Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN MÔN TIẾNG ANH LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.26 KB, 19 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cùng với sự thay đổi lớn lao của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nước ta
đang có sự “chuyển mình” trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việt Nam
đang phấn đấu trở thành một quốc gia có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đứng trước thực tế đó, ngành giáo dục
và đào tạo Việt Nam đang đứng trước những thách thức và vận hội mới. Nó đòi
hỏi phải có những đổi mới trong hệ thống giáo dục mà Nghị quyết Trung ương
(Khoá 8) đã nêu :
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học. Đảm bảo
điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh.”
Mục 2, điều 4 trong luật giáo dục của nước ta nêu rõ : “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Thực tế từ những năm 90, việc đổi mới về mục tiêu, nội dung chương trình,
sách giáo khoa tiếng Anh theo những định hướng của cải cách giáo dục đã được
tiến hành và đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho việc đổi mới phương pháp
dạy học tiếng Anh. Và từ đầu những năm 2000 môn tiếng Anh đã được đưa vào là
môn học phổ biến trong các trường học trên toàn quốc. Các nhà giáo dục tâm
huyết đã ra sức tìm tòi và thử nghiệm nhiều phương pháp dạy học mới: “Dạy học
theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm”, nhằm phát huy tích tích cực, tư
duy sáng tạo, chủ động của học sinh nâng cao hiệu quả và chất lượng quá trình
dạy học.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ chọn đề tài.
Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam đang ở chặng đầu của con đường đổi
mới, giáo dục còn nhiều khó khăn, điều kiện đầu tư cho cơ sở vật chất còn hạn
chế như : thiếu phòng học, dụng cụ tài liệu, lớp quá đông... Vậy làm thế nào để áp
dụng được các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng giảng


dạy môn tiếng Anh - một môn học mà học sinh từ trước đến nay vẫn coi là môn
“phụ”, môn “học thuộc lòng” môn “ít giờ”? Làm thế nào để học sinh khắc phục
được tâm lí này? Để học sinh trở nên yêu thích hứng thú với bộ môn, giờ học
không cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt và đồng thời cũng khắc phục những điểm hạn
chế do hoàn cảnh hiện tại của nước nhà. Với những điều kiện đòi hỏi trên, một
trong những phương pháp học tập có tính khả thi là dạy học hợp tác trong nhóm
nhỏ. Bởi phương pháp này không đòi hỏi điều kiện học tập gì đặc biệt, lại không
phụ thuộc quá nặng nề vào “cá tính” hay “khả năng đặc biệt” của người dạy giống
như nhiều các phương pháp dạy học khác.


Đối với phương pháp dạy học hợp tác nhóm thì các nhiệm vụ học tập được
giải quyết không phải bởi từng cá nhân riêng rẽ mà là sự phối hợp, sự hợp tác của
các thành viên trong một nhóm. Việc phối hợp học tập theo cả chiều đứng (thầytrò) và chiều ngang (trò-trò) tạo điều kiện cho học sinh nhận thức từ hai phía thầy
và bạn. Chính trong quá trình học tập chung đó các em được trao đổi thảo luận
học hỏi lẫn nhau, được khẳng định mình trong nhóm, tập thể tạo nên bầu không
khí dân chủ trong lớp học. Đồng thời học tập nhóm còn rèn luyện tính độc lập, tự
chủ, khả năng diễn đạt, lập luận vấn đề, sự hợp tác tương trợ lẫn nhau, ý thức
cộng đồng, tính kỷ luật, vv... Từ đó giúp cho học sinh có thể thích ứng nhanh với
những đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội và hướng học sinh vào chuẩn bị
cho cuộc sống chứ không phải chuẩn bị cho thi cử. Đây cũng chính là mục đích
cuối cùng của dạy học.
Hiện nay, trên thế giới phương pháp dạy học hợp tác nhóm đã được nghiên
cứu, vận dụng và đạt được nhiều thành tựu. Song ở Việt Nam phương pháp này
mới chỉ vận dụng ở một số ít môn học như : giáo dục thể chất, năng khiếu,...
Chính vì vậy cần phải nghiên cứu vận dụng phương pháp dạy học này trong dạy
học nói chung và môn tiếng Anh nói riêng.
Xuất phát từ những điều kiện và hoàn cảnh trên tôi tập trung nghiên cứu đề
tài : “Một số biện pháp giúp học sinh làm việc nhóm hiệu quả trong môn tiếng
Anh”


3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ,
thông qua chương trình môn tiếng Anh trường Tiểu học. Vì vậy đối tượng thực
nghiệm là học sinh ở độ tuổi 8-11.
Học sinh trường Tiểu học Nguyễn Văn Bé( Khối 5)
Khối 5( 5A1, 5A2, 5A3, 5A4, 5A5). Tổng số: 166 học sinh.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về phương pháp dạy học hợp tác nhóm thì các nhiệm vụ học tập
được giải quyết không phải bởi từng cá nhân riêng rẽ mà là sự phối hợp, sự hợp
tác của các thành viên trong một nhóm cho học sinh ở trường TH, đối tượng thực
nghiệm: Học sinh trường Tiểu học Nguyễn Văn Bé.

5. Phương pháp nghiên cứu.
Thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học
Tiếng Anh ở các trường TH bạn, từ đó rút kinh nghiệm cũng như học hỏi những
phương pháp hay từ đồng nghiệp; lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, rút
kinh nghiệm qua dự giờ để chọn lọc phương pháp dạy phù hợp.
Tham khảo các tài liệu về phương pháp giảng dạy:
+ Sách giáo khoa, giáo viên.
+ Tài liệu thay sách.
+ Cẩm nang người dạy Tiếng Anh.
+ Thiết kế bài giảng.


Sử dụng Internet thường xuyên để cập nhật thêm các thông tin liên quan đến đề
tài.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Về cơ sở lý luận.

