hoµn thiÖn ®Þa vÞ ph¸p lý cña chÊp hµnh viªn
trong thi hµnh ¸n d©n sù t¹i ViÖt Nam
Hµ Néi – 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH
VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
8
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án
dân sự tại Việt Nam
8
1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên 30
1.3. Tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam
33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
CHẤP HÀNH VIÊN VÀ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY
ĐỊNH ĐÓ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
36
2.1. Quá trình hình thành và phát triển công tác thi hành án dân sự ở
Việt Nam
36
2.2. Pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong
thi hành án dân sự tại Việt Nam
45
2.3. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự từ năm 2004
đến nay
78
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TẠI VIỆT NAM
114
3.1. Quan điểm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong
thi hành án dân sự tại Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp
114
3.2. Giải pháp về hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên 115
KẾT LUẬN
125
NHỮNG BÀI BÁO ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ NĂM 2008-2009 LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN
127
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
128
Danh môc c¸c b¶ng
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự (về số việc) 81
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự (về tiền) 81
Bảng 2.3: Kết quả tự nguyện thi hành án qua các năm 93
Bảng 2.4: Cường độ lao động của Chấp hành viên 108
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi
mới của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói
đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội dung, bản chất dân chủ của chính
quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò
của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền lực của
nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu
cầu hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội,
quản lý nhà nước, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các
phán quyết của Tòa án và của các cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp
hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm 1992, khẳng định : Các bản án
và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang
và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua
hoạt động thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
tính nghiêm minh của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có
một ý nghĩa thực sự quan trọng đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương
phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài
phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công lý được thực hiện
trong cuộc sống.
Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua,
bên cạnh những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc
không có điều kiện thi hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện
tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng
1
những quyền hạn theo quy định của pháp luật của một số Chấp hành viên, cán
bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư luận xã hội… Còn về
phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho Chấp hành
viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng
hạn, muốn tổ chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ
những người tham gia công tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối
hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn về người và tài sản thì cơ quan thi
hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng chế thi hành án…Việc tổ chức
thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói riêng và của cơ quan
thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các
ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và
một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên
về pháp luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự, làm
công tác thi hành án dân sự trong những năm qua chưa đạt được kết quả như
sự mong đợi của xã hội.
Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ tám (Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về
công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và
xây dựng các quy định pháp luật về Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý
nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ
khác nhau liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt
2
động thi hành án dân sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc
sĩ luật học nghiên cứu sâu và toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.
Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh
của về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời
thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện
hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự và thực
trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp khắc phục
những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay.
Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa
phương và hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi
hành án dân sự (đào tạo nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ
đang làm công tác thi hành án dân sự trong các cơ quan thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để các Chấp hành viên chủ
động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả nhất, góp
phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại
Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những
công trình liên quan đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các
công trình nghiên cứu về đổi mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài
nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai đoạn mới" mã số đề tài:
2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài; Đề tài nghiên
3
cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” của
Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc
sỹ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới
tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn
thạc sỹ Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công
Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”; Luận văn
thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số vấn đề về tổ chức thi
hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội
của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án
dân sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả
Lê Anh Tuấn, với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận
văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả
Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn
đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”; Luận văn thạc sỹ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Hoàng Thế Anh,
với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiến
sỹ luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác
giả Nguyễn Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền
với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”.
Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn
sẽ tập trung nghiên cứu một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành
viên trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các
quyết định khác do pháp luật quy định. Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các
quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ của Chấp hành viên, trên cơ sở đó
4
luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình tổ chức
thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý
luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và
nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay
đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp
lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan
điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành
các bản án, quyết định ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp
lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
5
Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa
vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận
văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự; Những
quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành viên và thực trạng thực hiện những
quy định đó trong hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam từ năm 2004 đến
nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm,
nội dung, địa vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện
địa vị pháp lý của Chấp hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về cải cách tư pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử
- cụ thể, phương pháp luật học so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối
việc xác định địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện
6
hành, chỉ ra những điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm
còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về
thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thực tiễn
hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay, chỉ rõ những
hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến
nghị cụ thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án
dân sự tại Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về
hoàn thiện pháp luật cũng như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tổ chức thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần
nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự
v.v… tại các cơ sở đào tạo Luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà
nước là một trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi
phạm pháp luật, mọi tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem
xét giải quyết theo thẩm quyền và theo trình tự tố tụng. Khi một người bị
người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền làm
đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của Tòa án là giai đoạn
đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (cá nhân,
tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung
vụ việc và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và
nghĩa vụ này muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án.
