Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KIM CÚC

§Þa vÞ ph¸p lý
cña Héi thÈm trong tè tông h×nh sù

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KIM CÚC

§Þa vÞ ph¸p lý
cña Héi thÈm trong tè tông h×nh sù

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của Luận văn này. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Trần Thị Kim Cúc


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: ......................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 6

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................... 7
1.1. Những khái niệm có liên quan ................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm hội thẩm ............................................................................ 7
1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự .......... 11
1.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển quy định Hội thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam ................................................................................. 14
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 (trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988) ................................................................................................... 14
1.2.2. Giai đoạn 1988 đến nay.................................................................... 21
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Hội
thẩm trong tố tụng hình sự ........................................................................... 25
1.3.1 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong tố tụng hình
sự ................................................................................................................ 25
1.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của hội
thẩm khi tham gia tố tụng hình sự .............................................................. 27


Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI
THẨM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ................................................. 37
2.1. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của Hội thẩm ......................................................................... 37
2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện qui định của pháp luật về
địa vị pháp lý của Hội thẩm ....................................................................... 37
2.1.2. Những tồn tại, thiếu sót của Hội thẩm trong thực hiện địa vị pháp
lý khi tham gia xét xử ................................................................................. 45
2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại, thiếu sót khi thực hiện địa vị
pháp lý của Hội thẩm ................................................................................. 57
2.2. Những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm

trong tố tụng hình sự .................................................................................... 66
2.2.1. Cần nhận thức đúng về vai trò của Hội thẩm tham gia cùng Thẩm
phán Tòa án xét xử vụ án hình sự .............................................................. 66
2.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến nâng cao địa vị pháp
lý của Hội thẩm .......................................................................................... 71
2.2.3. Những đề xuất, kiến nghị khác liên quan đến Hội thẩm nhân dân
tham gia xét xử vụ án hình sự .................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TPHCM

: Thành phố Hồ Chí Minh


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động tố tụng hình sự, xét xử là giai đoạn cuối cùng để giải
quyết một vụ án. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình tố tụng. Bằng
hoạt động xét xử của mình, Tòa án thay mặt Nhà nước đưa ra phán quyết đối
với mỗi vụ án. Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội và quyết định hình phạt
đối với một con người. Không ai có thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc xét xử của Tòa án được thực
hiện thông qua hoạt động của Hội đồng xét xử gồm có Thẩm phán và các Hội
thẩm. Thẩm phán và các Hội thẩm là những người được Nhà nước trao cho
quyền thay mặt Nhà nước đưa ra bản án, quyết định đối với vụ án hình sự.
Việc ra bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải đảm bảo khách quan,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không được bỏ lọt tội phạm. Bản
án, quyết định hình sự của Hội đồng xét xử không chỉ liên quan đến quyền
sống, quyền tự do hay sinh mệnh chính trị của mỗi cá nhân trong xã hội mà
nó còn có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín của Nhà nước. Cùng với Thẩm phán,
các Hội thẩm là những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét
xử của mỗi vụ án. Hiến pháp năm 1992 quy định “Việc xét xử của Tòa án có
Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán” [25, Điều 129]. Hiến pháp 2013 cũng quy định: “Việc xét xử sơ thẩm
của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn” [28, Điều 103]. Sự tham gia của Hội thẩm thể hiện sự tham gia
của nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử nhằm nói lên tiếng nói của nhân
dân đối với mỗi sự kiện pháp lý, đồng thời họ còn là những người giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy vị trí, vai trò của Hội thẩm trong hoạt
động tố tụng hình sự là rất quan trọng.
1


Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định “Khi
xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị
đơn.”
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng ghi rõ: “ Tòa án có vị trí trung tâm
và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu: “ Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm
tính công khai dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Bộ luật tố tụng hình sự được xây dựng theo hướng mở rộng dân chủ,
tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đề cao tính tranh tụng trong hoạt
động tố tụng. Vai trò của luật sư cũng được nâng cao và tôn trọng hơn. Đối
với hoạt động của Hội đồng xét xử, Bộ luật cũng có những quy định rõ rang
hơn về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trong hoạt động tố
tụng. Trình tự thủ tục ra bản án, quyết định của Tòa án. Bên cạnh đó, việc ra
bản án, quyết định của Tòa án ngày càng được chú trọng đi vào chiều sâu,
khắc phục được nhiều tình trạng chủ quan duy ý chí, dựa vào hồ sơ khi ra
phán quyết, hạn chế được tình trạng oan, sai trong hoạt đông tố tụng… Tuy
vậy BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những thiếu sót và hạn chế như một số
nội dung quy định chưa rõ ràng, có những quy định chưa phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của Hội thẩm, chưa quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của

