huy
được sức mạnh của các tổ chức Đảng, vừa phát huy được trí tuệ, năng lực
sáng tạo và trách nhiệm xây dựng Đảng của đội ngũ đảng viên. Qua quá trình
8
đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng còn tập hợp được sức mạnh của tổ chức trong hệ
thống chính trị và tinh thần xây dựng Đảng của nhân dân. Từ đó, uy tín của
Đảng được giữ vững và nâng cao.
Chủ trương về chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền được
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định từ Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng
lần thứ sáu (tháng 01/1949) khi cuộc kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta
do Đảng lãnh đạo chuẩn bị chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ toàn Đảng, toàn
dân ta phải “nỗ lực chuẩn bị, sẵn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không được
bỏ lỡ cơ hội chiến lược” [Hồ Chính Minh: toàn tập, Sđd, T.5, tr. 773]. Để
chuẩn bị đón thời cơ mới, có nhiều việc phải làm trong đó “trước hết phải
chỉnh đốn nội bộ Đảng” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.5, tr.551].
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, VÀ NHIỆM VỤ CỤ THỂ NHẰM
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG
2.1. Một số giải pháp:
Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các cấp ủy, tổ chức
đảng cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây:
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo
đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ
năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo
hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và
lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; chăm lo kết nạp đảng viên, nhất là ở
những địa bàn, đơn vị chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên.
- Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và
từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
9
- Nâng cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt
động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ,
vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong
sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên;
dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Để mãi mãi xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta. Để thực hiện được sứ mệnh
đó, trong Đảng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
* Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong điều
kiện mới.
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn
những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính
sách của Đảng trong thời kỳ mới. Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị,
tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ
chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ
thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình.
10
Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư
tưởng, lý luận. Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý
luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác
lý luận, gắn các công tác này với công tác tổ chức - cán bộ, với phát triển kinh
tế, giải quyết hài hòa các lợi ích. Gắn “xây” với “chống”, lấy “xây” làm
chính. Đặc biệt quan tâm chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan
điểm sai trái, thù địch.
* Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở
Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của
toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành
nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế
hóa về mặt nhà nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở, đặc
biệt là tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu, vùng xa; tập trung
giải quyết cơ sở yếu kém.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm
chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý
tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; năng động, sáng
tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
11
Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về qui mô phải gương
mẫu chấp hành điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và qui định
cụ thể của Ban Chấp hành trung ương.
Phân công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên
hoàn thành nhiệm vụ. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng theo đúng qui định của Điều lệ Đảng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở Đảng. Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng gắn với bảo
đảm chất lượng. Chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy
đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm
tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác
được giao.
Thường xuyên sàng lọc đảng viên. Động viên quần chúng giám sát,
đóng góp ý kiến về đảng viên, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không
đủ tư cách.
* Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng;
thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ,
đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền
được thông tin, tranh luận, nêu ý kiến riêng, và bảo lưu ý kiến trong tổ chức;
khi đã thành nghị quyết thì phải tuyệt đối chấp hành, nói và làm theo nghị
quyết của Đảng.
Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp
dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng qui chế ra quyết định của Đảng,
bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với
những quyết định lớn, tham gia giám sát Đảng, tham gia các công việc của
Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
12
Hoàn thiện qui chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối
với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ
chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám
sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Xây dựng qui chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể
cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho ủy
ban kiểm tra đảng các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra phòng ngừa. Xây
dựng qui chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra
của Chính phủ.
* Đổi mới công tác cán bộ.
Cán bộ phải là người có đức, có tài, có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với Đảng; hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân,
của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội; không dao động trước mọi biến cố phức tạp, có đủ
năng lực thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng, có ý thức tổ chức
kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, có chất lượng tốt,
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ
nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia
trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo định hướng qui hoạch. Đặc biệt
quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ thật sự dân chủ, khoa học, công
minh. Xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm
cán bộ; mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân
sự để lựa chọn.
13
Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài; thay thế những
người kém năng lực, không đủ uy tín, nhất là những người kém phẩm chất,
năng lực, có khuyết điểm nghiêm trọng.
Kiên quyết khắc phục những biểu hiện cá nhân, độc đoán, thiếu công
tâm và khách quan, cũng như tình trạng nể nang, tùy tiện, trì trệ trong công
tác cán bộ.
Cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy vai trò, quyền hạn và
trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Tổ chức
Đảng có thẩm quyền phải chủ trí công tác cán bộ theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng
đầu tổ chức trong hệ thống chính trị, tổ chức cơ quan, đơn vị công tác của cán
bộ. Qui định trách nhiệm của cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ. Có cơ
chế để đảng viên và nhân dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ.
* Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của
Đảng.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của
Đảng phải đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng.
Khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước ở cấp trung ương và chính quyền ở cấp địa
phương. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết,
quyết định, nguyên tắc giải quyết những vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh;
lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách
lớn của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác
lớn của Nhà nước; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt
14
động có hiệu lực, hiệu quả; bố trí đúng cán bộ ngang tầm nhiệm vụ và thường
xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay
Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước
trong quản lý đất nước và xã hội.
Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản qui
định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà
nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại
hình tổ chức nhà nước.
Lãnh đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện có
hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Ra nghị quyết đi liền với đề ra các kế
hoạch thực hiện nghị quyết.
Sớm xây dựng qui chế về sự phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng
với Thanh tra của Chính phủ, kịp thời kết luận các vụ vi phạm, xử lý đúng
người, đúng tội, đúng điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Xây dựng qui chế phối hợp công tác giữa các ban tham mưu của cấp ủy
đảng và cơ quan chính quyền tương ứng cùng cấp, nhất là giữa Văn phòng
Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng
Chủ tịch nước; giữa văn phòng cấp ủy và văn phòng hội đồng nhân dân, ủy
ban nhân dân các cấp.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, giúp Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu,
phương hướng phát triển và nội dung hoạt động trong từng thời kỳ; đồng thời
phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể trong xây
dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Thống nhất việc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong cả hệ
thống chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khập
khễnh, cục bộ về cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là
thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để
15
xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu
trách nhiệm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách hoạt động,
lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm, khắc phục bệnh
quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.
Thực hiện tốt các giải pháp trên, sẽ tạo ra một bước chuyển biến mới
trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong đảng, làm cho đảng ta ngày càng vững mạnh và trong sạch, đủ sức lãnh
đạo và tổ chức nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng
lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xứng
đáng với lòng mong mỏi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
2.2. Một số nhiệm vụ cụ thể
Từ ngày thành lập Đảng, đặc biệt từ Đại hội VIII đến nay, Đảng đã có
nhiều biện pháp quan trọng, có tính chiến đấu cao, tạo được sự đồng thuận
trong Đảng và toàn xã hội để chỉ đạo tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Trong những năm tới, toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa
VIII, tập trung làm tốt những công tác sau:
2.2.1. Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân.
Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa các nhân; tư tưởng cơ hội, thực dụng. Trên cơ sở tổng kết hai
năm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiếp tục đưa việc tự
phê bình và phê bình trong các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở thành nền nếp
thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa, chiếu lệ, hình thức; vận
động nhân dân góp ý phê bình cán bộ, đảng viên.
16
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch
đội ngũ đảng viên. Các cấp ủy tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học
tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp
vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và vận động nhân dân, phát hy vai trò tiên
phong gương mẫu. Cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất
là đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng. Trong các hoạt động kinh tế, đảng viên phải chấp hành đúng pháp luật
của Nhà nước và các quy định của Đảng.
Kiện toàn tổ chức và cán bộ ở những cơ quan, đơn vị để xảy ra những
biểu hiện không chấp hanhc nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
làm việc trì trệ, độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, mất đoàn kết nội
bộ. Củng cố và nâng cao chất lượng của các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra
nhà nước và thanh tra nhân dân. Tiếp tục coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ
chính trị nội bộ.
Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ,
sớm làm rõ và kết luận những vấn đè mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng
bước cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu
tranh Xvới những khuynh hướng tư tưởng sai trái.
2.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các
cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có
trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ
chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng
dụng người có đức, có tài. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách
nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị
17
về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ, chú
ý cán bộ nữ và cán bộ các dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực.
Đánh giá và sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác
thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; có phương pháp
khoa học, khách quan, công tâm theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ,
dựa vào tập thể và nhân dân để tuyển chọn cán bộ. Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa
và phát triển.
Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy
hoạch ở các ngành và địa phương; cán bộ chủ chốt từ cấp huyện trở lên giữ
một chức vụ lãnh đạo ở một đơn vị không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp; khắc
phục tư tưởng cục bộ, khép kín trong đơn vị, ngành và địa phương.
Xây dựng chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm chính
trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối
với cán bộ lãnh đạo va quản lý các cấp; chống các biểu hiện tiêu cực trong
giảng dạy và học tập.
2.2.3. Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng.
Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng
chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ
chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở,
nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng vai
trò lãnh đạo. Cấp ủy cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ
yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có điều
kiện khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy,
chi bộ. Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát
huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập và lối sống; giữ mối
liên hệ với quần chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nới cư trú. Phát
triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong
công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn
18
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên.
Đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên.
2.2.4. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt
cấp ủy ở cơ sở đến Ban Chấp hành Trung ương, trong công tác cán bộ và
trong xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng
viên có quyền được bảo lưu ý kiến nhưng phải nói và làm theo nghị quyết của
Đảng. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để
mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị.
Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo.
