Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luan van tot nghiep CHUYÊN mục CHÍNH TRỊ và QUỐC tế của MẠNG ĐIỆN TỬ VIETNAMNET TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI TỪ 12007 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 88 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Học viện Chính trị - hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

chuyên mục chính trị và quốc tế của báo mạng điện tử vietnamnet
trong công tác thông tin đối ngoại ®èi víi
céng ®ång ngêi viƯt nam ë níc ngoµi tõ 1/2007 đến nay

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: THÔNG TIN ĐốI NGOạI

Ngời hớng dẫn:
h.S vũ hoài
Hà Nội - tháng 6/2010


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Đồng bào định cư ở nước ngồi là bộ phận khơng thể tách rời, là
nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp
phần tăng cường quan hệ Quốc tế, hữu nghị giữa nhân dân ta với các
nước”.[22;123] Đến nay, theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng 4 triệu người
Việt Nam đang sinh sống ở khoảng 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
hơn 80% ở các nước cơng nghiệp phát triển. Phần đơng bà con có cuộc
sống ngày càng ổn định và hòa nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất
định trong đời sống kinh tế, xã hội ở nước sở tại. Cuộc sống của cộng đồng
người Việt có ảnh hưởng ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa các
nước sở tại với Việt Nam. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
(NVNONN) là cộng đồng phức tạp về thành phần xã hội, xu hướng chính


trị và đa dạng về nghề nghiệp, tơn giáo…bị chi phối, phân hố bởi sự khác
biệt về giai tầng, hoàn cảnh ra đi, địa bàn cư trú và đặc biệt là chính kiến.
Tính liên kết, gắn bó trong cộng đồng khơng cao, sinh sống phân tán, khó
khăn trong sinh hoạt cộng đồng ở quy mơ lớn. Việc duy trì tiếng mẹ đẻ và
giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống đang là thách thức lớn đối với tương
lai của cộng đồng NVNONN.
Công tác thông tin đối ngoại (TTĐN) cho cộng đồng NVNONN qua
hơn 20 năm đổi mới đã góp phần khơng nhỏ vào những thành tựu chung
của đất nước. Chính vì vậy, trong bối cảnh lịch sử hiện nay cơng tác
TTĐN có vị trí to lớn và quan trọng hơn bao giờ hết. Đại hội X của Đảng
ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng
bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật sở tại, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của đồng bào”[22;123] cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết 36 của Bộ Chính Trị với tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ ổn định
cuộc sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng, có các chính sách để hướng về
q hương, góp phần xây dựng đất nước, thu hút, phát huy trí tuệ của trí
thức.

2


Thêm nữa, báo mạng điện tử Vietnamnet là một kênh thơng tin quan
trọng với hai chun mục Chính trị và Quốc tế dành nhiều chuyên trang
nhỏ riêng cho cộng đồng NVNONN như: đối nội, đối ngoại, Việt Nam và
thế giới…được rất nhiều độc giả quan tâm và theo dõi. Do đặc điểm không
thể không kể đến là ngăn cách địa lý, cộng đồng Việt kiều chỉ có thể tiếp
nhận thơng tin qua một số kênh thông tin cơ bản trong đó có báo mạng
điện tử Vietnamnet với hai chuyên mục chính này. Ngày 13/1/2004, báo
mạng điện tử Vietnamnet cho ra mắt tạp chí điện tử Người Viễn Xứ dành
riêng cho cộng đồng NVNONN. Nhưng cho đến nay, tạp chí đã ngừng

hoạt động được một năm và hai chuyên mục chính này đã trở thành tâm
điểm của độc giả Việt kiều. Với những ưu điểm vượt trội như: nguồn thơng
tin chính thống, cập nhật nhanh, có tính định hướng xã hội, tính tương tác
cao, tính đa phương tiện, khả năng liên kết lớn, khă năng lưu trữ và tìm
kiếm dễ dàng, hai chuyên mục Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện tử
Vietnamnet đã trở thành nguồn cung cấp thông tin khơng thể thiếu cho
cộng đồng NVNONN.
Vì vậy, cơng tác TTĐN của Đảng và Nhà nước Việt Nam với cộng
đồng người Việt khơng chỉ là một trong những chính sách đối ngoại của ta
mà còn là một nghệ thuật liên kết cộng đồng dân tộc Việt trong và ngoài
nước. Mặt khác, thơng qua đó ta có thể phát triển đất nước, có thêm điều
kiện để hội nhập kinh tế trong giai đoạn mới và nâng cao vị thế của Việt
Nam trên chiến trường quốc tế. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về công tác này
sẽ cung cấp cho sinh viên cái nhìn khách quan và cơ bản nhất về việc thực
hiện công tác TTĐN của một trong số những phương tiện truyền thông của
Việt Nam là báo mạng điện tử Vietnamnet.
Yêu cầu lí luận
Đề tài này xuất phát từ nền tảng kiến thức cơ bản được trang bị trong
nhà trường và u cầu địi hỏi của ngành học Thơng tin đối ngoại đặt ra
cho sinh viên. Khi nghiên cứu về đề tài này có thể nắm rõ chính sách
đường lối đối ngoại của Đảng trong đó có đường lối chính sách đối với
3


cộng đồng NVNONN, đồng thời yêu cầu vận dụng kiến thức cơ sở để đi
sâu và nắm bắt tình hình thực tế và tìm hiểu một trong những kênh thơng
tin quan trọng cho cộng đồng NVNONN là các chuyên mục của những
trang báo mạng điện tử.
Yêu cầu thực tiễn
Thực tế cho thấy nhu cầu được thông tin của cộng đồng