Thực chất, việc thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của
Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác được thực hiện trên thực tế.
Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Các bản án và quyết định của Tòa
án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
được những người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án
và người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự
không tự nguyện, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi
hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Các
8
bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành đó là: Bản
án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu
lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
Tòa án và Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của
Trọng tài thương mại (gọi chung là bản án, quyết định) quy định tại Điều 1
Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luật thi hành án dân sự còn quy
định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành,
bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án,
quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo
hoặc kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp
thiết của người được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả
lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp
mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất
về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và Quyết định khẩn cấp
tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý
nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự,
kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản
pháp lý do các tổ chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc
dân sự hoặc kinh doanh thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có
quyền lợi bị xâm hại. Những phán quyết của Tòa án cũng như những phán
quyết của các cơ quan tài phán muốn được thực thi trên thực tế phải qua giai
đoạn thi hành án dân sự.
Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc
quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các
hành vi pháp lý nhằm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định của cơ quan khác do Nhà nước quy định.
9
Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy
định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án” [41, tr.705]. Công tác thi hành án dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ
Tư pháp.
Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng
xuất phát từ việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng,
nhưng chủ yếu là những quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ
dân sự; xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự. Người được thi hành án giữ vai trò
chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết định đưa ra những yêu cầu thi
hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có liên quan đến việc
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân
sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi
hành án, quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án
Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và
người phải thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy
nhiên việc thỏa thuận này phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức
xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa
thuận về các vấn đề như: thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án Cơ quan
thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói riêng có trách nhiệm theo dõi,
giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các bên đương sự.
Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án
hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
10
Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện
theo trình tự, thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao
tính linh hoạt. Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện
pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức
thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả cao nhất.
Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp
hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi
hành các bản án, quyết định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân
theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức
thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc
thẩm quyền của cơ quan nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ
đó, hoạt động thi hành án dân sự hiện nay được hiểu là hoạt động của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo một thủ tục, trình tự
nhất định được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định
của Tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày
14/11/2008 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã chủ trương xã hội hoá
một số công việc liên quan đến thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh
vực tư pháp nói chung, lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng nhằm từng bước
giảm bớt gánh nặng cho bộ máy, biên chế, ngân sách của Nhà nước phục vụ
công tác thi hành án dân sự thì chủ trương xã hội hoá một số công việc về thi
hành án dân sự được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay.
Chủ trương này đã được quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
đó là “Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ
tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số
11
công việc thi hành án…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên),
trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ
sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trong quá trình thảo
luận tại các kỳ họp của Quốc hội cũng có ý kiến đại biểu cho rằng nên đưa
quy định xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự thành một điều trong Luật
thi hành án dân sự để có cơ sở pháp lý triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Tuy nhiên, theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thì để thực hiện có hiệu
quả chủ trương này cần phải có bước đi thích hợp, trên cơ sở làm thí điểm sau
đó tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá khả năng thực hiện và hiệu quả của
việc thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án. Hơn nữa, do hiện nay việc
thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án (cụ thể là việc tổ chức thí điểm chế
định Thừa phát lại) chưa được triển khai nên chưa có cơ sở thực tiễn để đánh
giá và áp dụng. Do vậy, nhiều quy định về xã hội hoá một số công việc về thi
hành án dân sự chưa nên đưa vào trong Luật thi hành án dân sự mà chỉ nên
quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành án dân
sự. Cuối cùng, Quốc hội đã nhất trí quy định trong Nghị quyết về việc thi
hành Luật thi hành án dân sự, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương.
Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi
hành (từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012). Từ kết quả thí điểm, Chính
phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. Thực
hiện Nghị quyết của Quốc Hội, Bộ Tư Pháp đã khẩn trương xây dựng và trình
Chính phủ xem xét phê duyệt Nghị định về “Tổ chức và hoạt động của Thừa
phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”[39]. Và ngày
24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh
*
, trong đó quy
*
Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành
ngày 09/9/2009.
12
định những công việc của Thừa phát lại (Điều 3 của Nghị định) gồm:.Thực
hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự;
Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Xác minh điều kiện
thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Như vậy, việc tổ chức
thi hành án dân sự không chỉ giao cho cơ quan Nhà nước mà còn giao cho tổ
chức khác đó là Tổ chức Thừa phát lại, tuy nhiên đây mới chỉ hoạt động thí
điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 03 năm kể từ ngày
01/7/2009 đến ngày 01/7/2012.
Như vậy, có thể khái quát về thi hành án dân sự trong điều kiện mới
như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động có định hướng của Nhà nước được
thực hiện bởi các chủ thể do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện
trên thực tế các quyết định dân sự có hiệu lực thi hành bằng cách áp dụng
các biện pháp tác động phù hợp với pháp luật và tuân thủ các trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định.