Theo một số nhà nghiên cứu, tâm sinh lí và trình độ nhận thức học sinh tiểu
học đang đạt tới sự hoàn thiện về mặt thể chất. Do được tiếp cận với các phương
tiện thông tin hiện đại và thu nhận một khối lượng thông tin lớn về cuộc sống xã
hội, nên sự phát triển về tâm lí và nhận thức bộc lộ rõ nét. Các em có những dấu
hiệu của sự trưởng thành : Thường tỏ ra quan tâm đến nhau hơn, tự tin hơn. Chính
vì thế nhu cầu được giao tiếp, được tranh luận cũng tăng lên. Các em luôn muốn
giáo viên đánh giá đúng khả năng của mình trong học tập và lao động. Hầu hết
các em có tính tự trọng cao trong học tập, luôn có xu hướng bảo vệ những ý kiến,
những suy nghĩ độc lập của mình. Các em luôn có tính tích cực cao, thích hoạt
động tập thể, sẵn sàng tham gia công việc chung. Ở lứa tuổi này hoạt động cảm
giác, tri giác đã đạt được mức độ phát triển cao hơn. Tính chủ định được phát
triển mạnh ở tất cả quá trình nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt được tới mức
khá cao. Quá trình quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn.

2.Thực trạng.
Từ cuối thế kỷ XX, loài người đã bước vào thời kỳ mới của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật; đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong mọi mặt của đời
sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Và ngày nay trước thềm thế kỷ XXI, thế
giới đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh tin học; con người không chỉ
biết lao động bằng tay chân mà phải lao động bằng trí óc; phải biết chinh phục
đỉnh cao của trí tuệ áp dụng khoa học vào cuộc sống. Mọi mặt của đời sống xã
hội hiện nay đều gắn với những thành tựu tiến bộ của khoa học. Để có được điều
này, đòi hỏi con người phải có sự giao lưu học hỏi bạn bè quốc tế. Muốn vậy
chúng ta phải biết ngoại ngữ và sử dụng nó một cách thành thạo. Chính vì vậy
mà tôi thấy việc dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường, đặc biệt là trường
tiểu học là một nhu cầu thiết yếu và bắt buộc.
Một trong các ngoại ngữ đang dạy và học phổ biến ở các trường tiểu học Việt
Nam hiện nay là Tiếng Anh. Việc học ngoại ngữ hiện nay không chỉ để biết mà
còn để làm việc, để giao lưu học hỏi với bạn bè quốc tế.
Năng lực quan sát trở nên sâu sắc và nhạy bén, các em không chỉ ghi nhớ các

sự vật, hiện tượng một cách máy móc mà còn biết so sánh, bước đầu biết phân
tích tư duy. Độ tuổi này, ghi nhớ có chủ định trong hoạt động trí tuệ đồng thời vai
trò ghi nhớ logic trừu tượng và ghi nhớ ý nghĩa ngày càng tăng lên rõ rệt.
a. Về thuận lợi và khó khăn.
*Về thuận lợi.
Các em đã dần biết ý thức những đặc điểm nhân cách của mình. Các em không
chỉ nhận thức cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức về vị trí tương lai


của mình trong xã hội và dần hình thành nhu cầu đánh giá về các phẩm chất năng
lực của nhân cách. Song các em có xu hướng tự đánh giá cao nhân cách của bản
thân nên cần hướng dẫn giúp đỡ các em tự đánh giá một cách khách quan.
Trong các mối quan hệ giao tiếp thì mối quan hệ giao tiếp bạn bè luôn chiếm
vị trí quan trọng. Trong quá trình học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng thái
độ, hành vi hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi
trường giao tiếp thầy - trò, trò- trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Chính vì vậy, thông qua việc học trong
nhóm, trong tập thể, các em được bộc lộ mình, được nâng mình lên một trình độ
mới. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những
vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa cá nhân để hoàn
thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động học tập theo nhóm nhỏ sẽ không có hiện
tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi cá thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát
triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội
đưa vào nhà trường sẽ làm cho học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong
lao động xã hội.
Với những đặc điểm về tâm sinh lí và trình độ nhận thức của học sinh nêu trên
thì việc tổ chức hoạt động học tập hợp tác nhóm là rất thuận lợi. Điều này có thể
thực hiện được dễ dàng và mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học ở trường
cho dù ở mọi hoàn cảnh điều kiện khác nhau (thành thị hay nông thôn, vùng sâu,
vùng xa...)

* Bên cạnh đó còn có những khó khăn:
- Trình độ và ý thức không đồng đều dẫn đến ngay trong nhóm có em làm việc
tích cực, có em thờ ơ không quan tâm hoặc làm việc khác.
- Trước một vấn đề cần thảo luận trong nhóm học sinh chưa biết phân công
công việc cụ thể và sau đó là sự hợp tác để trình bày vấn đề nên còn vụng về lúng
túng.
- Việc đọc bài, chuẩn bị trước bài học ở nhà chưa thật sự hiệu quả, vẫn còn
mang tư tưởng đối phó nên sự hợp tác nhiều khi không thành công.
b. Thành công và hạn chế.
*Thành công.
- Giáo viên được đào tạo những kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ đạt chuẩn
để đáp ứng yêu cầu của việc dạy học cũng như áp dụng phương pháp mới vào quá
trình dạy học.
- Giáo viên yêu nghề, yêu thương học sinh luôn tìm tòi tự nghiên cứu để tìm
ra phương pháp dạy hay, hiệu quả.
* Hạn chế.
- Tuy nhiên, thời gian một tiết học (40 phút) không thể chờ cho học sinh suy
nghĩ và thảo luận hết các vấn đề như mong muốn. Có nhiều khi, vì lo cháy giáo án
nên đặt ra vấn đề rồi mà học sinh chậm trả lời thì giáo viên lại phải tự giải thích.
- Trong một tiết giáo viên không phải chỉ sử dụng một phương pháp, một thao
tác mà còn phải sử dụng nhiều phương pháp và thao tác khác.