NVNONN là rất lớn. Từ khi chưa có các tiện ích của mạng Internet, thông
tin trong nước bằng nhiều cách vẫn đến được với họ thông qua nhiều kênh
khác nhau như báo, tạp chí, thơng tin từ những người đi về thường xuyên
trong nước và nước ngoài. Mạng Internet mở ra một thế giới thông tin đa
dạng và thỏa mãn phần lớn nhu cầu tìm hiểu thơng tin về mọi mặt đời sống
trong nước của người Việt Nam ở hải ngoại. Khơng chỉ muốn biết về tình
hình chung của đất nước, rất nhiều người Việt ở nước ngoài mong muốn
được trở về quê hương tạo dựng sự nghiệp, đầu tư cho quê hương, vừa
đóng góp vào sự phát triển của đất nước và cũng làm giàu cho bản thân.
Chính vì vậy, nhu cầu tìm hiểu những thơng tin trong nước như chính sách
đại đồn kết dân tộc hay thành tựu kinh tế xã hội, các vấn đề lớn đang diễn
ra trong từng thời kì hay chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước…
là vô cùng to lớn.
Cũng nhờ những tiện ích của mạng Internet với lượng thơng tin
khổng lồ, khó chọn lọc mà các thế lực thù địch, phản động trong và ngồi
nước có thể dễ dàng trà trộn, thực hiện chiến lược diễn biến hịa bình trên
mặt trận tư tưởng, đưa các thông tin sai lệch với đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước, đặc biệt là về chính trị làm lung lạc tinh thần và mất
lịng tin của nhân dân trong và ngoài nước, gây bất ổn cho đất nước. Đây
cũng là lý do khiến chúng ta càng phải cảnh giác cao độ trước các luồng
thông tin và đặc biệt chú trọng vào việc cung cấp thông tin, tuyên truyền
cho cộng đồng NVNONN để họ hiểu đúng, hiểu rõ và có những đóng góp
tích cực đối với sự phát triển chung của đất nước. Vì vậy, việc tìm hiểu về
4


cơng tác TTĐN cho cộng đồng NVNON có một ý nghĩa to lớn với mỗi
sinh viên đang theo học chuyên ngành.
Đó chính là những lí do khiến em lựa chọn đề tài: “Chuyên mục
Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện tử Vietnamnet trong công tác

TTĐN đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài từ tháng 1 năm
2007 đến nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Đây là một đề tài mà chưa có bất cứ một nghiên cứu nào đầy đủ và
rõ ràng. Đặc biệt là nghiên cứu riêng về một hay hai chuyên mục nào đó
của một trang báo mạng điện tử nhằm vào đối tượng cụ thể là cộng đồng
NVNONN. Tính đến thời điểm này chỉ có những nghiên cứu riêng lẻ,
những lí luận chung về cơng tác TTĐN, cộng đồng NVNONN và các đặc
trưng cơ bản của báo mạng điện tử :
Về công tác TTĐN bao gồm: “Công tác thông tin đối ngoại sau 3
năm thực nghị quyết Đại hội Đảng IX và phương hướng nhiệm vụ công tác
TTĐN hai năm 2004 – 2005”, của Đặng Đình Lâm.“Đối ngoại Việt Nam –
truyền thống và hiện đại” của TS. Nguyễn Mạnh Hùng và TS. Phạm Minh
Sơn năm 2008. “Thơng tin đối ngoại – lí luận và thực tiễn” của TS Phạm
Minh Sơn năm 2009. “Đài truyền hình Việt Nam với công tác thông tin đối
ngoại” của Vũ Hiền. Cùng với sự ra đời của Tạp chí thơng tin đối ngoại,
có rất nhiều bài viết, phân tích về thơng tin đối ngoại của Việt Nam hiện
nay: “TTĐN góp sức tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế” của Hồng
Vinh năm 2006, “Thành tựu nổi bật và những nhiệm vụ chủ yếu của cơng
tác TTĐN trong tình hình mới” của Phạm Xuân Thâu năm 2006.
Cộng đồng NVNONN là một đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm, được Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngồi thực hiện
một số cơng trình nghiên cứu. Có thể kể đến đề tài “Việc dạy tiếng Việt
cho người Việt Nam ở nước ngoài trong giai đoạn hiện nay” năm 2009
trong đó có những nghiên cứu về đặc điểm và số liệu cụ thể về cộng đồng
5


người Việt Nam ở nước: “Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đầu
thế kỷ XXI – Số liệu và bình luận” của TS. Trần Trọng Đăng Đàn tháng 2

