Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận tự do thương mại hàng hóa trong cộng đồng kinh tế asean (AEC) nhóm 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.96 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


1. MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới và chi phối các quan
hệ kinh tế quốc tế, trong đó tự do hóa thương mại là một mũi nhọn. Khi các liên kết kinh tế quốc tế
bắt đầu được phát triển từ cuối thập kỉ 80, làn sóng tự do hóa thương mại đã được lan rộng trên
phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Ngày 1/1/2005, Tổ chức thương mại Thế giới WTO ra đời với mục đích chính là loại bỏ hay
giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại, đây là dấu mốc quan trọng trong sự
phát triển của tự do thương mại trên toàn Thế giới. Do vậy, ASEAN cũng không thể nằm ngoài sự
phát triển đó khi tiến hành tự do hóa thương mại trong một trụ cột quan trọng của mình - Cộng đồng
kinh tế ASEAN. Bên cạnh những lĩnh vực như đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ,… thì thương mại
hàng hóa là một lĩnh vực vô cùng quan trọng trong tiến trình tự do hóa. Với các biện pháp hiệu quả,
mềm dẻo, cụ thể tập trung vào các hàng rào thuế quan và các biện pháp thuận lợi hóa thương mại
hàng hóa sẽ sớm hiện thực hóa những cam kết của các nước, thúc đẩy tự do hóa thương mại nói
chung, sau cùng thực hiện được chế độ thương mại tự do. Thành tựu to lớn mà tiến trình tự do hóa
thương mại hàng hóa đã, đang và sẽ mang lại có tác động to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, tạo
ra một thị trường rộng lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
Đó cũng chính là lý do nhóm 21 chúng em quyết định chọn đề tài :”Tự do hóa thương mại
hàng hóa trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)”. Với trình độ cũng như tầm hiểu biết còn nhiều
hạn chế, chúng em rất mong nhận được sự hướng dẫn, đóng góp của cô cho bài tiểu luận của chúng
em. Và chúng em cảm ơn cô trong thời gian qua đã hướng dẫn và giúp đỡ chúng em tận tình để
hoàn thành bài tiểu luận!

2


2. KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)


2.1. Quá trình thành lập AEC.
Tháng 11 năm 2007, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Hiến chương ASEAN và thông qua Lộ
trình tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá
trình xây dựng AEC.Lộ trình tổng thể xây dựng AEC đang tiến triển thuận lợi. ASEAN đã

tiến

hành xóa bỏ thuế quan và triển khai các thỏa thuận thương mại tự do với các đối tác thương mại lớn
kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2010.

-

2.2. Mục tiêu của cộng đồng kinh tế AEC.
2.2.1. Tạo dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhât.
AEC hỗ trợ hội nhập kinh tế của các khu vực kinh tế ưu tiên, đồng thời cho phép tự do chu chuyển

-

các nguồn nhân lực có trình độ, tài năng trong kinh doanh.
Hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ từng bước được xóa bỏ. Các nhà đầu tư ASEAN sẽ được tự
do đầu tư vào tất cả các lĩnh vực trong khu vực, các lao động có tay nghe cao, các chuyên gia sẽ
được luân chuyển tự do trong khu vực. Những thủ tục hải quan và thương mại khi đã được tiêu

-

chuẩn hóa hài hòa và đơn giản hơn sẽ góp phần làm giảm chi phí giao dịch.
Thị trường hàng hóa và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực,
nâng cao năng lực của ASEAN là 1 trung tâm sản xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đáp ứng chuỗi

-


cung ứng toàn cầu.
Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất sẽ mang lại lợi ích cho các ngành công nghiệp ưu tiên tham
gia hội nhập: nông nghiệp, hàng không, oto, điện tử, cao su, dệt may,...
2.2.2. Khu vực kinh tế cạnh tranh
Cộng đồng kinh tế ASEAN hướng tới mục tiêu tạo dựng một khu vực kinh tế có năng lực
cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, theo đó khu vực này sẽ ưu tiên 6 yếu tố chủ chốt là: chính
sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống
thuế khóa và thương mại điện tử. ASEAN cam kết thúc đẩy văn hóa cạnh tranh công bằng thông
qua việc ban hành các chính sách và luật cạnh tranh, đảm bảo sân chơi bình đẳng trong ASEAN và
hiệu quả kinh tế khu vực ngày càng cao.
2.2.3. Phát triển kinh tế công bằng
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực này bằng cách
lợi thế hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kĩ năng, phát triển nguồn nhân lực và công
nghệ.
2.2.4. Hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Các quốc gia thành viên ASEAN tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn cầu bằng việc nâng
cao năng suất và hiệu quả công nghiệp. AEC trở thành tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động
tham gia cùng các đối tác FTA ASEAN và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới kiến trúc
khu vực.
3


-

2.3. AEC - 1 trong 3 trụ cột trong cộng đồng ASEAN.
AEC là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra
trong Tầm nhìn ASEAN 2020, và được khẳng định lại trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Tuyên bố
Ba-li II): tạo dựng một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao, nơi có sự
di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự do hơn của các luồng vốn, phát triển


