Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI HẠN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.77 KB, 59 trang )

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI
HẠN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về thời hạn trong tố tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm và ưy nghĩa của thời hạn trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không đưa ra một định nghĩa riêng về
thời hạn, tuy nhiên theo tinh thần Điều 96 BLTTHS có thể hiểu khái niệm
thời hạn trong Tố tụng hình sự là khoảng thời gian được xác định từ thời
điểm này đến thời điểm khác do Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho từng
hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cụ thể. Ví dụ: Thời hạn tạm giữ, thời hạn
tam giam áp dụng trong các biện pháp ngăn chặn, thời hạn điều tra áp dụng
cho giai đoạn điều tra, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm…
Thời hạn trong tố tụng hình sự không đơn giản là khoảng thời gian
vật chất được xác định để thực hiện công việc này hay công việc khác, mà
nó còn thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật. Nhà làm luật thể
hiện y chí của nhân dân thông qua việc xác định những thời hạn cần thiết
để tiến hành các hoạt động tố tụng. Như vậy, thời hạn trong tố tụng hình sự
là một đại lượng có tính khách quan được xác định thông qua y thức chủ
quan của các con người. Khách quan là bởi vì đó là khoảng thời gian vật
chất cần thiết để thực hiện hoạt động hay hành vi tố tụng nào đó. Chủ quan
là bởi vì chính con người, thông qua ưy thức của mình, cho rằng cần có
một lượng thời gian này hay lượng thời gian khác cho từng hoạt động, hành
vi tố tụng.
Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động phức tạp liên quan đến nhiều
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tiến hành tố tụng từ khi phát hiện tội phạm
đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định về khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ở mỗi giai đoạn phải đảm bảo trình tự
trước, sau và thủ tục tiến hành một cách chặt chẽ như: cách thức tiến hành
ra sao? Căn cứ nào? thẩm quyền đến đâu? thời hạn bao lâu?
1 1
Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của các Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án cũng như mối quan hệ


giữa các cơ quan đó với nhau. Mối quan hệ cấp trên- cấp dưới trong một cơ
quan tiến hành tố tụng cũng được xác định cụ thể trong tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo việc hoạt động tố tụng được tiến hành chặt chẽ, đúng pháp
luật, không tuỳ tiện, lạm quyền..
Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng: quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân.
Như vậy, thời hạn trong tố tụng hình sự thể hiện nhiệm vụ của luật tố
tụng hình sự là phát hiện, chính xác, nhanh chóng và xử lưy công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người y thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Tính xác định về thời gian, tính bắt buộc cho từng giai đoạn tố tụng,
hoạt động tố tụng (như điều tra, kiểm sát điều tra, xét xử, các biện pháp
ngăn chặn…) trong thời hạn bao hàm y nghĩa ràng buộc tất cả các cơ quan
tiến hành tố tụng phải tiân thủ pháp luật trên nền tảng pháp chế và dân chủ,
vừa tạo ra quyền để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đạt hiệu quả, mục
đích của luật tố tụng nào lại không gắn liền với một thời hạn nhất định để
đảm bảo được yêu cầu cả về hai phía: các cơ quan bảo vệ pháp luật thực
hiện tốt nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của mình và quyền lợi ích hợp
pháp của công dân được đảm bảo. Từ lúc khởi tố vụ án hình sự, thời hạn
các hoạt động tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng được quy định một cách
tuần tự, kế tiếp nhau. Nếu vụ án được giải quyết đầy đủ các bước tố tụng từ
lúc khởi tố đến khi xét xử, thì trình tự này được ví như một công trình được
nối tiếp nhau bằng ngày với ngày, tháng với tháng.
2 2
Ngay từ trước khi khởi tố vụ án hình sự. Luật tố tụng hình sự có
những quy định thời hạn nhằm đảm bảo yêu cầu phát hiện chính xác, nhanh

chóng mọi hành vi phạm tội. Điều 103 Luật này quy định thời hạn giải
quyết tố giác và tin báo về tội phạm để quyết định việc khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự là hai mươi ngày đối với sự việc đơn giản, hai tháng
đối với vụ việc phức tạp.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không được quá bốn tháng kể từ khi
khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn
điều tra do tính chất phức tạp của vụ án, trong thời hạn mười ngày trước
khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát
gia hạn điều tra… (Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự). Thời hạn bốn tháng
Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự là thời hạn tối đa để kết thúc điều tra. Cơ
quan điều tra có thể kết luận điều tra, đề nghị truy tố theo điều 163 Bộ luật
tố tụng hình sự sớm hơn đối với những vụ án ít nghiêm trọng, rõ ràng,
chứng cứ đầy đủ, mà không chờ đến hết thời hạn bốn tháng, cũng như đối
với những vụ án phức tạp cần phải tiến hành nhiều hoạt động nghiệp vụ
điều tra, đòi hỏi nhiều thời gian, thì trước khi hết hạn điều tra mười ngày,
cơ quan điều tra phải đề nghị viện kiểm sát gia hạn điều tra bằng văn bản.
Thời hạn mười ngày này cũng là tối đa để đề nghị gia hạn.
Trình tự kế tiếp giai đoạn điều tra là giai đoạn kiểm sát điều tra gắn
liền với thời hạn kế tiếp liên quan đến nhiều vấn đề của tố tụng hình sự.
Trình tự này là trình tự khép kín, chặt chẽ, không có hoạt động tố
tụng nào lại không bị ràng buộc bởi một thời hạn cụ thể, để đặt cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong tình trạng có ư y thức đề cao
tinh thần trách nhiệm về các hoạt động của mình đảm bảo thời gian quy
định mà vẫn đạt hiệu quả, đồng thời chống tuỳ tiện và những biểu hiện vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
3 3
1.1.2. Căn cứ xác định thời hạn
Việc xác định thời hạn một giai đoạn tố tụng hoạt động tố tụng mà cụ
thể, hợp lưy là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ đầy đủ
những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, bởi vì xác định thời hạn là