- Lớp chia nhiều nhóm nhỏ, học sinh được phép tự do trao đổi cho nên sự
quán xuyến của giáo viên tới từng nhóm cũng có phần bị hạn chế.
c. Mặt mạnh và mặt yếu.
Mặc dù sách giáo khoa đã rất hiện đại về cấu trúc chủ điểm bài học, gần gũi
với cuộc sống hằng ngày sát với mục đích nhu cầu hứng thú của của các em, song
qua các bài giảng và tiếp xúc với học sinh tôi luôn nghĩ làm thế nào để dạy và học
có hiệu quả hơn, sáng tạo hơn để học sinh vừa thích thú vừa hiểu bài, bài dạy đạt

chất lượng về chiều sâu hơn. Trong một bài học được chia làm nhiều tiết dạy,
tổng hợp cả việc dạy từ vựng, ngữ pháp và cả việc thực hành cùng trong một tiết
học với thời lượng 40 phút. Nhưng ở đây tôi chỉ đề cập riêng đến việc dạy hợp tác
nhóm trong một tiết học như trên để cho phù hợp với từng đối tượng học sinh và
đồng thời đối với giáo viên cũng dễ thực hiện.
Học sinh ở bậc tiểu học còn nhỏ nên tốc độ viết của các em còn chậm. Đây
Là một lí do chủ yếu dẫn đến việc hạn chế thời gian tổ chức các trò chơi. Bên
cạnh đó các hình thức trò chơi vẫn chưa được tổ chức phong phú.
d. Các nguyên nhân và yếu tố tác động.
Môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học vẫn là môn học tự chọn nên một số phụ
huynh và học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng của môn học này. Đối tượng
học sinh yếu kém ngại giao tiếp vì khả năng tiếp thu chậm, sợ thực hành sai. Đối
tượng học sinh khá, giỏi ngại giao tiếp vì tâm lí ngại thực hành trước đám đông. Ở
lứa tuổi này các em rất ham chơi nên ý thức học tập chưa cao. Thêm vào đó các
em rất ít chú trọng vào việc học và rất lười học bài, nhất là khi về nhà.
e. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng.
Trong quá trình dạy và học Tiếng Anh, ôn tập và kiểm tra là một hoạt động
dạy học không thể thiếu trong bất kì một tiết học nào. Việc ôn tập và kiểm tra
không chỉ đơn thuần là việc giúp học sinh nhớ nghĩa của từ mà còn là việc giúp
các em nghe, phát âm từ một cách chính xác và áp dụng được từ vào trong giao
tiếp ngôn ngữ.
Các thủ thuật trong đề tài này cũng đã được đề cập đến nhiều trong các tài
liệu hướng dẫn dạy ở bộ môn Tiếng Anh hay các sáng kiến kinh nghiệm khác.
Tuy nhiên làm thế nào để áp dụng các thủ thuật đó một cách có hiệu quả thì đòi
hỏi giáo viên phải biết cách chọn lọc và tổ chức thực hiện các thủ thuật ấy một
cách hiệu quả, linh hoạt. Có thủ thuật phù hợp với bài dạy này nhưng lại không
phù hợp đối với bài học khác. Tuy nhiên để áp dụng vào thực tế cho phù hợp và
sinh động hiệu quả cao thì còn tuỳ thuộc vào phương tiện giảng dạy của từng tiết
học cũng như sự linh hoạt của giáo viên để biến mỗi hoạt động ôn tập và kiểm tra
thành trò chơi lý thú để lôi cuốn học sinh gây cho các em sự hứng thú học tập và

nhớ lâu hơn. Các trò chơi sẽ hấp dẫn hơn nếu giáo viên dạy có sử dụng trình chiếu
Powerpoint. Đối với các tiết dạy truyền thống thì giáo viên cần chuẩn bị nhiều
hơn bằng các giáo cụ trực quan như bảng phụ, hình ảnh, mô hình ….

III. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP


a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Tiếng Anh là một ngôn ngữ, mà bản chất của ngôn ngữ là giao tiếp. Do đó khi
học tiếng Anh học sinh phải được tạo điều kiện để được giao tiếp nhiều nhất, giao
tiếp với nhiều người nhất. Do điều kiện cơ sở vật chất, và thời lượng mỗi tiết dạy
nên giáo viên thường chỉ cho những học sinh ngồi gần nhau tạo thành một nhóm
trong suốt quá trình học. Nhưng theo tôi, tuỳ thuộc vào nội dung học tập, tính chất
của nội dung học tập, mức độ khó, dễ của các nhiệm vụ học tập và trình độ của
đối tượng học sinh mà có các cách chia nhóm nhỏ khác nhau.
Thông thường có một số cách chia nhóm, đó là :
Chia ngẫu nhiên
Chia thành nhóm cùng trình độ
Chia thành nhóm gồm đủ trình độ
Chia nhóm theo sở trường
Chia nhóm nhỏ trong các buổi Xêmina
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Bước 1: Chia nhóm
Có thể chia nhóm ngẫu nhiên hay chia nhóm chủ định, phụ thuộc vào mục đích
của việc hoạt động nhóm.
Khi chia nhóm cần lưu ý :
Số lượng thành viên trong mỗi nhóm phụ thuộc vào :
+ Nhiệm vụ bài học cũng như các thiết bị phục vụ cho hoạt động nhóm.
+ Thời gian hoạt động nhóm nhỏ : Thời gian ít nhóm nhỏ sẽ có hiệu quả hơn
nhóm lớn vì trong nhóm nhỏ trách nhiệm cá nhân cao hơn, mất ít thời gian khi

di chuyển. (Theo kinh nghiệm của các chuyên gia phương pháp dạy học thì
nhóm nhỏ có từ 2 đến 6 học sinh là hiệu quả nhất).
Học sinh phải chủ động hình thành nhóm học tập khẩn trương theo sự phân
chia của giáo viên.
Bước 2 : Giao nhiệm vụ
Nhiệm vụ của từng nhóm cần được giao cụ thể. Xác định rõ mục tiêu về kiến
thức và kỹ năng mà các nhóm cần đạt được. Tốt nhất giáo viên nên giao việc bằng
phiếu học tập. Phiếu giao việc phải rõ ràng, có thể sử dụng cả 2 dạng câu hỏi :
Câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nếu không có phiếu sẵn giáo viên cần viết rõ ràng
yêu cầu làm việc trên bảng.
Quy định thời gian làm việc nhóm.
Giáo viên dự tính thời gian hoạt động nhóm cho thích hợp, đủ để học sinh di
chuyển và thảo luận.
Yêu cầu về cách thức làm việc theo nhóm.
Yêu cầu về cách thể hiện kết quả : Viết, vẽ, sắm vai...
Giáo viên có thể hỏi xem học sinh đã hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm mình chưa.
Về phía học sinh :
+ Sau khi nhận nhiệm vụ, các nhóm học sinh cần tích cực chủ động nghiên
cứu, tìm tòi để lập dàn ý trả lời.