-

kinh tế đồng đều và giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về kinh tế - xã hội.
Thành tựu đáng kể nhất trong xây dựng AEC tới nay là ASEAN đã cơ bản giảm được thuế quan cho
các mặt hàng trong danh sách giảm thuế về từ 0 đến 5% từ năm 2010 đối với sáu nước thành viên
ban đầu và vào năm 2015 với bốn nước thành viên mới, hình thành nên một thị trường mở không
còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu
vực dựa trên nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN, có bổ sung thêm hai nội
dung mới là tự do di chuyển lao động và di chuyển vốn tự do hơn.
3. KHÁI QUÁT VỀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA TRONG CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN (AEC)
3.1. Khái niệm và bản chất của tự do hóa thương mại hàng hóa.
3.1.1. Khái niệm:
Tự do hóa thương mại được hiểu là quá trình dỡ bỏ dần dần phân biệt đối xử, các rào cản đối
với thương mại, chủ yếu là thuế quan và phi thuế quan và thực hiện các hoạt động thuận lợi hóa
thương mại, trước hết nhằm đạt được sự đối xử công bằng giữa hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong
nước với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài, giữa các nhà sản xuất trong nước với những
nhà sản xuất nước ngoài, và sau cùng là đạt được chế độ thương mại tự do.
3.1.2. Bản chất:
Thương mại hàng hóa (cùng với thương mại dịch vụ) là hoạt động chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong thương mại quốc tế. Bản chất của tự do hóa thương mại hàng hóa là thông qua các biện pháp
nhất định, hàng hóa nước ngoài có điều kiện thuận lợi để xâm nhập vào thị trường nội địa, đồng
thời hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài cũng được tiến hành dễ dàng hơn trên cơ sở đảm
bảo cân đối cán cân xuất khẩu, nhập khẩu của quốc gia đó.
3.2. Các biện pháp thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa trong AEC
Trong khuôn khổ ASEAN, trên cơ sở các công cụ pháp lý được hình thành xuyên suốt tiến
trình tự do hóa thuơng mại hàng hóa ở khu vực, các biện pháp thực hiện tự do hóa thương mại hàng
hóa của ASEAN có thể được chia thành hai nhóm biện pháp lớn, đó là: nhóm các biện pháp dỡ bỏ
các rào cản thương mại và nhóm các biện pháp thuận lợi hóa thương mại hàng hóa. Theo đó, tự do

hóa thương mại hàng hóa được thực hiện thông qua việc cắt giảm, xóa bỏ các rào cản thuế quan;
xóa bỏ các rào cản phi thuế quan; thiết lập quy tắc xuất xứ; tiến hành các biện pháp thuận lợi hóa

4


thương mại; hợp tác hải quan và hài hòa, nhất thể hóa hàng rào tiêu chuẩn và kỹ thuật trong thương
mại. Cụ thể:
3.2.1. Dỡ bỏ các rào cản thương mại
Thuế quan và các biện pháp phi thuế quan là các rào cản chính trong thương mại quốc tế.
3.2.1.1. Rào cản thuế quan
Trong đó, rào cản thuế quan là loại rào cản phổ biến nhất và mang tính chất truyền thống.
Thuế quan được hiểu là loại thuế đánh vào hàng hóa khi hàng hóa đó di chuyển từ lãnh thổ hải quan
này sang lãnh thổ hải quan khác, được xác định và phân loại trên cơ sở các mức thuế áp dụng đối
với hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu. Hiện nay, do loại hàng rào thuế quan có bản chất mâu thuẫn
với tiến trình tự do hóa thương mại nên có xu hướng dần được cắt giảm tiến tới xóa bỏ hoàn toàn
với lộ trình xác định. Trong phạm vi Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC tự do hóa thuế quan được
thực hiện trên cơ sở hai văn kiện pháp lý quan trọng là Hiệp định CEPT và Hiệp định ATIGA.
Ví dụ: Vào tháng 1 năm 2010, các quốc gia Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan (ASEAN-6) đã xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99.65% trong tổng số các
dòng thuế trong đó mức thuế 0% áp dụng cho 24.15% tổng số hàng hóa từ các ngành ưu tiên hội
nhập (PIS) như nông nghiệp, hàng không,.... Tương tự như vậy, Cambodia, Lào, Myanmar và Việt
Nam cũng cắt giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0-5% đối với 98.86% dòng thuế cho các loại hàng
hóa nói trên. ( />3.2.1.2. Rào cản phi thuế quan
Rào cản phi thuế quan được định nghĩa là: Các biện pháp ngoài biện pháp thuế quan cấm hoặc
hạn chế xuất nhập khẩu hàng hóa trong một quốc gia thành viên. Rào cản phi thuế quan chỉ bao
gồm một số các biện pháp phi thuế quan gây cản trở thương mại quốc tế mà không dựa trên cơ sở
khoa học, bình đẳng hoặc được đặt ra quá mức cần thiết và vi phạm nguyên tắc đối với quốc gia.
Rào cản phi thuế quan chủ yếu bao gồm hai bộ phận cơ bản, đó là: rào cản pháp lý (ví dụ: Các biện
pháp cấm, hạn ngạch về số lượng hoặc giá trị được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong một thời

kỳ nhất định; giấy phép xuất nhập khẩu) hoặc các rào cản kỹ thuật (ví dụ: các tiêu chuẩn kỹ thuật
trong thương mại như quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh…).
Việc nới lỏng các rào cản phi thuế quan có thể được thực hiện theo hai cách phổ biến. Trong
phạm vi Cộng đồng kinh tế ASEAN, Hiệp định CEPT và ATIGA đều quy định việc dỡ bỏ chung đối
với các hạn chế về số lượng. Các biện pháp phi thuế quan khác khi được xác định là rào cản thương
mại cũng được yêu cầu đưa vào chương trình xóa bỏ của quốc gia thành viên. Việc xóa bỏ dần các
rào cản phi thuế quan mặc dù rất phức tạp và khó khăn nhưng lại là điều kiện tiên quyết cho sự
thành công của tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa.
3.2.2. Thuận lợi hóa thương mại hàng hóa
5