2



nhưng người tiến hành tố tụng. Mặt khác, trong những năm qua chất lượng
đào tạo của Thẩm phán, Thư ký đã được quan tâm nhưng đội ngũ Hội thẩm
chưa được quan tâm đúng mức. Trong công tác xét xử vai trò của Hội thẩm là
rất lớn và bắt buộc có( Trong hoạt động xét xử sơ thẩm). Do vậy, cần quan
tâm đúng mức hơn mà cụ thể là cần có những quy định pháp luật để giải
quyết tốt vấn đề chất lượng của Hội thẩm.
Nghiên cứu về chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự nhằm làm rõ
khái niệm, vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong hoạt
động tố tụng hình sự; Thực trạng hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình
sự hiện nay; Xu hướng cải cách tư pháp và những vấn đề liên quan đến chế
định Hội thẩm trong tố tụng hình sự là một việc làm rất cần thiết. Việc nghiên
cứu phải được tiến hành một cách nghiêm túc, có hệ thống nhằm làm rõ
những yếu tố tích cực của chế định này, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế
trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn hoạt động. Từ đó
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
Vì vậy tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng
hình sự” để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay đã có một số luận văn, luận án nghiên cứu về địa vị
pháp lý của những chủ thể khác trong tố tụng hình sự như Thẩm phán, Kiểm
sát viên, điều tra viên, luật sư… nhưng chưa có luận văn, luận án nào nghiên
cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự từ năm 2003 đến nay.
Cũng đã có một số tài liệu, bài viết về tiêu chuẩn của Hôi thẩm, quyền hạn,
trách nhiệm của Hội thẩm. Tuy nhiên các tài liệu, bài viết này thường chỉ
nghiên cứu về quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm theo pháp luật nói chung.
Không tập trung vào nghiên cứu về quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong

3



tố tụng hình sự. Chưa có luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ nào nghiên cứu một
cách có hệ thống và đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố
tụng hình sự sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được ban hành và cũng
chưa làm rõ được vị trí, vai trò của Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng
hình sự là rất cần thiết, nhằm làm rõ vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của
Hội thẩm trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của
pháp luật về vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố
tụng hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu việc áp dụng các quy định đó trong
thực tiễn, tìm ra những bất cập, những hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật của về hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự để từ đó
đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong
tố tụng hình sự làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp
luật tố tụng hình sự về chế định này.
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của
Hội thẩm trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và từ đó đưa ra những kiến nghị, giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội

4



thẩm trong tố tụng hình sự.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định Hội thẩm.
Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vị trí, vai
trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm; cũng như nghiên cứu thực trạng
hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự hiện nay; xu hướng cải cách tư
pháp và những vấn đề liên quan đến chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu địa vị pháp lý của Hội thẩm qua các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và qua thực tiễn áp dụng các quy định đấy. Tập
trung làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong quá trình xét xử các
vụ án hình sự.
Luận văn không nghiên cứu hội thẩm nhân dân trong các hoạt động tố
tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn dựa trên quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách
tư pháp, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là các phương pháp phân tích, tổng
hợp, đối chiếu, so sánh, phương pháp thống kê để làm rõ những vấn đề của
đối tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn làm rõ khái niệm về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng
hình sự. Luận văn sẽ phân tích về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của
Hội thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng áp
dụng những quy định đó và chỉ ra những hạn chế thiếu sót của pháp luật hiện

5


tại từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
Vì vậy, luận văn có cả ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào hệ
thống lý luận luật tố tụng hình sự, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những
người nghiên cứu, những người làm công tác xây dựng pháp luật, làm công
tác thực tiễn và học tập về những kiến thức pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm có hai chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong
tố tụng hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực thi những quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của Hội thẩm và các kiến nghị, đề xuất.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA HỘI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm hội thẩm
Nghiên cứu các cuốn từ điển ở trong và ngoài nước (bao gồm cả từ điển
thông dụng và từ điển pháp lý chuyên ngành) có thể rút ra một nhận xét tương
đối khái quát là: trong ngôn ngữ tiếng Việt, khái niệm “hội thẩm” có thể được
diễn đạt bằng nhiều từ khác nhau (hội thẩm, phụ thẩm, bồi thẩm). Ngược lại,
trong tiếng nước ngoài, từ “hội thẩm” (assesseur) là được sử dụng như một từ