năm 2006. “Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác vận động người Việt
Nam ở nước ngoài” của Nguyễn Phú Bình năm 2006. “Cơng tác vận động,
tập hợp thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài” của Đoàn Văn Thái
năm 2006. “Việc dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài trong
giai đoạn hiện nay” năm 2009.
Về chuyên mục của báo mạng điện tử thì chỉ có một số bài viết như:
“Báo chí điện tử và những giải pháp phát triển” trong chuyên đề Báo
mạng điện tử cuả TS Hoàng Mạc Thủy năm 2007. “Báo điện tử - thời cơ
và thách thức” của Lê Nghiêm năm 2007. Một số bài phát biểu của đồng
chí Tơ Huy Rứa, ủy viên Bộ Chính trị, trưởng ban tuyên giáo Trung Ương:
“Phấn đấu để báo chí nước ta phát triển đúng định hướng, mạnh mẽ và
vững chắc trong thời gian tới”.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sẽ nghiên cứu, tìm hiểu về số lượng, nhu cầu thông tin, khu
vực thông tin, khu vực phân bố chủ yếu và những thuận lợi và khó khăn
khi thực hiện cơng tác TTĐN với đối tượng này.
Đề tài sẽ đi sâu vào nghiên cứu và khảo sát và đánh giá một cách cơ
bản nhất về những thành tựu và hạn chế của hai chuyên mục trong thời
gian chúng hoạt động. Trên cơ sở đó phân tích một số nguyên nhân để có
được những thành tựu đó và cả những nguyên nhân của những hạn chế để
có một vài ý kiến về phương hướng, giải pháp mong muốn đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng hoạt động của hai chuyên mục Chính trị và Quốc tế.
Việc thực hiện đề tài khóa luận là một trong những phương pháp tốt
nhất để người nghiên cứu trang bị và bổ sung thêm vốn kiến thức về lĩnh
vực chuyên ngành đang theo học, khơng chỉ là những tài liệu mà cịn là
kinh nghiệm khảo sát thực tế. Em hy vọng cùng với những kiến thức được
tìm hiểu và phân tích đúng đắn, đây sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên
ngành TTĐN và là bài học kinh nghiệm cho việc làm báo của bản thân sau
này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6


Đề tài tập trung nghiên cứu vào hai chuyên mục Chính trị và Quốc
tế của báo mạng điện tử Vietnamnet trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm
2007 đến nay. Đây là hai chuyên mục nhỏ của trang báo mạng điện tử
Vietnamnet nhưng lại đảm đương một nhiệm vụ khá lớn trong công tác
TTĐN với một khối lượng độc giả là cộng đồng NVNONN khá lớn, thơng
tin có uy tín đã được khẳng định. Đề tài nghiên cứu về công tác TTĐN của
hai chuyên mục này với những thành tựu và hạn chế trong thời gian hoạt
động.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về hoạt động báo
chí đối ngoại nói chung và báo điện tử nói riêng trong cơng tác thông tin
đối ngoại. Việc nghiên cứu đề tài chủ yếu dựa trên các phương pháp phân
tích, tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt nhấn mạnh việc tổng kết
thực tế. Ngoài ra, do đề tài cần nhiều số liệu nên có dùng đến phương pháp
điều tra, khảo sát, thống kê.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học
- Làm sáng tỏ hơn nữa cơ sở lý luận về công tác TTĐN với cộng
đồng NVNONN trên hai chuyên mục Chính trị và Quốc tế của báo mạng
điện tử Vietnamnet.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động công tác TTĐN của hai
chuyên mục Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện tử Vietnamnet qua
các bài viết từ năm 2007 đến nay.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng
của hoạt động TTĐN với cộng đồng NVNONN qua hai chuyên mục
Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện tử Vietnamnet.
7. Kết cấu đề tài

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm 3 chương :
CHƯƠNG 1: Lý luận chung về công tác TTĐN và Cộng đồng
NVNONN: tập trung nghiên cứu và tổng kết cơ sở lý luận về cơng tác
TTĐN nói chung và cơng tác TTĐN của Đảng và Nhà nước ta với đối
7


tượng là cộng đồng NVNONN. Bên cạnh đó cịn nêu lên nhu cầu thơng tin
và tình hình của cộng đồng NVNONN trên một số địa bàn chính quan
trọng.
CHƯƠNG 2: Thực trạng hoạt động của chuyên mục Chính trị
và Quốc tế trong công tác TTĐN với cộng đồng NVNONN từ tháng 1
năm 2007 đến nay: khái quát những đặc điểm chính của chuyên mục
Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện tử Vietnamnet, đi sâu khảo sát
thực trạng công tác thông tin đối ngoại trên báo mạng điện tử Vietnamnet
ở hai chuyên mục Chính trị và Quốc tế đồng thời chỉ ra những nguyên
nhân dẫn đến ưu điểm và khuyết điểm đó.
CHƯƠNG 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chuyên
mục Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện tử Vietnamnet trong thời
gian tới: nghiên cứu và tìm hiểu về những định hướng đổi mới cơng tác
TTĐN của Đảng và Nhà nước, công tác nâng cao chất lượng hoạt động của
báo mạng điện tử trên cơ sở đó đề ra một số phương hướng và giải pháp
nhằm phát triển hơn nữa công tác TTĐN của hai chuyên mục Chính trị và
Quốc tế của báo mạng điện tử Vietnamnet.

8


CHƯƠNG 1:

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TTĐN VÀ CỘNG ĐỒNG
NVNONN
1.1. Lý luận chung về công tác thông tin đối ngoại
1.1.1.