xác định chỉ tiêu về thời gian cho một hoạt động tố tụng cụ thể, buộc các cơ
quan tiến hành tố tụng trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao
phải tuân thủ nghiêm túc. Nếu việc xác định ấy hợp lưy thì chính nó đảm
bảo sự phân công quy trình tố tụng "phân công lao động" phù hợp, khắc
phục được tình trạng giam giữ quá hạn, án tồn đọng chậm thi hành án, là cơ
sở, là thước đo thời gian để các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình. Ngược lại, việc xác định thời hạn không phù hợp là
nguyên nhân của những vi phạm "dây chuyền" vì hoạt động tố tụng hình sự
là những công đoạn kế tiếp nhau về mặt thời gian giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Để một thời hạn trong tố tụng hình sự phù hợp thực tiễn, phù hợp với
các điều kiện kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu của tố tụng hình sự, khi quy
định cần căn cứ trên những cơ sở khoa học. Sau đây là những căn cứ cần
được tính đến khi xác định thời hạn trong tố tụng hình sự:
* Tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án
Theo quy định của pháp luật thì chỉ những hành vi nào nguy hiểm
đáng chể cho xã hội, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật Hình
sự bảo vệ thì mới coi là tội phạm. Bộ luật hình sự còn phân biệt tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng theo tiêu chí mức độ gây nguy hại cho xã hội v
à mức h ình phạt dư liệu trong Bộ luật hình sự (20, tr.19). Việc phân biệt
này có ưy nghĩa ly luận cũng như thực tiễn làm cơ sở để xác định những
thời hạn tương ứng với tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức
tạp của vụ án. Đối với một vụ án đã được khởi tố, mà tính chất của tội
phạm nghiêm trọng, có hậu quả gây nguy hiểm rất lớn cho xã hội, do nhiều
4 4
người, nhiều băng nhóm thực hiện: phạm tội dưới hình thức đông phạm
hoặc có tổ chức; xâm phạm nhiều khách thể; thực hiện nhiều địa bàn khác
nhau; độ ẩn của tội phạm cao (ví dụ: các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
các tội phạm về tham nhũng…) có đối tượng đã bị phát hiện, có đối tượng

bị nghi vấn hoặc chưa được xác định chính xác, có chứng cứ thu thập đã rõ,
có chứng cứ còn ẩn phải tìm tòi, đòi hỏi cơ quan điều tra phải tiến hành
nhiều hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng, bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ
đa dạng như hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, tổ
chức đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, giám định, uỷ thác
điều tra.. thì thời hạn điều tra phải dài hơn thời hạn điều tra những tội phạm
ít nghiêm trọng hơn.
Ngay cả thời hạn quy định cho việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trước khi quyết định khởi tố hoặc khởi tố vụ án
hình sự theo điểu 103 Bộ luật tố tụng hình sự cũng lấy tiêu chí tính chất
nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp hoặc
kém phức tạp của vụ án làm căn cứ xác định thời hạn dài hay ngắn. Chẳng
hạn, theo điều 103 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời hạn hai mươi
ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác
minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án
hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hay kiến
nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại
nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn,
nhưng không quá hai tháng.
Căn cứ tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ
án để xác định thời hạn, là căn cứ khoa học dựa trên định tính của sự việc
đề ra định lượng về thời gian để giải quyết sự việc. Có thể nói, căn cứ này
tỷ lệ thuận với độ dài ngắn của thời hạn. Không thể trong một khoảng thời
5 5
gian ngắn mà đảm bảo được hiệu quả tố tụng, cũng như không thể đạt được
hai yêu cầu vừa khẩn trương, vừa chính xác đối với những tội phạm rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, những vụ án phức tạp.
* Trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ tiến hành tố tụng