Đối với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ,
cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết
nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm
những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả
năng khắc phục thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của
Điều lệ Đảng.
Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra
đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và
kiểm tra tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương, tập thể cấp ủy, ban cán
sự đảng, đảng đoàn thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra nghị quyết theo đa số
những vấn đề quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách, về tổ chức,
cán bộ. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân.
Kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức, bộ
máy của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Sắp xếp tổ
chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các ban, ban cán sự đảng, đảng
19
đoàn, đảng ủy khối theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VIII). Phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt
động trong các cơ quan nhà nước trong việc nghiên cứu, đề xuất các chủ
trương, chính sách của Đảng. Tiếp tục thực hiện chủ trương cấp ủy đảng giới
thiệu bí thư hoặc phó bí thư cấp ủy để được bầu vào Hội đồng nhân dân và
làm chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Các cấp ủy viên, nhất là cán bộ chủ chốt, có chương trình công tác ở cơ
sở, tiếp xúc, lắng nghe ý kiến và trả lời chất vấn của đảng viên và nhân dân;
cấp ủy định kỳ làm việc với ban chấp hành các đoàn thể, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân. Chăm lo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh vững mạnh, phát huy vai trò của Đoàn là đội quân xung kích và là lực
lượng dự bị, kế tục sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng.
Lãnh đạo việc đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ
và các cơ quan hành pháp; phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và
thẩm quyền của các cơ quan đó. Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp
ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực
hiện các nghị quyết,chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chấp hành
nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ,
giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên./.
20
KẾT LUẬN
Hơn hai mươi năm qua, công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội VIII đã được triển khai thực hiện tong bối cảnh mới, đặc biệt là
tình hình khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Đông Nam Á, Châu Á tác động
trực tiếp vào nước ta, thiên tai diễn ra liên tiếp. Nhưng với nỗ lực to lớn của
toàn dân, các ngành, các cấp, sự lãnh đạo, điều hành năng động, nhạy bén của
Đảng và Nhà nước, kinh tế vẫn tăng trưởng, văn hóa xã hội có bước phát
triển, đời sống nhân dân về nhiều mặt có phần được cải thiện, chính trị ổn
định, quốc phòng an ninh đươc giữ vững, đối ngoại được mở rộng, uy tín
quốc tế được nâng cao. Trên những mặt cụ thể, công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng đạt được những kết quả nhất định.
Thực tiễn xây dựng Đảng cho ta thấy ở những bước chuyển của cách
mạng nếu Đảng tự giác vận dụng quy luật đổi mới, tự chỉnh đốn, xác định rõ
mục tiêu, nguyên tắc, phương châm, nội dung và có bước đi thích hợp, có sự
chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng thì cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn
Đảng đạt kết quả tốt; bản thân Đảng được củng cố, có bước trưởng thành mới
góp phần quyết định sự thành công của cách mạng. Trái lại, khi nòa vận dụng
quy luật trên không đầy đủ trong thực hiện không giữ đúng nguyên tắc Đảng,
phương châm hoặc sự chỉ đạo thiếu chặt chẽ… thì đổi mới, chỉnh đốn Đảng
kém hiệu quả, thậm chí sai lầm, dẫn đến chất lượng xây dựng bản thân Đảng
và thành quả cách mạng bị hạn chế.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng
duy nhất cầm quyền. Đảng là thành viên của Mặt trận đồng thời là thành viên
của hệ thống chính trị. Đảng có trọng trách lãnh đạo và cầm quyền, Đảng chịu
trách nhiệm cao nhất trước nhân dân và dân tộc về mọi mặt.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh,
xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính để làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo và cầm quyền, đưa sự nghiệp đổi mới và xây dựng CNXH ở nước ta tới
21
thắng lợi vì hạnh phúc của nhân dân, vì tương lai triển vọng phát triển của dân
tộc là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược của Đảng, của cách mạng Việt
Nam. Vào lúc này, xây dựng, chỉnh đốn Đảng đang là đòi hỏi bức xúc không
chỉ đối với bản thân Đảng mà còn đối với thực tiễn đổi mới. Làm cho Đảng ta
vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng,
giữ vững vai trò lãnh đạo, phát huy được uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong
xã hội và nhân dân./.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 9 khóa
IX, Nxb CTQG, HN, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng, Nxb CTQG, H, 1996.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nxb
CTQG, HN. 1999,
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị BCHTW
Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2006), Nxb CTQG.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
CTQG, HN, 2001.
7. Tài liệu phục vụ nghiên cứu các Kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG, Hà Nôi – 2006.
9. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2): Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần
2) khóa VIII Đẩy mạnh Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chống tham
nhũng, lãng phí, Nxb CTQG, Hà Nội – 2003.
10. Báo điện tử Đảng Cộng Sản./.
23
MỤC LỤC
24