Thuận lợi hóa thương mại hàng hóa bao gồm các biện pháp, chính sách và chương trình
nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi, nhất quán và minh bạch và có thể dự doán được đối với trao
đổi thương mại hàng hóa giữa các quốc gia thành viên, bao gồm các biện pháp liên quan đến thủ tục
hải quan; các biện pháp hài hòa, nhất thể hóa hàng rào tiêu chuẩn và kỹ thuật trong thương mại…
Các biện pháp này tuy không tác động rõ nét, nhanh chóng tới tiến trình tự do hóa thương mại hàng
hóa như các biện pháp dỡ bỏ rào cản thương mại nhưng thuận lợi hóa thương mại hàng hóa vẫn là
một trong các nội dung quan trọng tạo điều kiện cho luồng hàng hóa di chuyển thuận lợi giữa các
quốc gia ASEAN và hoàn thành AFTA, tức là xây dựng thành công thị trường hàng hóa đơn nhất
giữa các quốc gia ASEAN.
3.2.2.1. Thúc đẩy minh bạch hóa thương mại
ASEAN dự định thành lập trung tâm dữ liệu thương mại ASEAN (ATR) vào năm 2015, đây
sẽ là trung tâm thông tin điều tiết cấp quốc gia và cấp khu vực. ATR sẽ cung cấp thông tin điều tiết
liên quan tới biểu thuế quan, hàng rào thuế quan ưu đãi theo hiệp định thương mại hàng hóa
ASEAN (ATIGA), quy tắc xuất xứ (ROO), các biện pháp phi thuế quan (NTMs), thương mại trong
nước, nguyên tắc và luật hải quan, tài liệu cần thiết, danh sách thương nhân được chỉ định của các
quốc gia thành viên ASEAN. Ngay khi được thành lập và hoạt động với đầy đủ chức năng, ATR sẽ
được đưa lên internet để phục vụ cho các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, thương nhân, cơ quan nhà
nước, cho những người tìm kiếm thông tin và cho công chúng.

3.2.2.2. Hiện đại hóa hệ thống hải quan trong ASEAN
Các cơ quan hải quan trong ASEAN đang xúc tiến cải cách và hiện đại hóa phương pháp cũng
như thủ tục hải quan để nâng cao lợi thế thương mại trong ngành. Chương trình chiến lược phát
triển hải quan (SPCD) quy định chỉ được phép dỡ container khỏi tàu trong vòng 30 phút. Để hiện
đại hóa hệ thống hải quan, các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đã được sử dụng để
thông quan hàng hóa trong khu vực ASEAN theo tiêu chuẩn quốc tế. Việc này sẽ góp phần làm
giảm chi phí giao dịch và thời gian thông quan hàng hóa dưới sự kiểm soát của hải quan. Cục hải
quan ASEAN hiện cũng đang tích cực phối hợp với các ngành khác nhau để đẩy mạnh và cải thiện
chất lượng dịch vụ hải quan cũng như mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn định sẵn.
3.2.2.3. Cơ chế một cửa ASEAN (ASW)
Cơ chế một cửa là yếu tố quan trọng trong kế hoạch hành động ASEAN trong tiến tr.nh thực
hiện hóa AEC vào năm 2015. Khi ASW hoạt động với đầy đủ chức năng, lợi thế thương mại và
đang chu chuyển hàng hóa trong khu vực sẽ được cải thiện đáng kể bằng cách áp dụng cơ chế trao
đổi dữ liệu điện tử về hàng hóa thông quan trong ASEAN (AMS). Cơ chế một cửa quốc gia (NSWs)
sẽ liên kết với nhau thông qua ASW cho phép các doanh nghiệp nộp tất cả các văn bản giấy tờ liên

6


quan tới hoạt động thương mại về cùng một nơi và cũng chính các cơ quan chuyên trách trong
ASEAN sẽ xem xét và đưa ra quyết định ở chính nơi mà doanh nghiệp làm thủ tục giấy tờ.
Điển hình, Indonesia đã triển khai Cơ chế một cửa kết nối 18 cơ quan của Chính phủ, với hơn
14.000 thương nhân đăng ký hoạt động. Đối với Việt Nam, cuối tháng 2/2014 vừa qua, Phó Thủ
tướng Vũ Văn Ninh đã khai trương kết nối kỹ thuật giai đoạn 1 Cơ chế một cửa quốc gia giữa 3 Bộ:
Tài chính (Tổng cục Hải quan), Công Thương và Giao thông Vận Tải. Giai đoạn 2 sẽ có thêm 3 bộ
được kết nối bao gồm: Bộ Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường.
Việc thực hiện thành công Cơ chế một cửa quốc gia giúp Việt Nam nhanh chóng kết nối vào Cơ chế
một cửa ASEAN (dự kiến năm 2015).
3.2.2.4. Đánh giá mức độ phù hợp trong ASEAN
Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRAs) là thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên cùng thừa nhận