đa nghĩa với nhiều cách hiểu khác nhau, nhiều nghĩa khác nhau rất phức tạp.
Điều này có nghĩa là: người Việt dùng nhiều từ để diễn đạt một khái niệm
trong khi người nước ngoài sử dụng một từ để chỉ nhiều khái niệm (nhiều
nghĩa hoàn toàn khác nhau). Có thể thấy rõ hiện tượng này qua một số cuốn
từ điển cụ thể dưới đây.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Khoa học
xã hội Việt Nam thì “hội thẩm” được hiểu là: “đại biểu nhân dân cùng ngồi
xử án với các thẩm phán” [46, tr.461]. Cũng theo Từ điển này, “bồi thẩm” là
“thẩm phán cùng ngồi xét xử với chánh án trong một phiên tòa”. Theo Từ
điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thì “hội thẩm
nhân dân” là “Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án” [44, tr.387]. Từ
điển Hán Việt của Đào Duy Anh không đưa ra định nghĩa “hội thẩm” song có
giải thích nghĩa riêng rẽ của hai từ Hán Việt là “Hội” và “Thẩm”. Từ “Hội” có
nghĩa là: “Họp nhau - Cơ quan có nhiều người họp để làm việc - Gặp - Ý tứ
và sự lý hợp nhau - Bản lĩnh và sự tình hợp nhau” [2, tr.184]. Còn từ “Thẩm”
7


được hiểu là “Biết rõ tình hình - Khảo xét kỹ càng - Xử đoán”. Căn cứ vào
nghĩa của từng từ riêng rẽ, có thể hiểu “hội thẩm” là người thấu suốt tình lý
tham gia vào việc xử án. Điểm đáng lưu ý là, mặc dù không định nghĩa về
“hội thẩm” nhưng Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh lại giải thích về bồi
thẩm và chế độ bồi thẩm. Theo ông Đào Duy Anh, “Bồi” là: “Theo cho có
bạn - Giúp thêm - Làm tôi - Ở hai bên người khác” và “Bồi thẩm” là “Những
người do công dân cử lên để tham dự vào việc thẩm phán ở Pháp đình”. Còn
“Bồi thẩm chế độ” là “Khi Pháp viện xét án dân sự, trừ pháp quan còn có
những người do công dân hợp cách cử ra để thẩm tra tình hình sự thực, pháp
quan cứ theo quyết nghị của mấy người ấy để phán quyết. Mấy người ấy gọi
là bồi thẩm. Chế độ ấy thịnh hành nhất ở Anh và Mỹ” [2, tr.35]. Trong các

cuốn từ điển ở Việt Nam hiện nay, không thấy có Từ điển nào giải thích
thuật ngữ “phụ thẩm”. Tuy nhiên, khái niệm “phụ thẩm” được sử dụng rất
phổ biến trong các văn bản pháp luật ban hành trước năm 1950 như Sắc lệnh
số 13/SL, Sắc lệnh số 33/SL và trong cả bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta
- Hiến pháp năm 1946.
Nghiên cứu tài liệu nước ngoài đề cập đến vấn đề hội thẩm, trước hết
cần chú ý đến Cuốn sách Thuật ngữ pháp lý phổ thông (tập I) do tập thể các
nhà khoa học pháp lý Xô viết như I.A. Azovkin và các tác giả khác viết, Nhà
xuất bản “Sách pháp lý” xuất bản năm 1973, được dịch và công bố ở Việt
Nam vào năm 1986. Theo các tác giả của cuốn sách này ở mục “Hội thẩm
nhân dân” thì: “Việc xét xử các vụ án tại các tòa án cấp sơ thẩm do một thẩm
phán và hai hội thẩm nhân dân tiến hành. Công dân Liên xô có quyền bầu cử
và đủ 25 tuổi có thể được bầu làm hội thẩm nhân dân”. Với cách tiếp cận
này, có thể thấy chế định hội thẩm ở Liên xô (trước đây) cũng tương tự như ở
nước ta hiện nay.