+ Phải xác định nội dung trả lời, dựa vào thông tin nào trong sách giáo khoa
hay các phương tiện khác : tranh ảnh, tài liệu bổ sung...
Bước 3 : Làm việc trong nhóm
Giáo viên phân công công việc cho từng thành viên, nhóm đầy đủ thường có
các vai :
Người giữ thời gian có nhiệm vụ báo cáo cho cả nhóm biết bao nhiêu thời gian
đã trôi qua, để điều chỉnh thời gian cho hợp lý với nhiệm vụ được giao.
Thư kí có nhiệm vụ ghi chép lại những câu trả lời hoặc ghi vắn tắt ý chính của
cuộc thảo luận. Trước khi ghi thư kí phải đảm bảo rằng tất cả các thành viên trong

nhóm đều đã đồng ý.
Người động viên có nhiệm vụ khuyến khích và nhắc nhở tất cả các thành viên
trong nhóm tham gia đóng góp ý kiến cho buổi thảo luận, có thể hỏi họ đang nghĩ
gì, thậm chí nhắc nhở một cách khéo léo “Chúng tôi chưa được nghe ý kiến của
bạn”
Người kiểm tra phải đảm bảo rằng tất cả các thành viên đã hiểu và đồng ý với
những vấn đề mà cả nhóm đang bàn bạc. Phải lưu ý là không được phép bỏ qua
những dấu hiệu, ngôn ngữ mà mọi người dễ bị nhầm lẫn hoặc có thắc mắc, có thể
yêu cầu ai đó giải thích rõ ý kiến của họ.
Người tóm tắt có nhiệm vụ tóm lược những gì đang được thảo luận, phải đảm
bảo rằng các thành viên đều đồng ý với các ý kiến đã nhất trí.
Người báo cáo có nhiệm vụ thông báo hay truyền đạt lại cho toàn lớp kết quả
làm việc của nhóm. Họ có thể thay mặt nhóm giải thích, làm rõ những câu hỏi của
mọi người về công việc mà nhóm đã làm.
Người đảm bảo những công việc về động não. Họ có nhiệm vụ nhắc nhở các
thành viên không được thảo luận trong khi động não.
Người quan sát nhận xét hoạt động nhóm có trách nhiệm quan sát mọi hành vi
của các thành viên trong nhóm.
Đối với thực tế hoạt động nhóm, trong điều kiện cơ sở vật chất (bàn ghế cố
định, lớp học đông...) thường chia nhóm 4-6 người, trong đó có nhóm trưởng điều
khiển cuộc thảo luận. Thư kí ghi chép ý kiến các thành viên trong nhóm. Có thể
một thành viên kiêm nhiệm từ 1-3 nhiệm vụ.
Các nhóm triển khai công việc
Mục tiêu thứ 1 : Động não
Tiến hành làm việc chung cả lớp : Trong bước này giáo viên cần :
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức cho học sinh.
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ và định lượng thời gian cho mỗi công việc.
- Hướng dẫn cách làm việc cho mỗi nhóm.
Mục tiêu thứ 2 : Làm việc theo nhóm
- Trao đổi thảo luận trong nhóm hoặc phân công từng cá nhân trong nhóm làm

việc độc lập rồi trao đổi.
- Trình bày kết quả làm việc của nhóm : Có thể cử đại diện hoặc luân phiên
nhau để phát huy hiệu quả đối với mỗi thành viên của nhóm. Trong khi các nhóm
làm việc, giáo viên theo dõi điều chỉnh, đi lại giữa các nhóm để nắm bắt tình hình,


động viên khuyến khích. Giáo viên cũng đóng vai trò hướng dẫn cách khai thác,
xử lý thông tin.
Mục tiêu 3 : Tiến hành thảo luận và đi đến thống nhất, tổng kết trước lớp.
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung : giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện, nhận xét, bổ sung
đánh giá hoặc sửa chữa những thiếu sót của nhóm bạn để rút kinh nghiệm và hoàn
thiện kiến thức.
- Giáo viên tổng kết và nêu vấn đề mới.
Tổ chức nhóm và đặc điểm mỗi nhóm :
- Làm việc theo cặp 2 học sinh: Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh. Hai học
sinh ngồi cạnh nhau cùng thảo luận, trao đổi thông tin để giải quyết tình huống
giáo viên đưa ra. Trong quá trình đó, học sinh sẽ thu nhận kiến thức một cách tích
cực.
- Làm việc theo nhóm 4-6 học sinh :
+ Chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ (4-6 học sinh song nên tổ chức nhóm 4 sẽ
thuận lợi hơn về khoảng cách không gian, tiện trao đổi, thảo luận, tăng cường
độ làm việc của học sinh)
+ Để các nhóm trao đổi, thảo luận các bài tập mà giáo viên giao.
- Ghép nhóm: Tổ chức các nhóm có tính luân chuyển :
Thứ nhất :
+ Chia lớp thành các nhóm nhỏ 4-6 học sinh (Đặt tên cho mỗi nhóm)
+ Mỗi nhóm thảo luận và giải quyết vấn đề của bài học.
Thứ hai :
+ Tổ chức các nhóm mới. Mỗi nhóm mới chỉ chứa một thành viên của mỗi

nhóm ban đầu (các thành viên nhóm mới mang một tên mới).
+ Mỗi cá nhân trong nhóm mới sẽ đem kiến thức của mình vừa khám phá
lắp ghép với nhau để thành thông tin hoàn chỉnh.
Phương pháp này rất hiệu quả đối với các bài dài, có nhiều nội dung kiến thức,
nhiều tình huống cần giải quyết. Nó còn giúp cho mọi học sinh tham gia hoạt
động học tập, làm tăng sự tự tin, khả năng tự học chủ động, sáng tạo, năng lực tư
duy cho học sinh.
Bước 4 : Báo cáo kết quả
Đại diện các nhóm trình bày kết quả. Cách trình bày phổ biến nhất là các nhóm
viết hoặc minh hoạ bằng hình vẽ kết quả của nhóm trên giấy khổ rộng hoặc trên
giấy trong và dùng máy chiếu hắt (Over head)
Các nhóm có thể lựa chọn các cách trình bày sau đây thay cho thuyết trình :
+ Phương pháp thị trường
Các nhóm trình bày trên giấy khổ rộng, bảng ghim và trưng bày trong phòng
học. Lớp học giống như một thị trường thông tin, các học viên sẽ đi xem xét kết
quả của từng nhóm, nghe họ giải thích và có thể đặt câu hỏi để họ trả lời, làm rõ.
Giáo viên có thể đóng góp ý kiến của mình vào kết quả làm việc của từng nhóm.
+ Phương pháp hội chợ