hoặc chấp nhận các nhân tố đánh giá tiêu chuẩn hàng hóa. Thỏa thuận này góp phần làm giảm yêu
cầu một sản phẩm phải trải qua nhiều quá trình kiểm tra khác nhau để có thể bán ra ngoài thị trường
hoặc sử dụng tại các quốc gia ASEAN khác nhau. MRAs cũng góp phần làm giảm chi phí kiểm tra
báo cáo, đồng thời nâng cao độ tin cậy của các sản phẩm gia nhập thị trường. Người tiêu dung cũng
được đảm bảo hơn với chất lượng hàng hóa, các loại hàng hóa này đã được kiểm chứng theo đúng
những quy định của MRAs.
3.2.2.5. Hòa hợp các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật
Sự khác nhau giữa các tiêu chuẩn sản phẩm quốc gia thường gây trở ngại cho hoạt động
thương mại - kinh doanh trong AEC đòi hỏi phải có sự hòa hợp các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật
cũng như sự thừa nhận các báo cáo và chứng nhận kiểm định của nhau. ASEAN cũng đang phát
triển bộ quy tắc áp dụng cơ chế nhận biết, cơ chế này sẽ chỉ ra liệu một sản phẩm có đáp ứng đúng
các quy định kỹ thuật hòa hợp của ASEAN hay không.
-

Tuân thủ các tiêu chuẩn và thực tiễn quốc tế
Phương pháp chuẩn bị, điều chỉnh hoặc ứng dụng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật cũng như mức
độ phù hợp đều căn cứ vào tiêu chuẩn và thực tiễn quốc tế, bao gồm việc tuân thủ tối đa các tiêu
chuẩn và thực tiễn quốc tế cùng với các nghĩa vụ được nêu trong hiệp định rào cản kỹ thuật thương
mại (TBT) trừ trường hợp có lý do khác.

-

Hòa hợp các tiêu chuẩn
Trong năm 1997, việc hòa hợp quản lý được bắt đầu với 20 sản phẩm ưu tiên. Kết quả cho
thấy 58 tiêu chuẩn áp dụng cho các trang thiết bị điện
và 3 tiêu chuẩn áp dụng cho các sản phẩm từ cao su đã được hòa hợp. Quy trình trên cũng
được áp dụng tương tự đối với các sản phẩm trong ngành dược. Ví dụ: An toàn điện (IEC), thiết bị
điện từ (CISPR) đã có 10 tiêu chuẩn được hòa hợp.
7



Việc hòa hợp quản lý trong các ngành ưu tiên hội nhập đang được triển khai, bao gồm các sản
phẩm nông nghiệp, mỹ phẩm, ngư nghiệp, dược phẩm, các sản phẩm từ cao su, các sản phẩm từ gỗ,
ô tô, xây dựng, dụng cụ y tế, y học cổ truyền và các ngành hỗ trợ chăm sóc sức khỏe.
-

Hòa hợp các quy định kỹ thuật
ASEAN đã hợp nhất cách quản lý kỹ thuật cho ngành mỹ phẩm (theo hiệp định hòa hợp quản
lý mỹ phẩm ASEAN ký năm 2003) và ngành công nghiệp điện, điện tử (theo hiệp định hòa hợp
quản lý trang thiết bị điện và điện tử ASEAN) ký năm 2005. Việc hòa hợp quản lý kỹ thuật đối với
các ngành sản xuất sản phẩm nông nghiệp, ô tô, dụng cụ y tế, ngành y học cổ truyền và hỗ trợ chăm
sóc sức khỏe cũng đang được thực hiện.
3.3. Tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN – Từ PTA đến AFTA và AEC
3.3.1. Chương trình ưu đãi thuế quan (PTA)
Ở thập kỷ 70, chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (giảm bớt các hàng rào bảo hộ
công nghiệp) mang lại những kết quả khả quan bước đầu, tăng tỷ lệ buôn bán nội bộ ngành giữa các
nước thành viên ASEAN góp phần tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự quan tâm của các quốc gia đối
với việc thúc đẩy trao đổi buôn bán ở khu vực. Nhận thức được lợi ích của tự do hóa thương mại
trong hợp tác kinh tế, các nước ASEAN đã cùng nhau tiến hành các hoạt động tự do hóa thương mại
đa phương trong khuôn khổ Chương trình ưu đãi thuế quan (PTA). PTA được thành lập năm 1977
theo Hiệp định về các thỏa thuận ưu đãi thương mại đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho những
chính sách thương mại tự do thông thoáng và hợp lý sau này, khởi động tiến trình tự do hóa thương
mại hàng hóa của ASEAN thông qua các cam kết cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng cơ
bản.
3.3.2. Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) ra đời năm 1992 trên cơ sở Hiệp định thuế quan
ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) được coi như một động thái tích cực của khu vực trước tình hình
trên khi việc thực hiện PTA tỏ ra chậm chạp, kém hiệu quả (ngay cả khi có những sửa đổi bổ sung
vào cuối thập kỷ 80). Một trong các mục tiêu hàng đầu khi khởi xướng ý tưởng thành lập AFTA
chính là thúc đẩy hơn nữa tự do hóa thương mại, tăng cường trao đổi buôn bán nội khối thông qua