Hoạt động tư pháp là khâu quan trọng nhất của hoạt động áp dụng
pháp luật. Để có thể áp dụng một cách đúng đắn, đầy đủ, nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.. một trong những
yêu cầu đầu tiên và mang tính quyết định là trình độ, năng lực chuyên môn
của cán bộ tiến hành tố tụng. Hay nói cách khác, trình độ năng lực chuyên
môn của cán bộ tiến hành tố tụng quyết định phần lớn kết quả hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay ở
nước ta, khi mà đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và những
người tiến hành tố tụng khác đang từng bước nâng cao chất lượng về
nghiệp vụ, tiêu chuẩn hoá ở trình độ cao, đáp ứng yêu cầu khoa học ngày
càng phát triển và chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới thì trình độ
năng lực chuyên môn của cán bộ tiến hành tố tụng lại cũng là căn cứ quan
trọng để xác định thời hạn.
Trong bộ luật tố tụng hình sự hiện hành những quy định về thời hạn
điều tính toán đến khả năng thực hiện của con người, chẳng hạn:
Tại điều 111 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền hạn của
các đơn vị bộ đội biên phòng, hải quan, Kiểm lâm và lực lượng cảnh sát
biển:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp tội phạm tội quả
tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát
có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi
tố vụ án.
- Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi
6 6
tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho
cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án.
Hoặc, thời hạn điều tra bổ sung theo Điều 121 khoản 2 Bộ luật tố

tụng hình sự, rõ ràng là có căn cứ vào mức độ hoàn thành của từng giai
đoạn tố tụng để quy định những thời gian dài ngắn khác nhau.
Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung
thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng tính từ ngày cơ quan điều
tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
- Trường hợp vụ án do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn
điều tra bổ sung không quá một tháng.
Mức độ hoàn thành ấy do trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ
tiến hành tố tụng quyết định, cùng với điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật,
phương tiện nghiệp vụ mà các cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước
trang bị.
Nếu căn cứ thứ nhất (tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức tạp
phức tạp của vụ án) mang tính khoa học, thì căn cứ thứ hai (trình độ năng
lực chuyên môn của cán bộ tiến hành tố tụng) mang tính thực tiễn, cả hai
đều là những căn cứ chủ yếu để xác định thời hạn.
* Đảm bảo tính dân chủ trong Tố tụng hình sự.
Dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội là yêu cầu, là mục tiêu mà
chúng ta đang hướng tới.
Tố tụng hình sự Việt nam thể hiện các nguyên tắc tiến bộ, một mặt
yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật, mặt khác đòi hỏi phải bảo đảm quyền con người,
quyền và lời ích hợp pháp của công dân trong hoạt động tố tụng. Các
nguyên tắc này cùng chi phối cả việc xác định thời hạn trong tố tụng hình
sự. Như vậy bảo đảm tính dân chủ là một trong những căn cứ để xác định
thời hạn.
7 7
Thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam, thời hạn kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm v.v. thể hiện rõ nét việc bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo .. ví dụ, Điều 83, khoản 1 và Điều 86 khoản 3
Bộ luật tố tụng hình sự quy định sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong

trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời
khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự
do cho người bị bắt… Trong thời hạn 12giờ (trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988, thời hạn này là 24 giờ) kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết
định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc
tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết
định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả lại
tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thời hạn ra quyết định tạm giữ và thời hạn kiểm sát tạm giữ trên đây
bảo đảm quyền lợi của người bị nghi vấn có hành vi phạm tội, bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã.
Bằng những quy định thời hạn chặt chẽ trong tất cả các giai đoạn tố
tụng, pháp luật tố tụng hình sự đề cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động,
tránh mọi biểu hiện tuỳ tiện trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, bảo
đảm tính dân chủ trong tố tụng hình sự.
* Thực hiện chính sách hình sự trong từng giai đoạn cụ thể:
Trong thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, Nhà nước ta luôn đề ra chính
sách hình sự khác nhau, đáp ứng yêu cầu cụ thể của tình hình, nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước vào thời kỳ, giai đoạn đó.
+ Sau cách mạng tháng tám thành công, chính quyền dân chủ nhân
dân còn non trẻ, phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, bề bộn trăm công
nghìn việc kiên quyết trấn áp, trừng trị kẻ thù của nhân dân, bảo vệ chính
quyền cách mạng là nội dung chủ yếu, hàng đầu của chính sách hình sự.
8 8
Trong thời kỳ này, hầu như Nhà nước chỉ chú trọng luật nội dung và chỉ
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi công cộng là chính.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống mỹ, chính sách
hình sự của Nhà nước ta vẫn thiên về mặt chuyên chính với kẻ thù, tuy

nhiên thời kỳ này đã có một số văn bản quy định về thủ tục tố tụng hình sự:
- Luật số 103 - SL/1005 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân
thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà, đồ vật, thư tín của nhân dân.
- Sắc luật 002 - Slt ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm
pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp.
+ Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, chính
sách hình sự của Nhà nước ta vẫn nhất quán là công cụ chuyên chính vô
sản đối với kẻ thù của chế độ: kiên quyết trấn áp bọn phảm cách mạng,
trừng trị những kẻ xâm phạm đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao
động, cảnh giác cao độ với các thế lực thù địch trong và ngoài nước chưa từ
bỏ ưy đồ chống đối, muốn xoá bỏ thành quả cách mạng. Các quyền cơ bản
của nhân dân được đảm bảo tại sắc luật 02- Sl ngày 15/03/1976 của Chính
phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền nam Việt nam về bắt giam, giữ
người và khám xét đồ vật.
Có thể thấy rằng các thời hạn trong tố tụng hình sự có được quy định
trong các văn bản pháp quy đơn hành nhưng chưa hình thành được hệ
thống các quy phạm pháp luật ràng buộc hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, bộ luật tố hình sự 1985 và Bộ
luậttố tụng hình sự 1988 đã quán triệt và thể chế hoá đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta và đánh dấu một bước phát triển sự nghiệp pháp điển
hoá pháp luật. Lần đầu tiên việc xác định thời hạn cũng như trình tự, thủ
tục, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng được quy định một cách
chi tiết, có hệ thống, đáp ứng yêu cầu, mục đích nhiệm vụ của tố tụng hình
9 9
sự trong giai đoạn mới, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, do nhi?u lưy do, trong đó có ly do Bộ luật tố tụng hình sự
được nghiên cứu và xây dựng ngay trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi
mới nên trong quá trình thi hành. Bộ luật đã thể hiện những hạn chế và bất