Khái niệm TTĐN
Thơng tin là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng

phổ biến và khái quát nhất trong cơng tác TTĐN, ta có thể hiểu:
“Thơng tin là tin tức, thông báo, tri thức về một sự vật hay một
tượng được chức đựng trong các hình thức nhất định, được tiếp nhận, lựa
chọn và sử dụng qua các phương tiện thích hợp” [31;16]. Cịn “Đối ngoại” là
“đối với nước ngồi, bên ngồi, nói về đường lối, chính sách, sự giao
thiệp của Nhà nước, của một tổ chức, phân biệt với đối nội” [40;..]. Vì vậy, ta
có thể cho rằng thông tin đối ngoại là dạng thông tin được truyền ra nước
ngồi, phục vụ cơng tác đối ngoại của Nhà nước hay một tổ chức.
9


Ngày 26/4/2000, thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 10/2000/CT- Ttg
về tăng cường quản lí và đẩy mạnh cơng tác TTĐN trong đó nêu :“Thơng
tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng và đối
ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho thế giới hiểu rõ
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công
cuộc đổi mới của Việt Nam, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của dân
tộc Việt Nam; đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, chống phá
Việt Nam; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ bạn bè Quốc
tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước ngoài với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[31;17] Như vậy, cái đích mà cơng tác TTĐN
hướng tới không chỉ là cung cấp thông tin, đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông

tin của đối tượng trong đó có cộng đồng NVNONN mà cịn là tun
truyền, làm họ hiểu và có những biến chuyển tích cực trong thái độ: “ủng
hộ” và “đóng góp” cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, TTĐN ln có vị trí
quan trọng trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả đất nước và nhân
dân, tranh thủ sức mạnh sự hợp tác và hỗ trợ của Quốc tế để giành thắng
lợi ngày càng to lớn hơn. Bên cạnh đó trong xu thế hội nhập Quốc tế hiện
nay, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không mở của
giao lưu với các quốc gia khác trên thế giới. Do vậy, cung cấp thông tin từ
Việt Nam ra thế giới và từ thế giới đến Việt Nam ngày càng lớn mạnh và
bức thiết.
1.1.2.

Vai trò và nội dung cơ bản của công tác TTĐN
Trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, TTĐN ln ln có vị

trí quan trọng trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc đấu tranh
chính nghĩa của chúng ta, tối đa hóa nội lực, tranh thủ sự hợp tác và ủng hộ
của bạn bè và anh em trên thế giới để giành thắng lợi to lớn hơn. Nhất là
trong giai đoạn hội nhập quốc tế như hiện nay, đối ngoại trở thành một
trong những chức năng cơ bản của quốc gia. Lợi ích quốc gia luôn được
10


đặt lên hàng đầu trong quan hệ đối ngoại giữa quốc gia này với chủ thể
khác là quốc gia khác trên thế giới. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh, các quốc
gia đều tăng cường TTĐN – một trong những công tác quan trọng để thực
hiện nhiệm vụ đối ngoại của mình.
Khơng có một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không
quan hệ và hợp tác với nước khác. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi quy

luật đó. Việt Nam ngày càng tìm hiểu sâu, rộng về thế giới và cũng để thế
giới hiểu rõ về Việt Nam, qua đó tìm kiếm các cơ hội hợp tác và phát triển.
Do vậy công tác TTĐN ngày càng lớn mạnh và bức thiết hơn bao giờ hết:
TTĐN làm cho thế giới hiểu về con người, đất nước, giá trị vật chất, tinh
thần của Việt Nam, về đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi
mới của Việt Nam, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của thế
giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
TTĐN cũng làm cho nhân dân Việt Nam đón nhận những thành tựu
khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm quản lí, sản xuất và những tinh hoa văn hóa
của các dân tộc trên thế giới. TTĐN cũng góp phần xây dựng tình đồn kết
giữa giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đặc biệt là đối
với nước ta, giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử lớn lao mang tính quốc
tế hơn bao giờ hết. Ngồi ra, TTĐN cịn đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc
gia, làm rõ quan điểm của Việt Nam về các vấn đề tồn cầu như mơi
trường, dân số, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo…TTĐN đấu tranh dư luận,
loại bỏ những thông tin sai lệch, những luận điệu bôi xấu, xuyên tạc.
Trong từng giai đoạn và địa bàn cụ thể, TTĐN có những nội dung
trọng tâm khác nhau, tuy nhiên có nội dung cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt
động TTĐN. Đối với đất nước ta, trong giai đoạn hiện nay thì TTĐN có
một số những nội dung cơ bản như sau:
“Giới thiệu rộng rãi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta cũng như những thành tựu đã đạt được trong những năm đổi mới” [31;31].
11