các quy định về loại bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan theo một lộ trình đã cam kết. AFTA
có thể coi là chương trình hợp tác kinh tế có ý nghĩa nhất, khả thi sớm nhất và toàn diện nhất ở
ASEAN trong giai đoạn này để đáp ứng những yêu cầu phát triển của khu vực và thế giới.
3.3.3. Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
Trong Tuyên bố Bali II năm 2003 đánh dấu bằng sự ra đời của khái niệm Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC). AEC được xây dựng dựa trên những tiền đề lý luận, thực tiễn cũng như pháp lý
vững chắc là cơ sở để các quốc gia ASEAN đẩy mạnh hợp tác kinh tế cả về chiều rộng lẫn bề sâu,
8


trong đó bao gồm cả quyết tâm của các quốc gia hướng tới việc nhất thể hóa thị trường và cơ sở sản
xuất của các nền kinh tế thành viên thông qua tự do hóa các yếu tố sản xuất (như hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư…). Do đó, AEC – cấp độ liên kết khu vực cao hơn chính là sự phát triển khách quan của hợp
tác kinh tế cũng như tự do hóa thương mại hàng hóa trong khu vực.
4. CÔNG CỤ PHÁP LÝ THỰC HIỆN TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA TRONG
AEC
4.1. Các văn kiện pháp lý đa phương
Tự do hóa thương mại hàng hóa là một trong năm yếu tố cốt lõi để hoàn thành mục tiêu nhất
thể hóa thị trường và cơ sở sản xuất của các nền kinh tế thành viên, do đó hoạt động tự do hóa
TMHH giữa các quốc gia thành viên không thể tách rời các văn kiện có ý nghĩa nền tảng cho việc
xây dựng Asean. Đồng thời các hoạt động đó cũng được triển khai trên cơ sở các thiết chế pháp lý
cơ bản của AEC có trách nhiệm quản lý, điều hành, tư vấn trong lĩnh vực tự do hó thương mại hàng
hóa trong khu vực. Kể từ thành lập AFTA năm 1992, Asean liên tục ban hành các văn bản pháp lý
nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại trong AFTA:
-

Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế Asean ký ngày 28/1/1992 tại hội nghị cấp cao Asean

-


lần thứ IV tại Singapore. Đây là hiệp định đầu tiên và là hiệp định thành lập AFTA.
Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA (CEPT) ký

-

ngày 28/1/1992.
Các nghị định thư sửa đổi và bổ sung hai hiệp định trên.
Hiệp định khung về hội nhập các ngành ưu tiên (APIS) ký ngày 29/11/2004 tại Viêng Chăn, Lào.
Hiệp định về thương mại hàng hóa Asean (ATIGA) ký ngày 26/2/2009 tại Cha-am, Thái Lan.
Đáng quan tâm nhất hiện nay đó chính là Hiệp định về thương mại hàng hóa Asean: ATIGA –
văn kiện toàn diện nhất trong khu vực điều chỉnh các lĩnh vực hợp tác về thương mại hàng hóa.
Hiệp định này xây dựng trên cơ sở kế thừa và hợp nhất các quy định của các văn bản trước đó về
AFTA, đồng thời bổ sung các nội dung mới nhằm điều chỉnh và nâng cấp tất cả các lĩnh vực hợp tác
về thương mại hàng hóa trong Asean cho phù hợp với yêu cầu xây dựng AEC.
Kể từ khi gia nhập AFTA, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các thành viên khác của Asean
đã phát triển nhanh chóng trên cơ sở song phương và đa phương, tuy nhiên việc hạ thấp hàng rào
thuế quan và phi thuế quan ngay lập tức sẽ gây ra một cuộc cạnh tranh gay gắt đối mặt với các loại
hàng hóa nhập khẩu giá hạ từ các nước ASEAN ngay tại thị trường trong nước.Ví dụ: Năm 2014 sẽ
có hàng loạt thay đổi liên quan đến giá bán ôtô tại thị trường Việt Nam. Theo cam kết lộ trình gia
nhập AFTA của Việt Nam thì ôtô nhập khẩu từ các nước ASEAN là thành viên của AFTA (Thái
Lan, Malaysia…) nếu có tỷ lệ nội địa hóa đạt 40% (linh kiện có nguồn gốc sản xuất tại nội địa nước
đó) sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi khi nhập khẩu vào Việt Nam là 50%.1
1 Ô tô nhập khẩu sẽ giảm giá ‘sốc’ (Trần Thủy)

9


Sự ra đời của các văn kiện đã tạo ra các ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên về
phương thức thực hiện tự do hóa TMHH cũng như các cam kết về lộ trình chung. Bên cạnh đó
thông qua hoạt động của các thiết chế pháp lý cơ bản trong AEC như Hội nghị cấp cao, Hôi nghị

điều phối, Hội đồng AEC cùng Hội đồng thương mại tự do ASEAN các hoạt động bổ trợ cho việc
thi hành, chấp hành nội dung các văn kiện pháp lý đa phương về tự do hóa TMHH được tăng
cường, qua đó tạo điều kiện để các nội dung pháp lý có mục tiêu thúc đẩy tự do hàng hóa đạt mục
tiêu hiệu quả trên thực tiễn.
4.2. Các cam kết đơn phương của các quốc gia thành viên
Quá trình tự do hóa thương mại có thể được thực hiện thông qua các chương trình với các cấp
độ và phạm vi khác nhau. Bên cạnh các hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa thể hiện ở mức
độ tiến hành ở mức độ khu vực và đa phương, hoạt động tự do hóa thương mại cũng có thể thực
hiện ở mức đơn phương thông qua các cam kết của các quốc gia thành viên khi tham gia vào tiến
trình tự do hóa TMHH chung của khu vực. Trên cơ sở chương trình chung, từng quốc gia Asean sẽ
xây dựng chương trình riêng của mình và được tồ chức chấp thuận. Chương trình đó có thể bao
gồm việc điều chỉnh các chính sách kinh tế, pháp luật trong nước, xây dựng lộ trình cụ thể về cắt
giảm thuế quan…để phù hợp với các lộ trình chung hay đáp ứng các cam kết, ràng buộc với tổ
chức…Ví dụ về việc Việt Nam cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng dệt may trong một số thỏa
thuận thương mại khu vực:
Năm