8


Mở rộng nguồn tài liệu nghiên cứu sang các tài liệu khoa học pháp lý
phương Tây, Từ điển pháp lý (dictionnaire juridique) của Pháp định nghĩa:
Trong ngôn ngữ pháp lý tố tụng, thuật ngữ Hội thẩm (Assesseur) được
sử dụng để chỉ những người có thẩm quyền, thành lập và hoạt động theo thể
thức tập thể, hỗ trợ thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Thuật ngữ nói trên cũng còn
được dùng để chỉ tất cả những người nào tham gia vào việc đưa ra các quyết
định (phán quyết), bao gồm cả những thành viên không chuyên nghề xét xử
trong một số thiết chế tư pháp như Tòa án Thương mại, Tòa án về những vụ
việc liên quan đến an sinh xã hội hay Tòa án về những vấn đề nông thôn.
Từ điển Larousse giải thích nguồn gốc từ Hội thẩm (Assesseur) trong
tiếng Pháp bắt nguồn từ thuật ngữ “Assessor” của tiếng La tinh, có nghĩa là

“giúp đỡ hoặc đưa ra lời khuyên”. Các tác giả Từ điển Larousse cho rằng từ
“Hội thẩm” (Assesseur) trong tiếng Pháp có 4 nghĩa sau đây: 1) Là thẩm phán
giúp đỡ, hỗ trợ chủ tọa phiên tòa và nghị án cùng với ông ta; 2) Là danh từ
dùng để chỉ thành viên của một số thiết chế tư pháp đặc biệt (như Tòa án về
những vấn đề nông thôn hay Tòa thương mại liên quan đến các giao thương
trên biển) hoặc thành viên của các văn phòng bầu cử quốc gia; 3) Dưới thời
đế chế La Mã thống trị, hội thẩm (Assesseur) là những luật gia cố vấn có
nhiệm vụ hỗ trợ về mặt pháp lý cho các thẩm phán ra phán quyết; 4) Trong
chế độ cũ (trước cách mạng 1789 ở Pháp), hội thẩm là những người giúp đỡ
cho người đứng đầu các tổ chức tư pháp hoặc là những nhân viên tư pháp
tham dự hoạt động xét xử với các thẩm phán trong các phiên tòa hình sự.
Theo Từ điển phổ thông wikipedia.org trên mạng Internet thì:
Hội thẩm (Assesseur) là người ngồi bên cạnh một người khác để giúp
đỡ người này thực hiện chức năng, nhiệm vụ của họ và bổ sung, hỗ trợ họ khi
thấy cần thiết. Trong các quy định pháp luật, hội thẩm là người hoạt động
trong lĩnh vực tư pháp có chức năng hỗ trợ cho thẩm phán. Ở một nghĩa khác,

9


thuật ngữ Assesseur (Hội thẩm) còn được dùng để chỉ những người có nhiệm
vụ bảo đảm cho các cuộc bầu cử diễn ra suôn sẻ, nhất là trong việc kiểm tra tư
cách cử tri hoặc tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Ở Thụy Sĩ, người ta còn gọi
là Assesseur (Hội thẩm) những người là thành viên không giữ chức vụ chủ
tịch, thư ký hay kế toán trưởng trong cơ quan điều hành của các tổ chức xã
hội.
Từ những điều đã trình bày trên, có thể thấy, ở nước ta, chế định Hội
thẩm chính thức chỉ xuất hiện từ năm 1945 trở lại đây với hai tên gọi thay thế
nhau theo thời gian là “phụ thẩm” và “hội thẩm”. Có thể nói “phụ thẩm” và
“hội thẩm” là hai thuật ngữ tương đương ngang nghĩa nhau song khái niệm

“phụ thẩm” được sử dụng trước năm 1950. Từ năm 1950 đến nay, chúng ta
thống nhất dùng thuật ngữ “hội thẩm”. So sánh với quan niệm của các nhà
khoa học pháp lý Liên Xô trước đây, có thể thấy quan niệm của giới nghiên
cứu luật học Việt Nam về “hội thẩm” chịu ảnh hưởng của trường phái pháp
luật Xô viết.
Mặt khác, sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong xét xử làm tăng
cường tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm nhân
dân là những người được Hội đồng nhân dân cùng cấp tín nhiệm bầu ra, thay
mặt cho nhân dân tham gia hoạt động xét xử các vụ án sơ thẩm, đảm bảo cho
hoạt động xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Sự tham gia của
Hội thẩm trong xét xử vụ án tại Tòa án thể hiện sự tham gia của nhân dân vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thông qua hoạt động xét xử các vụ án của
Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp, để nhân dân tham gia
vào công việc của Nhà nước và xã hội, góp phần quan trọng trong việc đảm
bảo các bản án của Tòa án tuyên chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Mặt khác, Hội thẩm là người sinh
sống trong các cụm dân cư, làm việc trong cơ quan, xí nghiệp trường học, đơn