Theo đó, nội dung thơng tin phải thể hiện qua những điểm cơ bản: làm rõ
chủ trương, đường lối chính sách về sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đường lối đối ngoại độc lập, hịa bình, rộng mở, các chính
sách phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Những thơng tin này
góp phần làm cho thế giới hiểu đúng và rõ về tình hình mọi mặt và công

cuộc đổi mới của đất nước, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta. Đồng thời cũng là chủ động cung cấp thơng tin cho các
đối tác nước ngồi muốn đầu tư, làm ăn tại Việt Nam, giải đáp những thắc
mắc của họ về cơ chế, chính sách. Xây dựng sự tin tưởng đó sẽ mở rộng
cơ hội đầu tư cho nước ta trong phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Ngồi ra, TTĐN cũng thơng tin tốt về các sự kiện quan trọng của đất nước
như: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Việt Nam tổ chức
thành công diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam được
bầu làm Ủy viên khơng thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…..
“Thông tin, giới thiệu đường lối và chính sách đối ngoại bao gồm cả
chính sách kinh tế đối ngoại”[31;34]. Chính sách đối ngoại có ảnh hưởng trực
tiếp tới mối quan hệ trực tiếp của Việt Nam với các nước khác trên thế
giới. Vì vậy, thơng tin về chính sách đối ngoại của nước ta là hết sức cần
thiết để thể hiện rõ thái độ, quan điểm của Việt Nam trong các vấn đề quan
hệ quốc tế. TTĐN phải làm rõ: “đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa
bình, hợp tác, phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với quốc tế trên các lĩnh vực
khác.Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác khu vực và quốc tế.”[22;115]
“Giới thiệu về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của Việt
Nam”[31;37]. Thời đại ngày nay là thời đại bùng nổ thơng tin, tồn cầu hóa
phương tiện thơng tin đại chúng. Theo đó, sự ràng buộc của các nước trong
quan hệ quốc tế ngày càng tăng lên, các giá trị văn hóa đó cũng trở nên phổ
12


biến từ quốc gia này đến quốc gia khác. Giới thiệu và bảo tồn nền văn hóa
dân tộc đang được Chính phủ hết sức coi trọng. Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII của Đảng ta đã xác định: “Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất

nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giái trị
nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài. Ngăn ngừa sự xâm nhập các
sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy. Giúp đỡ cộng đồng người nước
ngoài ở Việt Nam hiểu biết về tình hình nước nhà, thu nhận tư tưởng và
sản phẩm văn hóa từ trong nước, nêu cao lịng u nước…”[15]
“Đấu tranh với những thơng tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc về Việt
Nam của các thế lực chống đối, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền tồn
bộ lãnh thổ quốc gia”[31;40]. Trong tình hình hiện nay, tuy hịa bình, hợp tác
vẫn là xu thế hàng đều trong quan hệ quốc tế nhưng các thế lực chống đối
không phải đã từ bỏ âm mưu muốn lật đổ chế độ chính trị, xã hội nước ta.
Trên thực tế, chiến lược Diễn biến hịa bình ngày càng can thiệp vào tất cả
các lĩnh vực trong đời sống nước ta. Vì vậy, TTĐN phải có nhiệm vụ là
tiếng nói đại diện cho cả đất nước với quốc tế, chủ động và kịp thời bác bỏ
những thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc về Việt Nam. Trên mặt trận
khơng tiếng súng chống diễn biến hịa bình này, vai trị của hoạt động
TTĐN là vơ cùng to lớn, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta quyết tâm
đi theo.
“Thông tin quốc tế”.[31;42] Nội dung của TTĐN phải đáp ứng được
nhu cầu về thông tin vô cùng to lớn của con người là nội dung của chính
sách đối ngoại của chính phủ nước mình hay sự kiện chính trị, xã hội…
diễn ra trên tồn thế giới, các quốc gia, dân tộc khác. Vì vậy, nội dung của
hoạt động TTĐN đóng vai trị như một chiếc cầu nối đời sống trong nước
với nhịp điệu sôi động bên ngoài, kết nối nhân dân Việt Nam với nhân dân
tồn thế giới. Việc cung cấp thơng tin có tính định hướng khơng chỉ giúp
người dân có lập trường quan điểm, thái độ đúng đắn với các vấn đề, sự
13


kiện trên thế giới mà còn là cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách, các

chính trị gia đưa ra những chủ trương sát với tình hình thế giới. Nhưng bên
cạnh đó, nội dung thơng tin quốc tế cũng cần phải chọn lọc để phù hợp với
văn hóa, với phong tục của dân tộc có tính định hướng trên cơ sở chủ nghĩa
Mác Lênin và đường lối chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thông
tin phải phục vụ cho lợi ích quốc gia, thể hiện tình u hịa bình, quan hệ
hữu nghị giữa Việt Nam và các nước khác.
1.1.3.

Phương châm triển khai công tác TTĐN
Ngay từ những năm 1962, khi mà công tác TTĐN mới bước những