Các nhóm không lần lượt trình bày mà chỉ trưng bày kết quả của mình tại một
ví trí đã lựa chọn trong phòng. Một đến hai người ở lại nơi trưng bày kết quả của
nhóm, còn những người khác đi lại giới thiệu về nhóm mình hoặc có thể trao đổi
với bất cứ ai, bất cứ nhóm nào giống như một hội chợ.
+ Phương pháp triển lãm
Các nhóm vẫn lần lượt trình bày kết quả nhưng tiếp sau đó các học sinh tự do
đi lại, quan sát kết quả của nhóm khác và có thể thảo luận với các thành viên của
nhóm giống như các nghệ sĩ trong buổi triển lãm.
Học sinh có thể minh hoạ kết quả thảo luận bằng hình vẽ hoặc đóng vai
Bước 5 : Tổng kết

Học sinh có thể tự tổng kết hoặc giáo viên tổng kết và đưa ra thông tin phản
hồi để rút ra kiến thức.
c. Điều kiện thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
1. Thu thập thông tin về người học
Tìm hiểu khả năng và nhu cầu của người học : Dự đoán xem người học đã có
những kiến thức và kỹ năng gì liên quan đến bài học. Họ có mong muốn gì khi
học nội dung này.
2. Lựa chọn mục tiêu kiến thức, kỹ năng cần đạt được khi hoạt động nhóm
3. Quyết định
- Số lượng học sinh mỗi nhóm, thành lập nhóm ngẫu nhiên hay chủ định
- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng
- Sắp xếp phòng học, bố trí chỗ học cho từng nhóm
- Chỉ định vai trò từng nhóm, từng thành viên trong nhóm
4. Giám sát can thiệp
Hỗ trợ để hoàn thành công việc
Giám sát hành vi của học sinh
Can thiệp : Đôi khi phải tạm dừng hoạt động của nhóm để hướng dẫn lại hoặc
hỏi học sinh nên làm thế nào.
5. Đánh giá hoạt động nhóm
Đánh giá ý thức làm việc của các nhóm
Đánh giá kết quả làm việc
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Dạy học bằng phương pháp hợp tác nhóm không phải giáo viên yêu cầu học
sinh làm việc còn mình được rảnh rang. Không phải cứ chia lớp thành các nhóm
nhỏ là dạy học theo phương pháp hợp tác nhóm. Hiệu quả của hoạt động nhóm
phụ thuộc rất nhiều vào khâu chuẩn bị của giáo viên. Giáo viên không chỉ phải
chuẩn bị về cơ sở vật chất mà cần phải có một kiến thức rộng và liên quan đến
vấn đề tổ chức thảo luận, có vậy mới hướng dẫn học sinh hoạt động tốt.
Cần tạo cho người học có tâm thế khi thảo luận nhóm. Để làm tốt điều này
giáo viên cần phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi chọn chủ đề, luôn tự đặt câu hỏi :

Nếu lựa chọn phương pháp hợp tác nhóm, để giải quyết vấn đề này thì có lợi gì so
với phương pháp khác ? Chỉ tiến hành hoạt động nhóm khi vấn đề giáo viên đặt ra
cần có sự hợp tác của học sinh mới giải quyết được.


Không nên thất vọng nếu một vài lần đầu giáo viên áp dụng phương pháp này
mà cảm thấy chưa thoả đáng, hãy tự rút ra kinh nghiệm và làm lại nhiều lần vì
hoạt động nhóm chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi các học sinh đã hình thành được
các kỹ năng hợp tác nhóm.
Nếu lớp học quá đông và chật, giáo viên nên sử dụng các nhóm nhỏ (rì rầm)
giữa các em cùng bàn hoặc các em ở hai bàn kế tiếp nhau nhưng chú ý nên cố
định các thành viên trong cùng nhóm.
Trong điều kiện nhà trường hiện nay, lớp học có số lượng học sinh đông, bàn
ghế tương đối cố định... Có thể vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm
nhỏ như sau :
- Nhóm rì rầm : 2-3 học sinh ngồi cùng bàn thảo luận, để giải quyết câu hỏi,
bài tập do giáo viên nêu ra.
- Nhóm nhỏ 4-6 học sinh giải quyết câu hỏi, bài tập do giáo viên
Giáo viên có thể chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ theo hai cách :
Cách 1: Tất cả các nhóm trong lớp cùng làm một nội dung. Sau khi các nhóm
báo cáo kết quả, cả lớp thảo luận. Cách này có ưu điểm huy động hoạt động của
các nhóm nhưng chỉ phù hợp với những bài có nội dung kiến thức ngắn gọn, vì
tốn thời gian.
Cách 2: Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm (hoặc một số
nhóm) nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Các nhóm khác và giáo viên bổ sung để
đưa ra kết luận cuối cùng. Cách này phù hợp với những bài nội dung dài, nội dung
của các vấn đề trong bài thường tương tác độc lập.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
1. Điều kiện đối với giáo viên
a) Thay đổi căn bản trong nhận thức của giáo viên