10


vị sản xuất… là người có kinh nghiệm hoạt động xã hội, có mối quan hệ khá
rộng với nhiều tầng lớp dân cư, nên có khả năng hiểu đặc điểm, hoàn cảnh,
tâm lý của người vi phạm pháp luật nói chung, người phạm tội nói riêng, từ
đó giúp Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phù hợp nguyện vọng
quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thông qua hoạt động của Hội thẩm nhân dân, Tòa án có điều kiện nắm bắt ý
kiến quần chúng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; giúp quần
chúng nhân dân hiểu rõ về hoạt động của Tòa án nói chung, hoạt động xét xử
nói riêng. Quần chúng nhân dân được nâng cao ý thức pháp luật, tự giác chấp

hành và bảo vệ pháp luật. Hội thẩm nhân dân còn góp phần tuyên truyền, phổ
biến pháp luật nói chung, kết quả xét xử các vụ án cho quần chúng nhân dân
nói riêng Là những người cùng sinh sống, làm việc trong các cụm dân cư, các
đơn vị sản xuất, các cơ quan hành chính, sự nghiệp; người có sự hiểu biết
pháp luật nhất định. Sau mỗi phiên tòa, Hội thẩm nhân dân trở về với dân cư
nơi sinh sống và nơi làm việc, nên Hội thẩm nhân dân có điều kiện phổ biến
pháp luật và kết quả xét xử vụ án của Tòa án cho quần chúng nhân dân [11].
Như vậy, hội thẩm là người đại diện của nhân dân, được bầu hoặc cử
theo quy định của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử những
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án để giúp Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và
đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu giải
quyết tranh chấp trong xã hội cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “địa vị” là: “Vị trí
cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt
được coi trọng nhiều hay ít” [46, tr.321].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người cho rằng con
người là một thực thể thống nhất giữa cái tâm sinh lý và cái xã hội. Sự tồn
tại của con người không tách được khỏi môi trường xã hội và xét về bản chất
11


thì con người (ở nghĩa cá nhân) là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tính đa
dạng trong quan hệ xã hội của mỗi người tạo nên địa vị xã hội của họ. Xét ở
một khía cạnh nào đó, địa vi pháp lý cũng là một bộ phận nằm trong địa vị
xã hội của con người, xác định vị trí của con người trong mối quan hệ với
những người khác.
Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý trực thuộc Bộ Tư pháp
định nghĩa địa vị pháp lý là:
Vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp

luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp
luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua
đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của
mình. Ví dụ: địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện thành tổng thể
các quyền và nghĩa vụ của công dân được hiến pháp và pháp luật quy định.
Một sự kiện pháp lý như chết, thương tích do tai nạn…, một hành vi pháp lý
như mua, bán, tặng, cho, để lại thừa kế tạo ra một loạt quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm… cho một chủ thể nhất định. Thông qua địa vị pháp lý, có thể phân biệt
chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem
xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp
luật [44].
Như vậy, “địa vị pháp lý” luôn gắn với chủ thể quan hệ pháp luật. Khi
đề cập đến “địa vị pháp lý” là nói về quyền và nghĩa vụ của một chủ thể quan
hệ pháp luật cụ thể, không có địa vị pháp lý chung chung.
Đời sống xã hội phức tạp và đa dạng làm nảy sinh vô vàn các quan hệ
chồng chéo, phức tạp, muôn hình vạn trạng. Tham gia vào các quan hệ xã hội
đó, mỗi người (bao gồm cả cá nhân, tổ chức) đều có những lợi ích riêng. Lợi
ích của các chủ thể quan hệ xã xã hội có thể cùng chiều, thống nhất với nhau
nhưng cũng có thể mâu thuẫn, xung đột với nhau. Để sự mâu thuẫn, xung đột