bước đi đầu tiên, Đảng ta đã xác định: “Công tác tuyên truyền đối ngoại là
một bộ phận của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên
phạm vi tồn thế giới. Cơng tác tun truyền đối ngoại góp phần tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho cách mạng nước ta tiến lên, đồng thời góp phần
thực hiện những nhiệm vụ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.”[12]
Ngày 10/5/1962, Bộ Chính trị ra chỉ thị số 45- CT/TW về công tác
tuyên truyền đối ngoại cũng đặt ra yêu cầu cụ thể như sau: “Phương châm
của tuyên truyền đối ngoại của ta là: chân thật, chính xác, sinh động, sinh
động, kịp thời và hợp đối tượng”[12]
Trong đó, chân thật: cơng tác tun truyền ra ngồi phải phản ánh
thực tế một cách chân thật, có nội dung tư tưởng đúng đắn… Chính xác:
Việc giới thiệu tình hình nước ta ra bên ngồi phải chính xác khơng những
về mặt chủ trương, chính sách mà cịn cả tài liệu, số liệu…Tránh những sơ
hở địch có thể lợi dụng xuyên tạc. Sinh động: nội dung và hình thức tuyên
truyền phải sinh động, hấp dẫn và phong phú. Ngoài tuyên truyền qua
sách, đài, báo chí cần vận dụng hơn nữa những hình thức khác như triển
lãm, biểu diễn nghệ thuật, phim, báo ảnh, tranh ảnh, đĩa hát, bưu thiếp…
Kịp thời: công tác tuyên truyền đối ngoại phải theo sát và phục vụ kịp thời
những nhiệm vụ đấu tranh chính trị lớn trong nước và trên thế giới, nhất là

14


việc vạch rõ âm mưu của địch và bày tỏ thái độ, lập trường của ta. Hợp đối
tượng: đối tượng là nhân dân trên các nước khác nhau trên thế giới. Vì vậy
phải làm cho cơng tác tun truyền đối ngoại sát nhu cầu.
Ngày 26/4/2000, thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 10/2000/CT-Ttg
về tăng cường quản lí và đẩy mạnh công tác TTĐN và nhấn mạnh :
- “Tất cả các bộ ngành, địa phương, các cấp đều có trách nhiệm chỉ
đạo và tổ chức thực hiện công tác TTĐN trong phạm vị quản lí của mình.
- Cơng tác TTĐN cần được triển khai trên diện rộng, song có trọng
tâm, trọng điểm, trước hết là đối với láng giềng, và các nước trong khu
vực, cộng đồng NVNONN, ưu tiên cung cấp thơng tin định hướng cho
người nước ngồi đến Việt Nam sinh sống, làm việc, du lịch, học tập và
các nhà Việt Nam học trên thế giới.
- Tổ chức, phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực
lượng làm công tác TTĐN: giữa các lực lượng chuyên trách nòng cốt với
cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài, các đoàn ra nước ngoài, người Việt
Nam sinh sống và làm việc tại nước ngoài, cũng như bạn bè quốc tế, giữa
thông tin đối ngoại và thông tin đối nội, giữa hoạt động TTĐN với hoạt
động chính trị, văn hóa, kinh tế, giữa ngoại giao nhà nước và đối ngoại
Đảng, đối ngoại nhân dân, giữa cơ quan Trung Ương và địa phương,
giữa các cơ quan Nhà Nước với các doanh nghiệp”[16]
1.2. Đặc điểm cộng đồng NVNONN
1.2.1.

Tình hình cộng đồng NVNONN tại một số địa bàn
Kể từ khi tiến hành đổi mới đã có nhiều người ra nước ngồi làm

chuyên gia, đi tu nghiệp, lao động, học tập, đoàn tụ gia đình…tạo điều kiện

hình thành cộng đồng người Việt tại một số nước trên thế giới. Trong tiến
trình hội nhập quốc tế và khu vực, việc đi lại giữa trong và ngoài nước của
người Việt Nam với nhiều mục đích khác nhau càng ngày càng thuận tiện
hơn. Chính vì vậy, cộng đồng NVNONN đã và đang trong giai đoạn phát
15


triền cả về số lượng lẫn chất lượng, mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn
thế giới, tập trung chủ yếu ở những nước phát triển: “Hoa Kỳ khoảng 1,5
triệu người; Pháp khoảng 300 nghìn người; Úc, Canada mỗi nước khoảng
250 nghìn; Campuchia, Thái Lan, Đức, Nga – mỗi nước khoảng 100
nghìn; Đài Loan 100 nghìn; Anh, Czech mỗi nước khoảng 40 nghìn; Ba
Lan 30 nghìn; Lào 20 nghìn; Trung Quốc, Bỉ, Thuỵ Điển – mỗi nước trên
dưới 10 nghìn...”[29;2]
“Trên cơ sở thống kê từ nhiều nguồn khác nhau, cộng đồng
NVNONN có khoảng gần 4 triệu người ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ.
Gần một nửa số người Việt Nam ở nước ngoài hiện đang làm ăn sinh sống
tại Mỹ, 98% tổng số người Việt Nam ở nước ngoài sống tại 21 nước có
đơng người Việt Nam (trên 10.000 người) tập trung tại 5 khu vực chính:
Bắc Mỹ; Tây – Bắc Âu; Nga và Đông Âu; Đông Dương – Đông Bắc Á;
châu Úc.”[29;18] Khoảng từ 70% - 89% người Việt Nam ở nước ngồi đã có
quốc tịch nước sở tại. So với các cộng đồng ngoại kiều khác, người Việt
Nam ở nước ngoài là một cộng đồng trẻ, năng động, nhanh chóng hồ nhập
và đại đa số có xu hướng định cư lâu dài ở những nước như Mỹ, Úc,
Canada và các nước Tây Âu (khoảng 80% đã nhập quốc tịch nước cư trú,
tuy hầu hết chưa thôi quốc tịch Việt Nam). Trong khi đó, phần lớn người
Việt tại Nga, Đông Âu vẫn coi cuộc sống ở nước sở tại chỉ là tạm cư, khi
có điều kiện sẽ trở về nước. Qua một số địa bàn phân bố cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngồi chúng ta có được cái nhìn rõ nét hơn về đặc điểm
nhóm cộng đồng này, đó là những nước láng giềng như Campuchia, Lào,