2.1.1.2. Bản chất của thi hành án dân sự
Trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng, thi
hành án là một giai đoạn của quá trình tố tụng, diễn ra ngay sau giai đoạn xét
xử, được pháp luật tố tụng quy định. Thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ
pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố tụng tư pháp, với hai lý do cơ bản
như sau: thứ nhất, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở
và kết quả của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất
của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự; thi hành án dân sự là nhằm mục
đích thực thi các phán quyết của Tòa án, bảo đảm triệt để các quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước. Không có hoạt động thi hành
án thì mọi phán quyết của Tòa án cũng như các các quyết định khác chỉ là
trên bản giấy mà thôi. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử và
13
chịu sự chi phối của quá trình xét xử. Cho nên thi hành án không thể tách ra
khỏi quá trình tố tụng mà phải coi nó là giai đoạn tố tụng
1
; Thứ hai, thủ tục tố
tụng do nhiều cơ quan tiến hành, chẳng hạn như hoạt động điều tra vụ án hình
sự do cơ quan Kiểm lâm, Hải quan tiến hành được coi là hoạt động tố tụng
hình sự, trong khi các cơ quan này chỉ là các cơ quan hành chính được giao
quyền điều tra cho nên hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần
được coi là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Thi hành án dân sự là một dạng hoạt
động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến hành trong khuôn khổ
pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, tính chất chấp hành trong thi hành án dân sự có
những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó chủ yếu do cơ quan tư pháp hay
đối tượng phải thi hành tiến hành; Thứ hai, cơ sở để tiến hành các hoạt động
thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện trong các văn
bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định (văn bản áp dụng pháp luật)
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các
văn bản áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành
*
.
Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là dân sự một hoạt động hành
chính - tư pháp, thi hành án dân sự không thể là giai đoạn của tố tụng bởi vì
thi hành án có mục đích khác với bản chất và mục đích của tố tụng. Điều này
thể hiện ở chỗ, mục đích của tố tụng là xác định các chứng cứ để xác lập lại
trạng thái ban đầu của sự việc. Nói cách khác tố tụng là quá trình đi tìm sự
thật của các vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết theo
đúng các quy định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng
diễn ra theo một quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc
như bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích của người tham
1
Tạp chí Luật học số 5/1998 trang 43,44 Bài viết Mấy vấn đề về thi hành án trong việc soạn thảo Bộ luật tố
tụng dân sự của Nguyễn Công Bình.và giao trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật.
*
Chuyên đề một số vấn đề lý luận về thi hành án của PGS.TS. Lê Minh Tâm, Trường Đại học luật Hà Nội.
14
gia tố tụng và khi đã có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng kết
thúc. Trong khi đó, thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm
thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, và quyết định khác do luật định
đã có hiệu lực thi hành. Vì vậy, có thể nói tố tụng là quá trình đi tìm chân lý
để áp dụng công lý (pháp luật); còn thi hành án là quá trình thực thi chân lý
bằng công lý. Ở đây chân lý đã rõ, có tội hay không có tội, đúng hay sai đã
được phân xử rõ ràng, thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án , quyết định
của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác. Quá trình này có thể
do chính các chủ thể bị thi hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm
quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành án theo đúng nội dung bản án, quyết
định. Do đó, thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp bởi:, căn cứ để thi
hành án chính là các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của
Trọng tài thương mại Việt Nam, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Cá nhân tôi cho rằng thi hành án dân sự là một hoạt động hành chính -
tư pháp là quan điểm hợp lý nhất bởi những lý do sau: Thứ nhất, thi hành án
dân sự chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án hoặc
các quyết định khác do pháp luật quy định đã có hiệu lực pháp luật và trong
khuôn khổ luật định; toàn thể quá trình thi hành án với những hoạt động, biện
pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể
hiện trong các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài phán khác và tuân
theo các quy định cụ thể của pháp luật; Thứ hai, hoạt động thi hành án là dạng
hoạt động quản lý, vì thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành để
họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa
vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định. Thi hành án là quá trình
diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác, các bản
án, quyết định của tòa án và cơ quan tài phán khác là cơ sở để tiến hành các
hoạt động thi hành án, như chỉ khi có bản án, quyết định thì cơ quan thi hành
15
án dân sự mới ra quyết định thi hành án Vì vậy, có thể nói không có hoạt
động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên thi
hành án dân sự không phải là hoạt động tố tụng cuối cùng; bản án và quyết
định có hiệu lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt
động thi hành án; thi hành án đòi hỏi những nguyên tắc thủ tục và cách thức
hoạt động riêng, chẳng hạn, Tại Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004 đã quy định căn cứ để đưa ra thi hành án “Bản án, quyết định được đưa
ra thi hành khi có các căn cứ sau đây: Bản án, quyết định dân sự và Quyết
định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự”. Các bản án,
quyết định mới chỉ là “điều kiện cần” để tiến hành các hoạt động thi hành án.