12


về mặt lợi ích không phá hoại sự ổn định xã hội, cần phải có sự điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng nhiều loại quy phạm
xã hội khác nhau: quy pháp đạo đức, tôn giáo, quy phạm của các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và quy phạm pháp luật. Các quan hệ xã hội
chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật được gọi là quy phạm pháp luật và
các bên tham gia vào quan hệ pháp luật được gọi là chủ thể quan hệ pháp luật.
Chủ thể quan hệ pháp luật luôn là những cá nhân, tổ chức cụ thể. Vị trí của cá

nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật trong mối quan hệ với các cá nhân,
tổ chức khác được gọi là địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức đó. Địa vị pháp
lý của cá nhân, tổ chức không tách rời khỏi cá nhân, tổ chức khi tham gia các
quan hệ pháp luật. Và ngược lại, chính qua địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức
thì cá nhân, tổ chức mới tồn tại với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật.
Hay nói cách khác, địa vi pháp lý của một cá nhân, tổ chức có được là do
pháp luật trao cho họ. Đây là điểm khác biệt quan trong giữa địa vị pháp lý
với địa vị xã hội nói chung. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua
việc thiết lập nên các quy tắc, mô hình hành vi chuẩn, hay nói cách khác,
pháp luật đưa ra các quy tắc xử sự chung buộc mọi người phải tuân theo. Pháp
luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể pháp luật. Toàn bộ
những quyền, nghĩa vụ pháp lý đó tạo thành địa vị pháp lý của chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật mà quy phạm pháp luật điều chỉnh. Địa vị pháp lý của
chủ thể pháp luật là do Nhà nước, qua việc ban hành các quy phạm pháp luật,
tạo nên, thể hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy
định cho các chủ thể đó.
Trong quan hệ pháp luật, tương ứng với quyền pháp lý của chủ thể
pháp luật này là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật khác. Lý luận nhà
nước và pháp luật xác định: nghĩa vụ pháp lý của chủ thể quan hệ pháp luật là
hành vi xử sự bắt buộc mà quy phạm pháp luật quy định trước mà một bên

13


của quan hệ pháp luật đó phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của các chủ thể
khác. Khác với quyền pháp lý, nghĩa vụ pháp lý không phải là khả năng xử sự
mà là sự cần thiết phải xử sự của chủ thể quan hệ pháp luật.
Như phần trên đã trình bày, hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo
quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án, nên địa vị pháp lý của hội thẩm và quyền và nghĩa vụ của

hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Hội thẩm, khi thực hiện nhiệm vụ xét
xử vụ án hình sự có những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật có liên quan. Bản chất
địa vị pháp lý của hội thẩm là các quyền pháp lý và nghĩa vụ pháp lý cụ thể
của hội thẩm khi tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự do pháp luật tố tụng
hình sự điều chỉnh.
Cho nên, có thể hiểu: Địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự
là nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của hội thẩm trong mối quan hệ với Tòa
án để cùng thẩm phán thực hiện chức năng xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra
được những quyết định trong bản án hình sự phù hợp với những quy định của
pháp luật hiện hành
1.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển quy định Hội thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 (trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988)
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8/1945), trong
những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên tất cả các
lĩnh vực. Nền kinh tế đất nước rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói
năm 1945; người dân không có việc làm; chế độ tài chính kiệt quệ, hầu như
không có gì phải kêu gọi nhân dân ủng hộ tiền, vàng cho cách mạng; trình độ

14


học vấn của nhân dân hầu như rất thấp, có tới 95% dân số toàn quốc hoàn
toàn mù chữ. Trong khi đó, nguy cơ ngoại xâm từ bên ngoài lấy danh nghĩa
đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Bắc, quân đội Tưởng Giới
Thạch tiến vào Hà Nội. Khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch mượn danh
nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Nam, quân đội Pháp

được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn. Bên trong đất nước, bọn
phản động người Việt được sự trợ giúp của đế quốc ngoại bang và tàn quân
của chế độ cũ nổi dậy chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân non trẻ để
thành lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình
hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, diệt giặc
dốt và diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung, trong
đó có pháp luật tố tụng hình sự được xây dựng thời kỳ này chủ yếu tập trung
phục vụ ba nhiệm vụ nói trên. Nhưng do tình hình hết sức khẩn trương lúc
bấy giờ, nên không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật cũng
như các văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết. Do đó, ngày
10/10/1945, nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các
luật lệ cũ ở ba miền Bắc, Trung, Nam, nhưng không được xâm phạm vào nền
độc lập quốc gia. Sắc lệnh quy định:
Cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam,
các luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên như cũ [6, Điều 1], với điều kiện Những
điều khoản trong luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này chỉ thi hành khi nào
không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa [6,
Điều 12].
Do tình hình đất nước lúc bấy giờ rất cấp bách trong bảo vệ nền độc lập
dân tộc nên vấn đề xây dựng pháp luật chưa có thời gian xây dựng, các văn
bản pháp luật được ban hành thường mang tính thời kỳ, phục vụ những nhiệm
vụ trước mắt. Tuy nhiên, hàng loạt văn bản liên quan đến hoạt động tư pháp