Thái Lan hay các nước phát triển như Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Bỉ…
• Tại Lào:
Có thể thấy cộng đồng người Việt Nam tại Lào hình thành khá sớm,
trong thời kỳ Pháp thuộc, do cuộc sống khó khăn, nạn đói hồnh hành, một
bộ phận dân các tỉnh miền Trung đã sang Lào sinh cơ lập nghiệp. Hiện nay
cộng đồng người Việt tại Lào có khoảng 20.000 người. Do được sự quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của Chính phủ Lào, cộng đồng người Việt Nam
16


ở Lào đã phát huy được bản chất thông minh, cần cù, khéo léo vốn có
trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở quy mô vừa và nhỏ. Đáng chú ý ở
một số địa phương có đơng người Việt, hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu của người Việt đạt nhiều kết quả. Tại các tỉnh và thành phố,
Vientiane, Pakse, Savannakhet.. đều có Hội người Việt Nam, hoạt động
khá mạnh tại từng địa phương. Nhiều Hội đã tổ chức khá tốt việc dạy và
học tiếng Việt cho con em, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hoạt động
hướng về đất nước ln được Hội quan tâm duy trì thường xun.


Tại Mỹ:

Cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ có khoảng 1,3 triệu người, chiếm
½ số người Việt Nam sinh sống ở nước ngồi. Cộng đồng người Việt có
mặt ở hầu hết 50 bang nước Mỹ. Cộng đồng người Việt tại Mỹ là một cộng
đồng trẻ, hội nhập nhanh và đã đạt được nhiều thành tích đáng kể: trình độ
học vấn của thế hệ trẻ cao hơn thế hệ đi trước; đội ngũ trí thức trẻ có nhiều
tiềm năng. Số này chủ yếu tập trung trong các ngành khoa học và kinh tế
mũi nhọn như cơ khí chế tạo, tin học viễn thơng, vũ trụ, y học, sinh học,
quản lý vụ cao có uy tín trong các hãng, xưởng, trường học, cơ sở nghiên

cứu khoa học.
Về kinh tế, đại bộ phận người Việt đã có cuộc sống ổn định, mặc dù
thu nhập bình quân đầu người chưa cao. Một bộ phận người Việt Nam đã
vươn lên có mức sống trung lưu, đã xuất hiện người giàu có tài sản nhiều
triệu đơ la. Đại đa số các cơ sở kinh doanh dịch vụ của người Việt tại Mỹ
có quy mơ vừa và nhỏ.


Tại Nga:

Ngay từ đầu thế kỷ XX đã có nhiều trí thức, nhà hoạt động cách
mạng tới Liên Xô (cũ) học tập, làm việc và sau khi hịa bình (1954) thì có
hàng ngàn lưu học sinh học tập, nghiên cứu tại Liên Xô cũ. Tuy nhiên,
cộng đồng người Việt Nam ở Liên bang Nga hình thành chủ yếu từ thập
17


niên 70 – 90 của thế kỷ XX. “Ở Liên bang Nga có gần 100.000 người, ở
các nước khác như Ucraina: 7000 người, Uzbekistan:1000 người…”[29;20]
Cộng đồng người Việt Nam tại Nga đang trong thời kỳ ổn định về
pháp lý: chỉ có một bộ phận nhất định có quốc tịch và quy chế thường trú,
phần đông chỉ là tạm cư. Hàng ngàn người có trình độ đại học và trên đại
học, trong đó có hàng trăm giáo sư, tiến sĩ, đó là tầng lớp trí thức trong
cộng đồng người Việt tại Nga. Theo ước tính có khoảng 20 trung tâm
Thương mại thu hút khá đông người Việt Nam ở Nga tham gia kinh doanh,
buôn bán. Nổi lên là các Trung tâm thương mại như: Bến thành, Sông
Hồng, Tôgi…Một bộ phận người Việt tại Nga có cuộc sống ổn định với
nguồn tài chính khá cao đang hình thành cái nhìn mới về nhóm cộng đồng
người Việt ở nước ngồi.
. Tại Australia

Cộng đồng người Việt tại Australia là một cộng đồng trẻ, trên 50% ở
độ tuổi dưới 35. Hiện số lượng kiều bào tại Australia ước tính vào khoảng
300 000 – 350 000 người, so với số lượng người từ những ngày đầu nhập
cư vào Australia vào giữa những năm 70 là khoảng 500 người thì đã có
bước tăng nhảy vọt. Cộng đồng người Việt tại Australia tập trung sinh
sống chủ yếu ở các thành phố lớn như Sydney và Melbourne (chiếm tới
một nửa số người). Tuy là cộng đồng trẻ nhưng kiều bào Việt Nam ở
Australia đã biết phát huy sức mạnh cộng đồng và tích cực hịa nhập với
mơi trường đa văn hóa của Australia, sống đồn kết tương trợ lẫn nhau và
nhiều người đã thành cơng, đạt nhiều thành tích trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội Australia.
Tuy nhiên do tàn dư ảnh hưởng của lịch sử để lại nên cộng đồng
người Việt Nam tại Australia vẫn tồn tại nhiều cá nhân có hiềm khích, thù
hận với Tổ quốc, duy trì việc tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước
ngay tại địa bàn Australia và trong nước bằng các website xuyên tạc, đưa
18


tin sai lệch thiếu khách quan về tình hình đất nước. Điều này gây ảnh
hưởng không nhỏ tới khối đại đoàn kết dân tộc và mong muốn khép lại
chiến tranh, tập trung xây dựng phát triển cuộc sống của đại bộ phận bà
con kiều bào.