Nhưng để tổ chức thi hành các bản án, quyết định thì phải có các “điều kiện
đủ” đó là các nguyên tắc, thủ tục, trình tự thi hành án dân sự. Vì vậy, thi hành
án dân sự không phải là giai đoạn tố tụng và không chỉ chịu sự điều chỉnh của
pháp luật tố tụng mà còn chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 2004 nay là Luật thi hành án dân sự năm 2008. Bản chất của hoạt động
thi hành án được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá
trình thi hành án dân sự;
Thứ hai, tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự;
Thứ ba, đặc thù trong các quan hệ thủ tục về thi hành án dân sự (đây
là vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi
hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính
- tư pháp, nhưng cần khẳng định rằng các quan hệ hành chính chủ yếu hơn.
Việc xác định thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng hay là hoạt động
hành chính - tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm sáng tỏ bản chất thi
hành án dân sự cũng như bản chất về địa vị pháp lý của Chấp hành viên.
16
Nhưng dù là quan hệ tố tụng hay quan hệ hành chính - Tư pháp, dù là người
của cơ quan tiến hành tố tụng hay là người có chức danh hành chính thì nhiệm
vụ của Chấp hành viên được quy định trong Luật là phải thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Vậy,
điều quan trọng nhất là để Chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định thì pháp luật phải tạo đủ điều kiện cho Chấp hành viên
thực hiện.
1.1.2. Khái niệm Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để
thực thi nhiệm vụ của cơ quan đó. Chẳng hạn, đối với cơ quan Tòa án thì
người thực hiện chức năng xét xử là Thẩm phán, hay đối với cơ quan Viện
kiểm sát thì người thực hiện chức năng công tố là Kiểm sát viên, đối với cơ
quan công an, người thực hiện nhiệm vụ điều tra các vụ án là các Điều tra
viên Tại các Cơ quan thi hành án dân sự đều có các cán bộ làm nhiệm vụ thi
hành án và các cán bộ làm các nhiệm vụ khác liên quan đến việc thi hành án,
như thủ quỹ, kế toán, thủ kho Nhưng người có nhiệm vụ, quyền hạn trực
tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác do pháp luật quy định được gọi là Chấp hành viên.
Tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quy định: Chấp hành
viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định
quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự và Điều 18 Luật Thi hành án dân
sự, quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên như sau:
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn
thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên.
2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau đây thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp:
17
a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên;
b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự;
c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp;
3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp;
4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp;
5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 2 Điều này, là sỹ quan
quân đội tại ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội
Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên
trung cấp và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy
định tại các khoản 2,3 và khoản 4 Điều này.
6. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công
tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên
ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển
7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn
quy định tại Khoản 1 Điều này, đã có thời gia làm công tác pháp luật từ 10
năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có
thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm
Chấp hành viên cao cấp”.
Theo quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì ngạch
Chấp hành viên gồm có Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp
huyện và được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ là 05 năm. Việc quy định ngạch bậc
18
của Chấp hành viên theo hai cấp đã phát sinh nhiều bất cập trong việc sắp
xếp, điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa các cơ quan thi hành án dân
sự trong phạm vi toàn quốc, không thu hút được cán bộ về công tác ở cơ quan
thi hành án dân sự và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Hơn
nữa, việc quy định Chấp hành viên theo hai cấp với mức chênh lệch về bậc
lương khởi điểm khá cao (Chấp hành viên cấp huyện có mức lương khởi điểm
là 2,16 và Chấp hành viên cấp tỉnh có mức lương khởi điểm là 3,62, như hiện
nay là chưa có cơ sở khoa học rõ ràng để phân loại năng lực, trình độ của
Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện nên không động viên,
khuyến khích được những người có tài năng và kinh nghiệm đã dẫn đến nhiều
bất cập trong thời gian qua [51].
Thực tế hoạt động thi hành án dân sự cho thấy tính chất, mức độ phức tạp
của các vụ việc thi hành án cũng khác nhau: có những vụ việc đơn giản nhưng
cũng có nhiều vụ việc phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành rất lớn, việc thi hành
liên quan đến nhiều địa phương, nhiều cấp, nhiều ngành, vụ việc có yếu tố nước
ngoài.v.v… đòi hỏi phải có những Chấp hành viên có năng lực chuyên môn, có
trình độ ngoại ngữ nhất định và giàu kinh nghiệm thực tiễn để tổ chức thi hành.
Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự công bằng giữa công sức mà
các Chấp hành viên bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ thì Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 (Điều 17) đã quy định chấp hành viên có ba ngạch:
sơ cấp, trung cấp và cao cấp dựa trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ,
năng lực, nghiệp vụ, thâm niên, kinh nghiệm công tác mà không phụ thuộc
vào đơn vị công tác (cơ quan thi hành án cấp huyện hay cơ quan thi hành án
cấp tỉnh) là rất hợp lý.
* Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên, pháp luật quy định có 03
ngạch Chấp hành viên cho nên mỗi ngạch Chấp hành viên có những tiêu
chuẩn bổ nhiệm khác nhau.
19
Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì tiêu
chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên bao gồm các yêu cầu chung về đạo
đức, có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ thi hành
án, có đủ sức khoẻ và thời gian làm công tác pháp luật theo quy định (từ bốn
năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp huyện và đã làm Chấp hành viên cấp
huyện từ năm năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp tỉnh).
Những người đủ tiêu chuẩn nêu trên sẽ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp
xem xét, quyết định bổ nhiệm chấp hành viên trên cơ sở Tờ trình đề nghị của
Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự địa phương
(mỗi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có một Hội đồng tuyển chọn
Chấp hành viên).
Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị “Cán bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được
đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh”. Do đó, Luật thi
hành án dân sự đã giữ nguyên tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên là phải có
trình độ cử nhân luật. Tuy nhiên, điểm mới nổi bật trong tiêu chuẩn bổ nhiệm
Chấp hành viên đó là quy định về thời gian làm công tác pháp luật và phải
trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên. Theo đó, tuỳ vào từng cấp bậc Chấp
hành viên và thời gian công tác pháp luật để được xem xét bổ nhiệm Chấp
hành viên cũng khác nhau, Một trong các tiêu chuẩn bắt buộc để được bổ
nhiệm làm Chấp hành viên đó là phải qua kỳ thi và trúng tuyển kỳ thi tuyển
Chấp hành viên ở các ngạch tương ứng. Quy định mới về thi tuyển Chấp hành
viên này nhằm khắc phục hạn chế trong quy trình, thủ tục tuyển chọn để bổ
nhiệm Chấp hành viên theo quy định của pháp luật hiện hành. Việc bổ nhiệm
Chấp hành viên thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn được người có đủ
tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm Chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán bộ
hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, cải
20
cách hành chính. Hơn nữa, việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển
cũng là phù hợp với định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị:
“Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức
danh tư pháp”.
* Về thời hạn bổ nhiệm Chấp hành viên
Quy định về việc bổ nhiệm Chấp hành viên có nhiệm kỳ 05 năm theo
Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 có những ưu điểm như: giúp cho lãnh đạo
Bộ Tư pháp rà soát, đánh giá lại số liệu, chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi
hành án dân sự trên phạm vi cả nước, đồng thời đòi hỏi Chấp hành viên phải
tự nhìn nhận, đánh giá, kiểm điểm lại chính mình, cả về phẩm chất, lẫn năng
lực chuyên môn; mỗi Chấp hành viên phải tự hoàn thiện mình, trau dồi đạo
đức, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nhằm hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác thi hành án.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó thì công tác bổ nhiệm Chấp
hành viên theo nhiệm kỳ đã phát sinh nhiều bất cập như: quy trình, thủ tục xét
bổ nhiệm Chấp hành viên thường phức tạp, kéo dài, đặc biệt khi thay đổi hoặc
khuyết thành viên của Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành
án dân sự thì thủ tục bổ nhiệm phải dừng lại để chờ kiện toàn cho đúng thành
phần của Hội đồng tuyển chọn. Mặt khác, việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo
nhiệm kỳ cũng tạo cho các Chấp hành viên có tâm lý không thật sự yên tâm
công tác mỗi khi sắp đến kỳ phải xem xét bổ nhiệm lại. Vì mỗi khi xem xét
hồ sơ bổ nhiệm lại có nhiều trường hợp các đương sự đã “trả thù” Chấp hành
viên bằng cách viết đơn thư tố cáo Chấp hành viên, hoặc chính trong nội bộ
cơ quan cũng có đơn thư khiếu nại, tố cáo nặc danh gây hoang mang cho các
Chấp hành viên và đôi khi Chấp hành viên còn có tâm lý “ngại” thi hành, nhất
là “ngại” tổ chức cưỡng chế thi hành án vì mỗi vụ việc tổ chức cưỡng chế
21