15


được ban hành. Sắc lệnh 33C ngày 13/9/1945 của Chính phủ lâm thời về
thành lập tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 và Sắc lệnh số 51
ngày 17/7/1946 về thành lập tòa án các cấp. Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946
khi xét xử có phụ thẩm nhân dân tham gia cùng thẩm phán. Các phụ thẩm

nhân dân có thể xin hồi tị với ông Chánh án, nếu có lý do chính đáng. Ông
Chán án có toàn quyền quyết định có nên cho hồi tị hay không (Điều 23). Hồi
tị là việc các thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân tự mình xin không tham gia
vào việc xét xử vụ án vì tự nhận thấy mình có quan hệ với vụ án có thể làm
cho việc xét xử không được công bằng. Đặc biệt, Hiến pháp 1946 đã quy
định: “khi xét xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý
kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là đại
hình” [21, Điều 65]. Như vậy, quy định về Phụ thẩm nhân dân (nay gọi là hội
thẩm nhân dân) tham gia cùng thẩm phán xét xử vụ án hình sự đã được quy
định ngay sau khi thành lập nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan điểm về Hội thẩm tham gia xét xử vụ án tiếp tục được quy định
tại các văn bản pháp luật những năm tiếp theo. Ví dụ, Hiến pháp năm 1959
quy định: “Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán” [22, Điều 99]. Trên cơ sở Hiến pháp quy định, Luật tổ chức Tòa
án nhân dân 1960 quy định: “Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân tham gia. Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra. Khi xét xử, hội
thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán” [7, Điều 11].
Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên sau khi giải phòng Miền Bắc
(1954), việc lựa chọn và sử dụng hội thẩm nhân dân để cùng thẩm phán tham
gia xét xử vụ án hình sự có nhiều vấn đề như. Trong Thông tư số 1671-HCTP
ngày 11/9/1956 của Bộ Nội vụ - Bộ Tư pháp về chấn chỉnh thực hiện chế độ
hội thẩm nhân dân đã nêu rõ: nhiều Ủy ban hành chính và Tòa án chưa chú ý

16


đúng mức đến việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân. Do đó, những hội
thẩm nhân dân thường trực đã điều động đi công tác khác hoặc những hội
thẩm nhân dân đã rơi rụng qua phát động giảm tô và cải cách ruộng đất,các

Ủy ban và Tòa án đều không cử người thay thế. Mỗi khi mở phiên tòa, thường
phải mời một số cán bộ chính quyền và đoàn thể làm hội thẩm nhân dân, việc
mời thường gặp nhiều khó khăn, có khi phải hoãn phiên tòa vì hội thẩm
nhân dân bận không đến được. Số hội thẩm nhân dân khu và tỉnh còn quá ít
mà số việc đưa ra xét xử lại nhiều, hội thẩm nhân dân lại bận luôn nên
không đảm bảo được chu đáo nhiệm vụ của mình. Do vậy, cần mở rộng
danh sách hội thẩm nhân dân nhằm phát triển việc nhân dân tham gia tư
pháp, đồng thời đảm bảo cho Tòa án được dễ dàng trong việc mời hội thẩm
nhân dân tham gia xét xử nhưng cũng chú trọng chất lượng của hội thẩm
nhân dân để đảm bảo cho việc xét xử được tốt, nâng cao được tác dụng của
hội thẩm nhân dân trong Tòa án.
Tiếp tục quan điểm nêu trên, Hiến pháp 1959 về Hội thẩm nhân dân
tham gia xét xử vụ án hình sự, Hiến pháp 1980, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
1981; Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 đều quy định rất
rõ vấn đề này. Ví dụ, Điều 130 Hiến pháp năm 1980 quy định:
Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo
quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm
phán. Chế độ bầu cử Hội thẩm nhân dân được thực hiện ở Tòa án nhân dân các
cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi;
nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân địa phương là hai năm [23,
Điều 130].
Trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án, các văn bản pháp luật tố
tụng hình sự đều quy định vị trí vai trò của Hội thẩm nhân dân tham gia vào
xét xử vụ án hình sự. Thông tư 377-TC ngày 25/4/1961 hướng dẫn việc tổ