cập. Mặc dù bộ luật đã được sửa đổi, bổ sung 03 lần vào các năm, 1990,
1992 và 2000 nhưng các lần sửa đổi, bổ sung này mới chỉ tập trung vào
một số nội dung cấp bách để đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm, chưa có điều kiện để sửa đổi một cách cơ bản
và toàn diện nên chưa khắc phục được những hạn chế và bất cập đó.
Cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, chủ
trương cải cách tư pháp đang được đẩy mạnh, Đảng và Nhà nước ta coi đây
là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt nam. Yêu cầu đặt ra là những hạn chế, bất cập của pháp
luật tố tụng hình sự cần được khắc phục nhằm đảm bảo nâng cao chất
lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ của
công dân, đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản pháp luật,
đáp ứng yêu cầu cải cách tự pháp, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm hiện nay. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời đáp ứng những
yêu cầu, đòi hỏi đó.
Việc xác định thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự rõ ràng cũng
căn cứ vào những đòi hỏi trên. Có thể nhận thấy rằng những quy định về t
hời hạn trng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chặt chẽ hơn, chính xác hơn,
phù hợp hơn. Đặc biệt, để tăng cường hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm trong thời kỳ mới, đồng thời vẫn đảm bảo các
quyền tự do, dân chủ của công dân, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã
quy định thủ tục tố tụng rút gọn và thời hạn tiến hành thủ tục tố tụng rút
gọn trong một chương mới (chương XXXIV từ điều 318 đến điều 324).
10 10
Thủ tục rút gọn trong hoạt động tố tụng không phải là mới ở nước
ta. Tuy nhiên tính cần thiết của việc quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 chính là thực hiện chính sách hình sự trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể.
Điều kiện bảo đảm tính dân chủ và điều kiện thực hiện chính sách
hình sự, mục đích, nhiệm vụ của tố tụng hình sự từng thời kỳ làm căn cứ

xác định thời hạn tưởng là đối lập nhau, nhưng đó là hai mặt của vấn đề thể
hiện bản chất tốt đẹp của pháp luật XHCN nói chung và y nghĩa tiến bộ của
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng.
Việc phân loại thời hạn trong tố tụng hình sự được tiến hành chủ yếu
dựa vào các giai đoạn tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là một quá trình,
trong đó các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự theo một
trình tự luật định nhằm phát hiện và xử ly tội phạm, khôi phục lại các quan
hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và để đạt được mục đích ấy, các cơ quan tiến
hành tố tụng cơ những hoạt động tố tụng khác nhau.
Các giai đoạn hoạt động tố tụng, theo nghĩa hẹp, bao gồm điều tra,
truy tố, xét xử mà chủ thể tiến hành các hoạt động này là cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, toà án.
Theo nghĩa rộng, hoạt động tố tụng hình sự bao gồm cả hành vi khởi
tố vụ án và giai đoạn hành án hình sự, như nội dung của tố tụng hình sự
hiện hành.
Các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định theo một trình tự về
thời gian, trước sau, dài ngắn khác nhau, có thể hoàn thành trong chu kỳ
hoặc có thể trở lại nhiều chu kỳ. Các giai đoạn tố tụng được giới hạn bằng
những khoảng thời gian, hay nói khác đi, có thể phân loại thời hạn theo
từng giai đoạn tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn điều tra và kiểm soát điều tra có những thời hạn quy
định cho cơ quan điều tra và viện kiểm sát tiến hành các hoạt động tố tụng
hình sự như:
11 11
- Thời hạn điều tra
- Thời hạn kiểm soát điều tra, quyết định việc truy tố.
- Thời hạn điều tra bổ sung
………..
Trong giai đoạn xét xử có nhiều thời hạn quy định cho toà án các cấp
tiến hành công tác xét xử như:

- Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
- Thời hạn hoãn phiên toà
- Thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án và quyết định hình sự sơ thẩm.
- Thời hạn xét xử phúc thẩm các bản án và quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị.
- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Thời hạn xét xử giám đốc thẩm.
- Thời hạn kháng nghị tái thẩm.
……
Thời hạn trong giai đoạn thi hành bản án và quyết định của toà án,
gồm có:
- Thời hạn ra quyết định t hi hành hoặc uỷ thác do Toà án khác cùng
cấp ra quyết định thi hành án.
- Thời hạn ra quyết định kháng nghị hoăc không kháng nghị giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án tử hình.
- Thời hạn hoãn thi hành án phạt tù
- Thời hạn gửi đơn xin âm giảm bản án tử hình.
Các thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn phục vụ hoạt động điều
tra, kiểm sát điều tra, xét xử như: tạm giữ, hạn tạm giữ, tạm giam, gia hạn
tạm giam được xếp thành một nhóm riêng để tiện cho việc nghiên cứu.
1.2. Thời hạn trong tố tụng hình sự
1.2.1. Thời hạn trong giai đoạn điều tra và kiểm sát điều tra
1.2.1.1. Thời hạn trong giai đoạn điều tra
12 12
Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự
của một trong những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là: Cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, toà án, đơn vị bộ đội biên phòng, Hải quan, kiểm lâm,
lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của công an nhân dân, quân
đội nhân dân và kết thúc khi cơ quan tiến hành hoạt động điều tra kết luận
điều tra vụ án, chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát hoặc quyết định đình chỉnh

vụ án.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự mở đầu một loạt các hoạt động tố
tụng quan trọng của các cơ quan điều tra nhằm đạt được kết quả điều tra vụ
án, và từ giai đoạn này các thời hạn cụ thể được tố tụng hình sự quy định
chặt chẽ, buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Theo điều 100 bộ luật tố tụng hình sự về căn cứ khởi tố vụ án hình
sự, thì tố giác của công dân, tin báo của cơ quan, tổ chức, tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng là một trong những cơ sở xác định dấu
hiệu tội phạm. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát có nhiệm vụ giải quyết tố
giác và tin báo về tội phạm trong phạm vi trách nhiệm của mình, để quyết
định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, theo điều 103 bộ luật
tố tụng hình .
Như vậy, ở thời điểm trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự,
đã có một thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm.
- Thời hạn đó là hai mươi ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Cơ quan điều tra phải kiểm tra xác minh
nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự đối
với vụ việc đơn giản không đòi hỏi phải mất nhiều thời gian xác minh hoặc
phải tiến hành nhiều biện pháp nghiệp vụ tại nhiều địa điểm khác nhau.
- Thời hạn tối đa là hai tháng kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo
về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong trường hợp vụ việc có nhiều tình
tiết phức tạp hoặc cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa
điểm khác nhau.
13 13
Thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm có y nghĩa rất
quan trọng. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát phải tiến hành ngay việc kiểm
tra, xác minh tin báo để đi đến quyết định hoặc không khởi tố, hoặc khởi tố
vụ án hình sự. Thời hạn giải quyết là thời hạn tối đa, tuỳ theo tính chấtcủa
vụ việc bị tố giác hoặc tin báo, và tuỳ theo yêu cầu của công việc kiểm tra,
xác minh.

* Thời hạn gửi quyết định khởi tố vụ án hình sự là hai mươi bốn giờ,
kể từ khi ra quyết định, được quy định cụ thể như sau:
- Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp
viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
điều tra, đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, kiểm lâm, lực lượng
cảnh sát biển và các cơ quan khác của công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và trong
trường hợp hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, viện kiểm sát phải gửi quyết
định đó đến cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
- Cơ quan điều tra, đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm
lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan của công an nhân dân, quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
trong quyền hạn của mình ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và tối đa là
hai mươi bốn giờ phải gửi quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan
đến việc khởi tố vụ án hình sự tới viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố.
- Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện
kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên hoà mà phát
hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Cũng trong
thời hạn mười bốn giờ, yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho
viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc khởi tố.
Các quyết định khởi tố vụ án hình sự không cần Viện kiểm sát phê
chuẩn nhưng tố tụng hình sự đề ra thời hạn ngắn nhất buộc các cơ quan có
14 14
thẩm quyền ra quyết định khởi tố phải gửi ngày quyết định khởi tố vụ án
hình sự cho viện kiểm sát, để đặt hoạt động tố tụng dưới sự kiểm sát chặt
chẽ của viện kiểm sát.
* Thời hạn điều tra:
Thời hạn điều tra được quy định cụ thể cho cơ quan điều tra chuyên
trách thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân, lực lượng an ninh nhân dân, Quân

đội nhân dân, cũng như các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra.
+ Thời hạn điều tra của bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực
lượng cảnh sát biển được quy định tại điều 111 bộ luật tố tụng hình sự và
các điều 19, Điều 20 điều 21, điều 22 pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự là:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả
tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra (như khám nghiệm hiện trường,
khám xét, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên
quan trực tiếp đến vụ án…) và chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát có thẩm
quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi
tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu (khám người, khám
xét, lấy lời khai…) và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền
trong t hời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Như vậy, thời hạn quy định tại điều 111 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình
sự dành cho Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát
biển làm nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có hai loại:
- Thời hạn điều tra (hai mươi ngày) Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã
tăng thời hạn điều tra từ 15 ngày (Theo bộ luật tố tụng hình sự 19888) lên
thành 20 ngày để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trên hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Đây là sự thay đổi cần thiết vì trình độ nghiệp vụ, cơ sở vật
15 15
chất, điều kiện, phương tiện phục vụ cho hoạt động điều tra của các cơ
quan này hạn chế hơn so với cơ quan điều tra chuyên trách.
- Thời hạn điều tra ban đầu (bẩy ngày) sau đó chuyển hồ sơ cho cơ
quan điều tra tiếp tục công việc điều tra, tuỳ theo tính chất mức độ của
hành vi phạm tội.
+ Thời hạn điều tra của các cơ quan khác trong lực lượng cảnh sát