Một động lực cực kì quan trọng đối với việc đổi mới phương pháp dạy học
tiếng Anh là hiện nay đại đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng và ý
nghĩa sống còn của việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh. Hầu như không
còn giáo viên nào còn hoài nghi về sự cần thiết của việc áp dụng các phương pháp
dạy học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học hợp tác nhóm) trong dạy học
tiếng Anh. Họ hiểu rằng sau khi đổi mới mục tiêu nội dung chương trình và sách
giáo khoa thì đổi mới phương pháp dạy học là nhân tố quan trọng nhất, quyết
định đến việc thành bại của quá trình đổi mới, bởi vì có mục tiêu, có chương trình
và sách giáo khoa mới, nhưng việc dạy và học vẫn tiến hành theo kiểu cũ thì
không thể nói đến nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học tiếng Anh và tất nhiên
cũng không thể nói đến nâng cao vai trò và vị thế của môn tiếng Anh.
Trong số những nhân tố đã góp phần quan trọng tạo nên những thay đổi trong
nhận thức của giáo viên trước hết phải kể đến hiệu quả của chương trình bồi
dưỡng, huấn luyện giáo viên phục vụ cho cải cách giáo dục tiếng Anh do Bộ giáo
dục và Đào tạo và các Sở giáo dục tiến hành trong nhiều năm qua. Chương trình
này chẳng những đã góp phần đáng kể nâng cao nhận thức và trình độ lí luận dạy
học cho giáo viên mà còn có tác dụng tăng cường năng lực thực thi các phương


pháp dạy học hiện đại (trong đó có phương pháp dạy học hợp tác nhóm) của giáo
viên trong dạy môn tiếng Anh.
b) Giáo viên phải khẳng định vai trò, chức năng mới của người thầy trong quá
trình dạy học
Cụ thể là :
- Người thầy phải là người tổ chức, chỉ đạo, điều khiển các hoạt động học tập
tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh. Người thầy sẽ không còn là người
phát thông tin duy nhất, không phải là người hoạt động chủ yếu ở trên lớp như
trước đây mà sẽ là người tổ chức và điều khiển quá trình học tập của học sinh.
- Với tư cách là người tổ chức, chỉ đạo điều khiển quá trình học tập của học
sinh, người thầy cần phải đảm nhiệm và thực hiện tốt các chức năng sau đây :

+ Thiết kế tức là lập kế hoạch cho quá trình dạy học về cả mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học. Người giáo viên cần xuất
phát từ mục đích và nội dung của bài học mà thiết kế ra những tình huống
thích hợp để học sinh chiếm lĩnh nó thông qua hoạt động học tập tích cực, tự
giác sáng tạo theo hướng độc lập hoặc hợp tác, giao lưu.
+ Uỷ thác tức là thông qua đặt vấn đề nhận thức, tạo động cơ hứng thú người
thầy biến ý đồ dạy của mình thành nhiệm vụ học tập tự nguyện, tự giác của trò
và chuyển giao cho trò những tình huống để trò hoạt động và thích nghi.
+ Điều khiển quá trình hoạt động học tập của học sinh trên cơ sở thực hiện mội
hệ thống mệnh lệnh, chỉ dẫn, trợ giúp, đánh giá (Bao gồm cả sự động viên).
+ Thể chế hoá tức là xác nhận, định vị kiến thức mới trong hệ thống tri thức đã
có, đồng nhất hoá kiến thức riêng lẻ của học sinh thành tri thức khoa học xã
hội, hướng dẫn vận dụng và ghi nhớ.
Mô hình về dạy học theo quan điểm đổi mới được thể hiện như sau :
Chất
Chất lượng,
lượng, hiệu
hiệu quả
quả dạy
dạy và
và học
học

-Thiết
-Thiết kế
kế
THẦY
THẦY

Tổ

Tổ
chức,
chức,
chỉ
chỉ
đạo
đạo
quá
quá
trình
trình
nhận
nhận
thức
thức

-Uỷ
-Uỷ thác
thác
-Điều
-Điều khiển
khiển
-Thể
-Thể chế
chế
hoá
hoá

-Động
-Động cơ,

cơ,
hứng
hứng thú,
thú, lạc
lạc
quan
quan
-Tích
-Tích cực,
cực, tự
tự
giác,
giác, sáng
sáng tạo,
tạo,
hoạt
hoạt động
động
-Tự
đánh
-Tự đánh giá,
giá,
tự
điều
chỉnh
tự điều chỉnh

c) Vai trò giáo viên khi tổ chức hoạt động nhóm
*Thu thập thông tin về người học


Chủ
Chủ
thể
thể
nhận
nhận
thức
thức

TR
TR
Ò
Ò


Giáo viên tìm hiểu khả năng và nhu cầu của người học : Dự đoán người học đã
có những kiến thức và kỹ năng gì liên quan tới bài học. Họ có mong muốn gì khi
học nội dung này.
* Lựa chọn mục tiêu kiến thức, kỹ năng cần đạt được khi hoạt động nhóm
- Giáo viên phải nắm được những hiểu biết, những vấn đề cốt lõi của bài học
thông qua nghiên cứu của mình, giáo viên cần chọn nội dung thích hợp cho
học sinh học nhóm. Từ đó giáo viên sẽ giúp học sinh có tâm thế sẵn sàng bước
vào học nhóm.
- Giáo viên phải nắm rõ kiến thức, kỹ năng và đặc biệt phải có năng lực sư
phạm, có khả năng chuẩn bị chu đáo cho kế hoạch cụ thể.
* Quyết định
- Số lượng học sinh mỗi nhóm, thành lập nhóm ngẫu nhiên hay chủ định.
- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng.
- Sắp xếp phòng học, bố trí chỗ học cho từng nhóm .
- Chỉ định vai trò từng nhóm, từng thành viên trong nhóm .

* Giám sát can thiệp
- Hỗ trợ để hoàn thành công việc.
- Giám sát hành vi của học sinh.
Nguời giáo viên, khéo léo trong vai trò trọng tài của mình giúp học sinh suy
nghĩ chủ động hơn chứ không phải để họ chấp nhận ý kiến của mình một cách thụ
động khi học sinh coi mọi lời nói của giáo viên đều đúng.
Hoạt động dạy học hợp tác nhóm chỉ đạt hiệu quả cao nếu như giáo viên:
+ Giúp học sinh hiểu được tầm quan trọng của hoạt động nhóm trong học tập.
+ Giúp học sinh mong muốn được nói về suy nghĩ của mình, lắng nghe và
hưởng ứng ý kiến của bạn cùng nhóm.
+ Nắm chắc quy trình và kế hoạch hoạt động.
+ Biết dựa vào ý kiến của người khác để tăng cường động cơ học tập.
+ Có khả năng đánh giá, điều chỉnh.
+ Có khả năng nhạy cảm với ý kiến của các thành viên khác và nhóm khác.
- Can thiệp : Đôi khi giáo viên phải tạm dừng hoạt động của nhóm để hướng
dẫn lại hoặc hỏi học sinh nên làm như thế nào?
Muốn nhóm hoạt động có hiệu quả thì giáo viên cần :
+ Đảm bảo cho mọi người đều đóng góp vào nhiệm vụ được giao.
+ Không nên vội đi đến kết luận, cần cân nhắc cả những ý kiến nhỏ.
+ Nên thận trọng trước sự nhất trí của mọi thành viên.
+ Đặt mục tiêu trước mắt, tạm thời và lâu dài, nếu cần nên thay đổi.
+ Phân công rõ ràng nhiệm vụ sao cho mọi thành viên trong nhóm đều hiểu
nhiệm vụ của mình là gì và biết thời hạn hoàn thành.
+ Trước khi kết thúc hoạt động cần đánh giá ý thức làm việc của các nhóm và
định hình công việc tiếp theo.
* Đánh giá hoạt động nhóm
Đánh giá ý thức làm việc của các nhóm.
Đánh giá kết quả làm việc.