17


chức bầu cử hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương nêu rõ,
Để thực hiện Điều 99 của Hiến pháp 1959 và điều 11 của Luật tổ chức

tòa án nhân dân 1960 quy định rằng việc xét xử các ở tòa án nhân dân có hội
thẩm nhân dân tham gia. Việc bầu cử hội thẩm nhân dân nhằm thực hiện sự
tham gia của nhân dân trong công tác xét xử để tăng cường tính chất nhân dân
trong tổ chức của tòa án nhân dân và để thắt chặt quan hệ giữa tòa án và nhân
dân. Chế độ hội thẩm nhân dân là một hình thức tham gia quản lý công việc
Nhà nước của đông đảo quần chúng. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân làm
cho tòa án xét xử được tốt vì các hội thẩm nhân dân sinh hoạt trong nhân dân,
hiểu rõ được những tư tưởng, tình cảm, phong tục tập quán của nhân dân, cho
nên với sự tham gia xét xử của hội thẩm nhân dân, tòa án xét xử được sát thực
tế và sát với nguyện vọng của nhân dân. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã
có một kinh nghiệm lớn là: nơi nào mà hội thẩm nhân dân tích cực tham gia
công tác tư pháp, thì công tác xét xử của tòa án rất tốt, công tác tuyên truyền
phổ biến pháp luật làm được nhiều, tư pháp xã hòa giải, dàn xếp được rất
nhiều việc xích mích, tranh chấp trong nhân dân, và do đó công việc của tòa
án cũng bớt đi được rất nhiều. Muốn thực hiện tốt chế độ hội thẩm nhân dân,
trước tiên phải thực hiện tốt việc bầu cử hội thẩm nhân dân.
Thông tư số 2421-TC ngày 29/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn việc thực hiện chế độ hội thẩm nhân dân có nêu: những việc xử vi
cảnh không phải có hội thẩm nhân dân tham gia vì những việc này là những
việc nhỏ, sự việc rõ ràng thuộc về công tác quản lý trị an chứ không phải là
một tội phạm. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân phải xét về bản chất sự
việc, cslaf xem xét bị cáo có phạm pháp không, trách nhiệm của bị can trong
việc phạm pháp nặng hay nhẹ v.v.... Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong
việc xét xử rất cần thiết vì hội thẩm nhân dân sát với thực tế, có thể góp phần
quan trọng làm cho việc xét xử của Tòa án được chính xác. Vì vậy, Điều 11

18


Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định là:

Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia. Hội thẩm
nhân dân do nhân dân bầu ra. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán; Điều 12 lại quy định cụ thể thêm: Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân
gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ,
giản đơn và không quan trọng thì Tòa án nhân dân có thể xử không có hội thẩm
nhân dân.
Nói chung, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia vào xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự mà không tham gia vào xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, Điều 12 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân có quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, khi xử phúc
thẩm Tòa án cũng có thể có thêm hội thẩm nhân dân”. Thông tư số 2421-TC
ngày 29/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thực hiện chế
độ hội thẩm nhân dân có quy định: để khắc phục tình trạng thiếu thẩm phán,
các Tòa án nhân dân nào thiếu thẩm phán có thể mời hội thẩm nhân dân ngồi
xử thay cho thẩm phán vắng mặt khi Tòa án xét xử phúc thẩm, nhưng phải
bảo đảm cho số thẩm phán chuyên trách nhiều hơn số hội thẩm nhân dân, tức
là Tòa án phải gồm có hai thẩm phán và một hội thẩm nhân dân.
Khi tham gia xét xử, Điều 19 Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
năm 1961 quy định: “Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm đến Tòa án để làm
nhiệm vụ của mình theo đúng ngày giờ mà Tòa án đã ấn định”. Tòa án phải
nhắc nhở các hội thẩm nhân dân thi hành nghiêm chỉnh quy định nói trên vì
nếu hội thẩm nhân dân không đến Tòa án hoặc đến Tòa án không đúng ngày
giờ mà Tòa án đã định sẽ làm trở ngại cho việc xét xử, gây thêm tổn phí cho
nhà nước và cho nhân dân. Thông tư số 2421-TC ngày 29/12/1961 của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn việc thực hiện chế độ hội thẩm nhân dân có quy
định: hội thẩm nhân dân cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án mà mình có nhiệm vụ
tham gia xét xử; hội thẩm nhân dân phải giữ bí mật việc thảo luận ở Tòa án về

19



×