Thuế suất theo AFTA

Thuế suất theo ACFTA

Thuế suất theo AKFTA

2006

5%

27.8%

33.4%


2015

0%

1.97%

9.3%

(Nguồn: trungtam wto.vn)
4.3. Các vòng đàm phán
Một công cụ pháp lý khác nhằm thực hiện việc dỡ bỏ các rào cản thương mại phải kể đến đó
chính là các vòng đàm phán của các nước Asean trong lĩnh vực thương mại tự do. Hiện nay vòng
đàm phán được quan tâm nhất là Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP) bao gồm 10 thành
viên của Asean và 6 đối tác quan trọng của khối là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia,
New Zealand và Ấn Độ (hay còn gọi là ASEAN+6). Vòng đàm phán đầu tiên bắt đầu ngày 9/5 tại
Brunei, và vòng đàm phán thứ hai dự kiến diễn ra tại Úc từ ngày 23 đến 27-9. Các đàm phán RCEP
dự kiến kết thúc vào cuối năm 2015, theo tuyên bố chung về RCEP đăng trên trang www.asean.org 2
2 Kết thúc vòng đàm phán thứ nhất hiệp định Asean+6

10


5. PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA TRONG
AEC
5.1. Phương thức thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa trong AEC
Để thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa một cách hiệu quả, AEC đã đưa những phương
thức sau:
-


Thứ nhất, xây dựng một chương trình khung làm cơ sở pháp lí chung để điều chỉnh quá trình tự do
hóa thương mại. Chương trình khung để thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa của AEC là Hiệp
định về thương mại hàng hóa ASEAN 2009 (ATIGA). ATIGA linh hoạt hơn CEPT với việc quy định
số dòng thuế được lùi thời hạn xóa bỏ thuế quan dành cho 4 nước Campuchia, Lào, Myanma, Việt
Nam (CLMV), đồng thời cho phép tạm ngừng hoặc điều chỉnh cam kết việc thực hiện xóa bỏ các
hàng rào thuế quan giữa các nước trong khối ASEAN. ATIGA còn hướng đến xử lí tối đa các hàng
rào phi thuế quan, hàng rào kĩ thuật... và giúp hài hòa chính sách của các nước trong khối ASEAN.
Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu
tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương
mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận. Thực hiện cam kết trong ATIGA, Việt Nam
có nghĩa vụ cắt giảm thuế xuống mức 0% vào năm 2015 và một số dòng thuế được linh hoạt đến
2018 (giảm xuống 0% vào 2018). Mức thuế suất cơ sở là mức thuế suất CEPT/AFTA tại thời điểm
ATIGA có hiệu lực, thời điểm cắt giảm là ngày 01 tháng 01 hàng năm.
ATIGA là một bước tiến quan trọng nhằm thiết lập một thị trường đơn nhất và cơ sở sản
xuất chung hướng tới hội nhập kinh tế sâu sắc hơn trong khu vực và hướng tới thực hiện Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.

-

Thứ hai, dựa trên chương trình khung nói trên, mỗi quốc gia sẽ xây dựng riêng cho mình một
chương trình và được tổ chức chấp thuận. Việc đưa ra chương trình riêng này phải phù hợp với bối
cảnh kinh tế xã hội của quốc gia đó nhằm đảm bảo cho lộ trình thực hiện tự do hóa thương mại.
Ví dụ: việc xóa bỏ thuế quan, ngay lập tức Việt Nam không thể thực hiện bởi điều đó sẽ đe
dọa nền sản xuất trong nước và vì thế, Việt Nam có thể đưa ra chương trình mới vẫn dựa trên khung
chung nhưng nhằm tạm kéo dài thời gian bắt đầu thực hiện việc xóa bỏ thuế quan hay điều chỉnh lại
thuế suất sao cho phù hợp với bối cảnh sản xuất trong nước để tránh gây tổn hại cho các doanh
nghiệp trong nước (vẫn mang tính bảo hộ nhưng không rõ ràng).

-


Thứ ba, kết quả của các vòng đàm phán cũng thúc đẩy việc thực hiện tự do hóa thương mại. Ngoài
các cuộc đàm phán trong nội khối, ASEAN còn tiến hành đàm phán và kí kết các các hiệp định về
thương mại tự do với các quốc gia khác như: Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện (2002)

11


nhằm thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), Hiệp định Thương mại
hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc (AKTIK) năm 2006.
5.2. Tự do thương mại hàng hóa trong AEC và WTO:
5.2.1. Phương thức:
5.2.1.1. Giống nhau:
Việc thực hiện tự do hóa thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hàng hóa nói riêng là
cả một quá trình, cần qua nhiều giai đoạn, do việc tự do hóa thương mại sẽ gỡ bỏ những rào cản mà
vốn là công cụ bảo hộ các ngành sản xuất trong nước của quốc gia thành viên. Và vì vậy, để thực
hiện tự do hóa thương mại một cách hiệu quả, cả AEC và WTO đều thực hiện các công việc như
sau:
-