2. Yêu cầu đối với học sinh
Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh ở bậc tiểu học đã có những thay đổi về chất.
Trên cơ sở năng lực quan sát sâu sắc, nhạy bén hơn và khả năng tư duy trừu tượng
cao hơn, đặc biệt là các em đã bước đầu có khả năng phân tích, tổng hợp so sánh,
trừu tượng hoá, khái quát hoá, các em ở lứa tuổi này không thích chấp nhận một
cách đơn giản những áp đặt của giáo viên. Các em thích tranh luận, thích bày tỏ
những ý kiến riêng biệt của cá nhân mình về những vấn đề được đặt ra. Đây là
một thuận lợi cơ bản mà giáo viên cần khai thác triệt để khi tiến hành đổi mới
phương pháp dạy học tiếng Anh, trong đó có thực hiện phương pháp dạy học hợp
tác nhóm nhỏ. Trong quá tổ chức dạy học hãy tạo cho học sinh một vị thế mới và
những tiền đề, những điều kiện thuận lợi để hoạt động. Cụ thể là :
- Người học phải trở thành chủ thể hành động, tích cực, tự giác, chủ động và
sáng tạo trong hoạt động để kiến tạo kiến thức. Người học cần phải thực sự hoạt
động để đạt được không chỉ những tri thức và kỹ năng của bộ môn mà quan trọng
hơn là tiếp thu được cách học, cách tự học.
- Tạo ra và duy trì ở học sinh những động lực học tập mạnh mẽ. Đó là động cơ,
hứng thú, niềm lạc quan của học sinh trong quá trình học tập. Những nhân tố này
chính là động lực thúc đẩy mạnh mẽ học sinh tích cực, tự giác, chủ động và sáng
tạo trong hoạt động hợp tác nhóm.
- Phát triển ở học sinh khả năng tự đánh giá kết quả hoạt động của mình để
trên cơ sở đó bản thân học sinh có thể điều chỉnh các hoạt động của mình theo các
mục tiêu đã định.
3. Yêu cầu đối với cơ sở vật chất
Để việc dạy và học tiếng Anh nói chung cũng như áp dụng thành công có hiệu
quả phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, thì việc tăng cường về cơ sở
vật chất kỹ thuật cho dạy và học tiếng Anh là một vấn đề cấp thiết. So với thập kỷ
trước đây điều kiện vật chất cho việc dạy học tiếng Anh ở các trường nói chung
và các trường tiểu học nói riêng đã được cải thiện một cách đáng kể. Trong các
giờ học tiếng Anh học sinh trong lớp đều có sách giáo khoa. Tại một số trường
nhiều giáo viên đã sử dụng các băng hình trong các giờ học ở trên lớp và thiết kế

bài học, trình diễn bài giảng trên lớp với sự trợ giúp của POWER-POINT. Một số
trường đã được đầu tư phòng học tiếng riêng có phòng LAP, có máy tính, máy
chiếu, băng đĩa, đài phục vụ cho việc dạy và học.
Ngoài yêu cầu chính cho một giờ dạy học tiếng Anh nói chung kể trên còn có các
yêu cầu quan trọng khác cho hoạt động dạy học hợp tác nhóm trên lớp như sau :
- Về kích thước phòng học: Không quá chật, cũng không quá rộng, phòng học
phải có diện tích hợp lý sao cho giáo viên có thể quan sát được sự làm việc tất cả
các nhóm. Nếu phòng học quá chật sẽ rất khó khăn cho việc chia nhóm, các nhóm
có thể mất trật tự, hiệu quả làm việc không cao.
- Bàn ghế trong lớp cơ động, có thể kê được các bàn liền kề với nhau hoặc hai
bàn quay mặt vào nhau.
- Phiếu học tập (do giáo viên chuẩn bị)
- Máy chiếu và bản trong hoặc máy chiếu đa năng PROJECTER (Nếu có)


IV. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ
KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Qua quá trình áp dụng phương pháp kể trên tôi nhận thấy là học sinh ham
học hơn, linh hoạt hơn trong luyện tập, biết cách học bài và làm bài một cách
hiệu quả, học sinh hứng thú hơn với giờ học, môn học, giờ học sôi nổi hơn, chất
lượng giờ học cũng nhờ đó mà tăng lên rất nhiều.
- Có em, do nắm vững đặc điểm của bài học nên cách lý giải phù hợp, được
nhiều học sinh trong lớp đồng tình thông qua việc giáo viên lấy ý kiến đóng góp
của học sinh.
- Có em còn có những cách kiến giải rất non nớt, thiếu căn cứ song số này
không nhiều. Căn cứ vào cách thảo luận như thế học sinh đã tự bổ sung cho mình
những điều còn thiếu trong nhận thức, tích cực suy nghĩ, tìm tòi, lý giải vấn đề tạo
được sự hứng thú.
- Giáo viên làm việc bớt căng thẳng, bớt đi những lời thuyết giảng
- Không khí lớp học sôi nổi hơn.