nhân dân, lực lượng An ninh nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệưm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của
mình (Các cục Cảnh sát của Bộ nội vụ, các phòng cảnh sát, các cục khác
của Bộ nội vụ, các phòng khác của lực lượng an ninh nhân dân, đơn vị độc
lập cấp trung đoàn và tương đương trong quân đội nhân dân dân Việt
nam…) nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm, thì có quyền khởi tố
vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ
quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án, theo điều 111 khoản 2 bộ luật tố tụng hình sự và điều
23, điều 24 điều 25 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.
Thời hạn này cũng là thời hạn điều tra ban đầu, chuyển hồ sơ c ho cơ
quan điều tra tiếp tục công việc điều tra.
+ Thời hạn điều tra của các cơ quan điều tra chuyên trách trong lực
lượng cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, quân đội nhân dân được quy
định cụ thể tại điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự như sau: Thời hạn điều tra
vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không
quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không qua bốn tháng đối với
tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án
cho đến khi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ
án thì cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều
tra. Cụ thể:
16 16
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có t hể gia hạn điều tra một lần
không quá hai tháng. Thời hạn điều tra vụ án hình sự tối đa là bốn tháng
đối với tội phạm ít nghiêm trọng.
Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần,
lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng. Thời
hạn điều tra vụ án hình sự tối đa làm tám tháng đối với tội phạm nghiêm
trọng.

Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai
lần mỗi lần không quá bốn tháng. Thời hạn điều tra vụ án hình sự tối đa là
mười hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng.
Đối với tội phạm đạc biệt nghiêm trọng có thể gia hạn điều tra ba lần
mỗi lần không quá bốn tháng. Khi thời hạn gia hạn điều tra đã hết, nhưng
do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì
viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần
không quá bốn tháng. Như vậy, thời hạn điều tra vụ án hình sự đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể kéo dài hai mươi tháng, do gia hạn.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn t háng.
Thời hạn đề nghị gia hạn điều tra theo điều 119 khoản 2 bộ luật tố
tụng hình sự là mười ngày trước khi hết hạn điều tra. Thời hạn này bảo đảm
quyền lợi của bị can, chống sự tuỳ tiện của cơ quan điều tra giam giữ bị can
qúa hạn.
Các thời hạn nêu trên là thời hạn tối đa mà pháp luật cho phép. Trong
từng vụ án cụ thể cơ quan điều tra phải cố gắng để kết thúc điều tra sớm
nhất. Việc cho phép gia hạn điều tra cần căn cứ vào khối lượng công việc
phải thực hiện để gia hạn với thời gian phù hợp, có thể rút ngắn thời gian
gia hạn, không nhất thiết phải bằng mức bộ luật quy định.
Lần đầu tiên việc gửi quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định thay
đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can được Bộ luật tố tụng hình sự năm
17 17
2003 quy định cụ thể. Theo điều 126 khoản 4 và Điều 127, trong thời hạn
24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra phải gửi quyết định cho
viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn ba ngày kể từ
ngày nhận được quyết định của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải quyết
định phê chuẩn hoặc ra quyết định huỷ bỏ và gửi ngay cho cơ quan điều tra.
Trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa

bị khởi tố thì viện kiểm sát có quyền yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định
khởi tố bị can. Trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra mà
viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong
vụ án mà chưa bị khởi tố vì viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can và
gửi cho cơ quan điều tra trong thời hạn 24 giờ để tiến hành điều tra. Thời
hạn này đảm bảo tính chặt chẽ trong hoạt động giữ các cơ quan tiến hành tố
tụng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cơ quan trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
* Về việc khám xét, tại điều 141, khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự
quy định thời hạn phải thông báo việc khám xét xong cho viện kiểm sát
cùng cấp biết.
Trong trường hợp không thể trì hoãn, những người có quyền ra lệnh
bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo Điều 81, khoản 2 Bộ luật TTHS
có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong,
người ta lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho viện kiểm sát cùng
cấp.
* Các hoạt động điều tra khác như hỏi cung bị can, triệu tập người
làm chứng, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại; tổ chức đối chất,
nhận dạng: thu giữ thư tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; tạm giữ đồ
vật, tài liệu khi khám xét, kê biên tài sản: thực nghiệm điều tra; trưng cầu
giám định… đều được tiến hành trong thời hạn điều tra, sau khi có quyết
định khởi tố vụ án. Riêng khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
18 18
xem xét dấu vết trên thân thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình
sự.
Việc kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, đảm bảo việc điều tra được
khách quan toàn diện và đầy đủ. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện
các yêu cầu và quyết định của viện kiểm sát. Nếu cơ quan điều tra không
nhất trí với những quyết định và yêu cầu của viện kiểm sát như:

- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác.
- Quyết định không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra.
- Quyết định huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của cơ quan điều tra.
- Quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can.
Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành những có quyền kiến nghị với
viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thời hạn viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
phải xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết là hai mươi ngày,
kể từ ngày nhận được kiến nghị của cơ quan điều tra.
Khi kết thúc điều tra, cơ quan phải làm bản kết luận điều tra. Ttong
thời hạn hai ngay, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải
gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo
quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát cùng cấp
theo điều 162 khoản 4 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra
có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra để
giải quyết theo thẩm quyền: nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có
căn cứ thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra
phục hồi điều tra. (điều 164 khoản 4 bộ luật tố tụng hình sự).
19 19
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra,
cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho viện kiểm sát cùng cấp (điều
165 khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự.).
1.2.1.2. Thời hạn trong hoạt động, kiểm sát điều tra và quyết định
truy tố
Thời hạn điều tra kết thúc kể từ ngày cơ quan điều tra có bản kết
luận điều tra, chuyển hồ sơ vụ án sang viện kiểm sát đề nghị truy tố bị can

hoặc đình chỉ điều tra. Trong trường hợp cơ quan quan điều tra đề nghị truy
tố, thì viện kiểm sát tiếp tục tiến hành tố tụng, thể hiện bằng một trong
những quyết định:
- Truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng.
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Thời hạn để viện kiểm sát ra một trong những quyết định trên là hai
mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba
mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra.
Trong trường hợp cần thiết. Viện trưởng viện kiểm sát có thể gia hạn,
nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không qua
ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điều 166, khoản 1
Bộ luật tố tụng hình sự).
Như vậy, thời hạn để viện kiểm sát hoàn thành bản cáo trạng truy tố
bị can ra xét xử trước toà án, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án thường tối đa là ba mươi ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, sau mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ
ngày viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra của cơ
quan điều tra.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định
nêu tên, viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao
20 20
bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ
án cho bị can.
Cũng trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng
bản cáo trạng, viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến toà án.
Khác với quy định trước đây chỉ có một thời hạn chung đối với tất cả
các loại tội phạm dễ dẫn đến t ình trạng kéo dài thời hạn nghiên cứu hồ sơ
và ra các quyết định tố tụng cần thiết, làm chậm quá trình giải quyết vụ án,

thời hạn mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định cho viện kiểm sát
kiểm sát điều tra và quyết định việc truy tố có sự phân biệt cụ thể giữa các
loại tội phạm.
Trên cơ sở các quy định về thời hạn điều tra và thời hạn kiểm sát
điều tra, hoạt động của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trở nên nhịp nhàng hơn, có cơ sở khoa học
hơn, công khai và dân chủ hơn rất nhiều. Một mặt, các quy định này là điều
kiện về quỹ thời gian giúp cho cơ quan và người tiến hành tố tụng hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn, mặt khác đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Nếu không đăt ra thời hạn giải quyết những tin báo, tố giác về tội
phạm thì không thể giải quyết được khâu mấu chốt để xử lưy thông tin, đấu
tranh phòng chống tội phạm. Nếu không có những quy định về thời hạn gửi
quyết định khởi tố vụ án hình sự, thời hạn chuyển hồ sơ vụ án hình sự, thời
hạn điều tra ban đầu, thời hạn điều tra, thời hạn kiểm sát điều tra, sẽ dẫn
đến nguy cơ tuỳ tiện trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, hậu
quả là việc bắt người oan, sai giam quá hạn.. không đảm bảo được yêu cầu,
mục đích nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự.
Với các quy định về thời hạn trong giai điều tra, giai đoạn kiểm sát
điều tra cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, đặt ra như là một đòi hỏi bắt buộc đối với
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nâng cao tinh
thần trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ trong công tác điều tra, tuy tố. Trong
21 21
quá trình cơ quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra và viện kiểm sát
thực hiện chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự, cơ quan tổ chức, cá
nhân có quyền khiếu nại các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thời hạn mười lăm ngày
kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người
khiếu nại cho rằng có vi phạm pháp luật.
- Cụ thể, trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại về

quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, Phó thủ trưởng cơ quan điều
tra, thủ trưởng cơ quan điều tra phải xem xét giải quyết.
Nếu không đồng yư với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có
quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết.
Giải quyết của viện kiểm sát cùng cấp là giải quyết cuối cùng.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng cơ quan điều
tra và các quyết định tố tụng của cơ quan đsiều tra đã được viện kiểm sát
phê chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn bảy ngày.
Kể từ ngày nhận được khiếu nại. N?u kh פng đ?ng ư với kết quả giải quyết
thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Giải quyết của viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp là giải quyết cuối cùng. (Điều 329 bộ luật tố tụng hình
sự).
- Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại về quyết
định, hành vi tố tụng của kiểm sát viên, phó viện trưởng viện kiểm sát, viện
trưởng viện kiểm sát phải xem xét giải quyết.
Nếu không đồng ư y thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét
giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại và
đó là giải quyết cuối cùng.
22 22
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của viện trưởng viện kiểm sát
do viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười năm
ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại và đây là giải quyết cuối cùng. (Điều
330 Bộ luật tố tụng hình sự).
Với những quy định rất cụ thể như trên tại một chương hoàn toàn
mới chương XXXV - khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là cơ sở pháp
ly quan trọng để bảo đảm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo trong tố