Xây dựng chương trình khung làm cơ sở pháp lí: Với AEC là Hiệp định về thương mại hàng hóa
ASEAN 2009 (ATIGA) như đã nói ở trên; với WTO là Hiệp định chung về thuế quan và thương

-

mại 1994 (GATT 1994).
Dựa trên cơ sở chương trình khung nói trên, từng quốc gia thành viên của AEC và WTO sẽ xây
dựng chương trình riêng của mình và được tổ chức chấp thuận. Chương trình đó có thể bao gồm
việc điều chỉnh các chính sách kinh tế, pháp luật trong nước, xây dựng lộ trình cụ thể về cắt giảm

-


thuế quan… để phù hợp với lộ trình chung hay đáp ứng các cam kết, ràng buộc với tổ chức…
Việc tự do hóa thương mại hàng hóa còn được thúc đẩy thông qua kết quả các vòng đàm phán. Có
thể thấy, 8 vòng đàm phán của GATT là cơ sở cho tự do hóa thương mại trong WTO. Còn với AEC,

-

đó là các hiệp định với các quốc gia ngoài khối ASEAN như Trung Quốc, Hàn Quốc...
5.2.1.2. Khác nhau:
Có thể nhận định rằng cách thức thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN có nhiều nét
tương đồng với WTO nhưng xét về tính chất thì không hoàn toàn giống nhau. Cả 2 tổ chức quốc tế
này đều đưa ra những biện pháp linh hoạt và ưu đãi hơn cho các quốc gia kém phát triển như: kéo
dài thời gian thực hiện quy định, được hỗ trợ nhiều hơn về kỹ thuật, giảm bớt một số nghĩa vụ…
ASEAN đã thực sự tận dụng được lợi thế về khả năng đồng thuận cao giữa các thành viên mà đã
đưa ra những phương thức mềm dẻo nhưng rõ ràng, cụ thể hơn để tiến hành tự do hóa thương mại
hàng hóa được thuận lợi. Cơ chế mềm dẻo nhưng rất cụ thể và rõ ràng đã tạo nên hiệu quả đáng kể
trong việc thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa của ASEAN khi chương trình CEPT đã được

-

rút ngắn xuống 10 năm so với ban đầu.
Về thuận lợi hóa thượng mại hàng hóa: Xét về bản chất các phương thức mà WTO và ASEAN sử
dụng đều nhằm mục đích tạo ra một môi trường thuận lợi, minh bạch trong việc trao đổi hàng hóa
giữa các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, ASEAN đã tách biệt hẳn thuận lợi thương mại hàng hóa
độc lập với xóa bỏ rào cản thương mại nhằm nhấn mạnh cũng như khẳng định tầm quan trọng của
phương thức này trong tự do hóa thương mại hàng hóa.

12



-

Tuy nhiên, những chính sách xóa bỏ rào cản thương mại đồng thời tiến hành thuận lợi hóa thương
mại hàng hóa ở AEC không chỉ mang tính chất chung chung, tổng quát như WTO mà là sự hướng
dẫn cụ thể ở từng quốc gia phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của nước đó.
5.2.2. Phạm vi:
5.2.2.1. Giống nhau:
WTO và AEC đều sử dụng biện pháp tăng cường tự do hóa thương mại: cắt giảm tiến tới xóa
bỏ thuế quan và phi thuế quan với các mặt hàng.
5.2.2.2. Khác nhau:
So với WTO thì các biện pháp mà AEC đưa ra được áp dụng rộng hơn. Ngoài một số biện
pháp được áp dụng nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa trong khuôn khổ WTO thì AEC
còn áp dụng các biện pháp hạn chế bảo hộ thương mại bằng phi thuế quan: dỡ bỏ chung về hạn chế
hàng hóa, quy định về xuất xứ hàng hóa,... Ngoài các biện pháp phi thuế quan, AEC còn áp dụng
các hoạt động lợi hóa thương mại như: thủ tục hải quan, tiêu chuẩn và kĩ thuật đánh giá sự phù
hợp,...
5.2.3. Mức độ:
5.2.3.1. Giống nhau:
Do những tác động hạn chế tự do thương mại hàng hóa của các biện pháp thuế quan và phi
thuế quan nên cả AEC và WTO đều có xu hướng cắt giảm thuế quan, thậm chí tiến tới xóa bỏ thuế
quan, và các hàng rào phi thuế quan.
5.2.3.2. Khác nhau:
Ngoài việc cùng có xu hướng giảm dần những rào cản thương mại thì tự do hóa thương mại
hàng hóa của AEC và WTO có sự khác nhau về diện và mức độ. Có thể khẳng định mức độ tự do
hóa thương mại hàng hóa của AEC sâu và rộng hơn WTO.
6. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI THAM GIA
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
6.1. Cơ hội doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AEC trong lĩnh vực thương mại hàng
hóa
6.1.1. Cơ hội có được một thị trường rộng lớn hơn

ASEAN có tổng GDP trên 2,7 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%-6% hàng năm. Dân
số trên 600 triệu người, với cơ cấu dân số tương đối trẻ. Thu nhập bình quân đầu người trên 4.500
USD/người/năm. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2012 đạt 110 tỷ USD. Tổng giá trị giao dịch
thương mại 2,5 nghìn tỷ USD 3. AEC với việc tự do hóa dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu
vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Từ đó DN
3 Các số liệu tập hợp từ các nguồn báo cáo của các nước tại Hội nghị Hội đồng bảo hiểm ASEAN
lần thứ 39 ngày 4-6/12/2013 (trừ Lào và Myanmar không có báo cáo), trên mạng internet và tạp chí
bảo hiểm châu Á số tháng 11/2013.