Trên đây là một vài kết quả trong quá trình vận dụng phương pháp dạy học
hợp tác theo nhóm trong việc giảng dạy môn Tiếng Anh. Tuy nhiên trong quá
trình vận dụng, tôi nhận thấy việc vận dụng phương pháp này vào dạy và học vẫn
còn một số hạn chế sau:
* Hạn chế :
+ Sự hợp tác chưa triệt để, chưa phát huy cao được hiệu quả của phương pháp.
+ Hình thức tổ chức chưa được phong phú
* Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự vận dụng
+ Cần kiên trì vận dụng phương pháp dạy học tích cực kết hợp với các
phương pháp truyền thống
+ Dành thời gian đọc bài và các tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học
tích cực để lựa chọn vấn đề tổ chức thảo luận nhóm cho phù hợp
+ Xây dựng các câu hỏi thảo luận theo trình tự từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp
+ Tạo môi trường học tập thân thiện, cởi mở để học sinh chủ động, tích cực
hợp tác học tập
+ Làm cho các em hiểu rõ tác dụng tích cực của phương pháp dạy học hợp tác
cả về lý thuyết và thực hành
Có như vậy người giáo viên mới có thể đạt được sự thành công trong việc đổi
mới phương pháp dạy học nhất là phương pháp dạy học hợp tác nhóm.

V. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Để có được những bài dạy tốt cuốn hút học sinh và có hiệu quả, để có được
phương pháp và kết quả như trên, ngoài việc sử dụng sách giáo viên, sách tham


khảo…thì trong quá trình dạy học và sau mỗi giờ dạy tôi tự luận lại các tiến trình
trong phương pháp truyền đạt của mình có những điểm nào tốt và tâm đắc, những
điểm nào chưa thực như ý để từ đó rút ra kinh nghiệm cho mình. Đồng thời

thường xuyên dự giờ học hỏi những điều hay ở đồng nghiệp, nhờ đồng nghiệp dự
giờ và góp ý cho mình. Tích cực nghiên cứu tài liệu có liên quan về lĩnh vực ngôn
ngữ đặc biệt là Tiếng Anh.
Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ chức đoàn động viên, lôi cuốn các em
vào các hoạt động tích cực trong học tập, xây dựng ý thức tự học cho học sinh.
Vấn đề cuối cùng mà tôi muốn chia sẻ ở đây là trong công tác giảng dạy tôi
luôn thực hiện tốt các nguyên tắc:
+ Chuẩn bị bài dạy chu đáo trước giờ lên lớp.
+ Phân bố thời gian của tiết dạy phù hợp.
+ Chủ động trong giờ dạy.
+ Có tầm quan sát học sinh trong lớp tốt.
+ Khuyến khích học sinh trong quá trình học.
+ Kiểm tra sự hiểu bài của học sinh trong phần “Further Practice”.
+ Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà sau mỗi tiết học.
Trên đây là một số phương pháp cũng như những suy nghĩ của tôi trong quá
trình dạy tiếng Anh ở bậc tiểu học. Tôi xin mạnh dạn nêu ra đây để góp phần nâng
cao hiệu quả dạy và học tiếng Anh trong trường phổ thông đặc biệt là bậc tiểu
học. Rất mong quý đồng nghiệp bổ sung thêm để cho đề tài này ngày càng phong
phú và hiệu quả hơn.
Về bản thân, tôi xin được chân thành cảm ơn với những sự góp ý nhiệt tình
và sẽ không ngừng học hỏi tìm tòi thêm các phương pháp mới để có nhiều kết quả
dạy tốt hơn nữa.
2.KIẾN NGHỊ.
- Để việc đổi mới phương pháp dạy học đạt hiệu quả cần có sự phối hợp chặt
chẽ và sự quan tâm chỉ đạo sát sao hiệu quả của các cấp lãnh đạo.
- Nhanh chóng ổn định chương trình, thời lượng hợp lý cho việc dạy – học.
- Thay đổi tư duy trong giáo viên và lãnh đạo về việc quản lý giờ học của giáo
viên tạo một môi trường dạy và học tích cực “Ồn ào học tập” chứ không phải là
ồn ào do ý thức kém.
- Phải được trang bị cơ sở vật chất : có phòng học tiếng riêng, đài, băng đĩa,

tranh ảnh, máy chiếu, máy tính xách tay, sách vở tài liệu cho giáo viên…
- Số tiết trên tuần đối với một giáo viên không quá 15 tiết trên tuần để có thời
gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy.
- Được tập huấn phương pháp mới để giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Trên đây là một vài ý kết quả bước đầu trong quá trình vận dung phương pháp
dạy học hợp tác trong môn Tiếng Anh. Tôi tự nhận thấy bản thân đã nắm vững


yêu cầu cũng như phương pháp đổi mới dạy học, tâm đắc với phương pháp dạy
học hợp tác và đã thực hiện trong các giờ dạy của mình. Tuy nhiên không khỏi có
những lúng túng, hạn chế. Rất mong sự đóng góp ý kiến xây dựng của cơ quan
quản lý và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi áp dụng ngày một hiệu quả hơn !
Ngày tháng năm 2015
Người viết sáng kiến

Ngô Thị Kim Oanh


CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Practical handbook of language teaching (David Cross)
2. A course in language teaching - Practical and Theory (Penny Ur)
Cambrige university press
3. Giáo trình giáo học pháp (Tổ ngoại ngữ – Khoa ngôn ngữ và văn hóa Anh Mĩ - Úc – Trường đại học quốc gia Hà Nội)
4. Phương pháp dạy tiếng Anh Tiểu học
5. Phương pháp dạy tiếng Anh tiểu học (Chương trình bồi dưỡng giáo viên
của Bộ Giáo dục và Đào tạo 2010-2011 – Đại học Quốc gia Hà Nội)
6. ELTTP me Thodologg Caurse (Oxford University Puss-Auen.V.F)
7. Sổ tay người dạy Tiếng Anh (Tác giả: Phan Hà, Tứ Anh, Mai Vi Phương,
Hồ Tấn)



ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO
DỤC
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………



MỤC LỤC

I. Lý do chọn đề tài…………………………………………...…01
II. Nội dung ……………………………………..…………. . .03
1. Cơ sở lý luận …………………………………....……………….03
2. Thực trạng…………………………………....…………....….....03
III. Các giải pháp và biện pháp …………….…………...….…...06
IV. Hiệu quả đạt được.................................................................13
V. Kết luận ……………………………………...……………......…..15
Tài liệu tham khảo………………………...…………........….…16
Nhận xét của hội đồng khoa học……....………….............…...17
Mục lục....................................................................................18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×