tụng hình sự, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó góp phần nâng cao y thức
trách nhiệm đối với các hành vi tố tụng, hoạt động tố tụng của các cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình.
1.2.2. Thời hạn trong giai đoạn xét xử
1.2.2.1. Thời hạn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Giai đoạn chuẩn bị xứt xử sơ thẩm bắt đầu kể từ ngày toà án nhận
được hồ sơ do viện kiểm sát chuyển sang. Để có thể quyết định đưa vụ án
ra xét xử hoặc ra các quyết định tố tụng khác phù hợp với yêu cầu của
pháp luật, thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ nghiên
cứu hồ sơ, xem xét chứng cứ, xem xét việc định tội, định khung hình phạt,
nội dung bản cáo trạng, đảm bảo đúng người đúng tội, không sót, lọt tội
phạm, xem xét các biện pháp điều tra theo đúng quy định của pháp luật.
- Giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố
tụng như khiếu nại kêu oan, yêu cầu thay đổi biện pháp ngăn chặn, khiếu
nại hoạt động điều tra…
- Tiến hành các công việc cần thiết cho việc mở phiên toà sơ thẩm
như giao quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập những người tiến hành
tố tụng, công tác tổ chức phiên toà tại trụ sở Toà án hoặc phiên toà lưu
động….
23 23
Công tác chuẩn bị xét xử, vì thế, cần phải có một khoảng thời gian
nhất định để chuẩn bị.
Trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự, thời hạn chuẩn bị xét xử là hai
tháng đối với những vụ án mà pháp luật hình sự quy định phạt từ năm năm
tù trở xuống, bốn tháng đối với những vụ án mà pháp luật quy định hình
phạt trên năm năm tù, quy định tại điều 9 nghị định số 301 - ttg ngày
1010/7/1957. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quy định về thời hạn phải xét
xử, không gia hạn thời hạn đối với những vụ án phức tạp, không đề cập đến

trường hợp toà án có thể chưa xét xử ngay (quyết định điều tra bổ sung,
tạm đình chỉ vụ án), hoặc không thể xét xử được (đình chỉ vụ án).
Theo điều 176 bộ luật tố tụng hình sự, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm có khác nhau tuỳ theo tính chất của tội phạm.
Thời hạn đó là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn
mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ
ngày nhận hồ sơ vụ án. Trong thời hạn quy định chuẩn bị xét xử, thẩm phán
đưẹơc phân công chủ toạ phiên toà phải ra một trong những quyết định.
- Đưa vụ án ra xét xử
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
- Tạm đình chỉ vụ án.
- Đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, chánh án toà án có thể quyết định gia
hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội
phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày
đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông báo ngay cho viện kiểm
sát cùng cấp.
Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa là 45 ngày đối với tội phạm
ít nghiêm trọng, 60 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng ba mươi
24 24
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và ba tháng ba mươi ngày đối với
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn này cũng là thời hạn tối đa để toà
án nghiên cứu, xem xét ra quyết định trả hồ sơ cho viện kiểm sát, cơ quan
điều tra để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án.
* Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng quy định thời hạn phải mở
phiên toà sơ thẩm sau khi toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thời
hạn này là mười lăm ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử và
có thể kéo dài đến ba mươi ngày trong trường hợp có ly do chính đáng.

Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn
mười lăm ngày sau khi nhận được hồ sơ, thẩm phán được phân công chủ
tạo phiên toà phải ra quyết đình đưa vụ a ns ra xét xử.
Với những quy định rõ ràng, đầy đủ về thời hạn chuẩn bị xét xử,
thời hạn mở phiên toà buộc cơ quan xét xử phải chủ động tiến hành giải
quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn luật định, hạn chế việc để
án quá thời hạn, án tồn đọng mà nguyên nhân chính từ phía cơ quan tiến
hànhtố tụng.
* Thời hạn giao các quyết định của toà án.
Quyết định đưa ra vụ án xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ và người bào chữa, chậm nhất là mười ngày trước khi
mở phiên toà. Thời hạn này đảm bảo cho bị cáo, người đại hợp pháp của họ
và người bào chữa có điều kiện chuẩn bị nội dung tự bào chữa hoặc bào
chữa bảo vệ quyền lợi của bị cáo trước phiên toà.
Quưyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết định tạm
đình chỉ vụ án phải được gửi ngay cho viện kiểm sát cùng cấp.
Quưyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
phải được gửi ngay cho bị can, bị cáo, viện kiểm sát cùng cấp, trại tạm
giam mà nơi bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
* Thời gian xét xử vụ án
25 25

×