13


các nước sẽ tìm cách tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, hàng hoá vì có thêm thị trường tiêu
thụ.
6.1.2. Về thuế quan
AEC là khu vực kinh tế chung, khi đó thuế suất trong ASEAN giảm. Do đó, các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc không phải chịu thuế nhập khẩu cao tại thị trường
ASEAN. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đa số đang phải nhập khẩu máy móc, thiết
bị từ nước ngoài về phục vụ cho quá trình sản xuất. Khi gia nhập AEC, việc nhập máy từ các nước
thành viên ASEAN sẽ mang lại lợi ích lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi không phải chịu mức
thuế nhập khẩu cao như trước đây.
6.1.3. Tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp
Khi gia nhập AEC, cơ hội giao thương hợp tác của các doanh nghiệp trong tỉnh với các doanh
nghiệp trong khối AEC sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn. Qua đó, các doanh nghiệp có cơ
hội hợp tác, chuyển giao công nghệ nâng cao khả năng sản xuất, vị thế và khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp nhờ đó cũng được cải thiện.
6.2. Thách thức doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AEC trong lĩnh vực thương mại
hàng hóa
Bên cạnh những thuận lợi, AEC cũng tạo ra nhiều thách thức đối với DN Việt Nam. Tính cạnh
tranh vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Vì đến năm 2015, hàng hoá

trong các nước thành viên ASEAN có mức thuế ưu đãi như nhau, lúc đó sức cạnh tranh sẽ tập trung
vào chất lượng và giá trị gia tăng trong sản phẩm. Trong khi với thiết bị, công nghệ hiện nay, sản
phẩm của DN Việt Nam khó có thể cạnh tranh lại với sản phẩm các nước.
Do thuế quan giảm và hàng rào phi thuế quan được dỡ bỏ, hàng hóa nhập khẩu có khả năng
cạnh tranh về giá thành và chất lượng từ các nước trong nội khối như Thái Lan, Malaysia... tràn vào
Việt Nam sẽ là một thách thức rất lớn đối với DN Việt Nam. Các mặt hàng như dệt may, giày dép,
thủy sản chiếm một tỷ lệ lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN có thể bị thu
hẹp thị trường do một số thành viên ASEAN cũng có lợi thế sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này.
6.3. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam
Đầu tiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhận thức được những cơ hội và thách thức khi
Việt Nam tham gia AEC.
Thứ hai, để sản phẩm có đủ sức cạnh tranh khi AEC có hiệu lực, ngay từ bây giờ, DN Việt
Nam nên chuẩn bị đầu tư thiết bị, máy móc, công nghệ cần thiết, luôn cập nhật xu hướng mới về
thiết bị, máy móc hiện đại, tiếp cận các công nghệ cao như công nghệ Nano, tiếp thu các kinh
nghiệm, các ý tưởng mới và bắt kịp sự chuyển động của thị trường. Có như thế, ngành công nghiệp
trong nước, nhất là công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ, mới phát triển đáp ứng yêu cầu
14


cao vào năm 2015 và xa hơn Việt Nam mới thực hiện được công cuộc CNH-HĐH, trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020.

15


7. KẾT LUẬN
Thông qua bài viết trên ta thấy rằng, mặc dù ASEAN chỉ là một tổ chức mang tầm cỡ khu
vực, lại có xuất phát điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa thấp hơn rất nhiều so với WTO, song những
thành công rực rỡ mà nó đạt được trong tiến trình tự do hóa thương mại mà đặc biệt là tự do hóa
thương mại hàng hóa là không thể phủ nhận. ASEAN đã chứng minh được sự trưởng thành qua các

giai đoạn, đã và đang tạo bàn đạp tiến tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015,
đồng thời khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế.
Và đối với các doanh nghiệp trong nước ta cần nhìn nhận được cơ hội cũng như thách thức
trong quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực ASEAN cũng như quốc tế để từ đó nhận ra mặt yếu
kém của mình, phát huy những mặt mạnh để tìm được chỗ đứng trên đấu trường quốc tế. Chính các
doanh nghiệp đóng vai trò chủ chốt trong việc hình thành và thực hiện các cơ chế, chính sách, tạo
động lực và đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của cả Cộng đồng ASEAN. Cùng với quyết
tâm của doanh nghiệp, sự hỗ trợ, biện pháp, chính sách, cam kết của chính phủ Việt nam sẽ hứa hẹn
đạt được những thành tựu to lớn.

16


Tài liệu tham khảo
1. Anh

Hiệp,

truy

cập

thứ

sáu,

20/12/2013,

báo


Người

tiêu

dùng,

/>2. “Cộng đồng kinh tế ASEAN – Sổ tay kinh doanh” 19/3/2012,
/>3. Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CETP) cho khu vực thương
mại tự do Asean (AFTA)
4. Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN ATIGA năm 2009
5. “Kết thúc vòng đàm phán thứ nhất hiệp định Asean+6”, truy cập ngày 11/3/2014 tại
/>6. Trần Thủy, “Ô tô nhập khẩu sẽ giảm giá thấp”, truy cập ngày 11/3/2014 tại
/>
17



×