Tại Pháp

Cộng đồng người Việt Nam tại Pháp là một trong những cộng đồng
người Việt phát triển lớn mạnh và thành đạt nhất ở nước ngoài. Đây là
cộng đồng có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, tập trung nhiều nhà
trí thức, nhà khoa học thành đạt ngay trên đất Pháp và có mong muốn cống

hiến trí tuệ cho quê hương. Là cộng đồng phát triển lớn mạnh thứ hai (sau
cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ) với số lượng ước khoảng 300 000
người (năm 2005), lại không mang nặng đặc điểm bất đồng, thù hận sau
chiến tranh sâu sắc như một số cộng đồng khác, cộng đồng người Việt
Nam ở Pháp là một trong số ít các cộng đồng phát triển vững mạnh, hướng
về Tổ quốc. Hội người Việt Nam tại Pháp với bề dày lịch sử hơn 30 năm
hoạt động luôn là tổ chức liên kết tập hợp đồng bào, gắn mình với những
bước phát triển của dân tộc, hỗ trợ về tài chính, của cải và tinh thần mỗi
khi đồng bào trong nước gặp khó khăn, thiên tai, giúp đỡ lẫn nhau trong
quá trình sinh sống làm ăn.
1.2.2. Nhu cầu thơng tin của người Việt Nam ở nước ngồi
Dù cộng đồng người Việt Nam ở mỗi nước mang những đặc điểm
lịch sử hình thành, tính chất và mức độ phát triển khác nhau nhưng tựu
chung lại đều có nhu cầu thơng tin rất cao về q hương. Hiện nay có thể
thấy có ba nhóm nhu cầu thơng tin chính mà các cơ quan tuyên truyền cần
lưu tâm cung cấp để phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đó
là:
Thứ nhất, thơng tin về tình hình xã hội trong nước nói chung. Đây
là nhóm thơng tin phục vụ đại đa số đồng bào, đặc biệt là những người
19


Việt Nam ở xa Tổ quốc trong một thời gian nhất định, có nhu cầu cập nhật
thơng tin liên tục về đời sống trong nước như du học sinh, nghiên cứu sinh,
công nhân Việt Nam đi xuất khẩu lao động… Cung cấp thơng tin về tình
hình xã hội trong nước khơng chỉ là phục vụ nhu cầu chính đáng, thiết thực
của đồng bào mà cịn là một hình thức giảm thiểu và ngăn chặn các nguồn
thông tin sai lệch về tình hình trong nước vốn có cơ hội hoạt động mạnh
tác động lên người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ hai, nhóm thơng tin về tình hình Luật pháp, chính sách, hỗ trợ

về kinh tế. Hiện nay, có một bộ phận người Việt Nam sống lâu năm hay
định cư ở nước ngoài làm kinh tế giỏi và trở thành những doanh nhân
thành đạt, muốn đầu tư về cho đất nước, vừa mang lại lợi ích cho bản thân
lại làm giàu cho quê hương và thể hiện sự gắn bó với đất nước. Nắm bắt
được nhu cầu này, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện chú trọng thơng tin về
tình hình kinh tế và môi trường kinh doanh trong nước một cách cụ thể, cởi
mở, tạo điều kiện hết mức cho các doanh nhân kiều bào đóng góp đầu tư
xây dựng đất nước.
Thứ ba, nhóm thơng tin về các Luật, nghị định, thủ tục hành chính
liên quan tới người Việt Nam ở nước ngồi. Đây là nhóm thơng tin quan
trọng, cần thiết, vốn gây nhiều trở ngại khó khăn với kiều bào do thiếu
thông tin. Nhất là thời gian gần đây khi ngày càng có nhiều hơn số lượng
kiều bào trở về quê hương, thì nhu cầu đi lại, thủ tục chuyển đổi quốc tịch,
điều kiện xin visa …là những thông tin hết sức cần thiết. Đây là nhóm
thơng tin chun biệt, đòi hỏi cơ quan tuyên truyền cần nắm vững, để
khơng những cung cấp đầy đủ thơng tin mà cịn giải đáp thắc mắc, tránh
gây thêm trở ngại, tạo lòng tin cho người Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.3. Một số tổ chức, cơ quan của Việt Nam có liên quan đến cộng đồng
NVNONN

20


Với tiêu chí xác định cộng đồng NVNONN là một bộ phận không
tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố
quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta
với các nước khác trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta luôn tạo mọi điều
kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh
sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ
gắn bó với quê hương, đất nước.

Trên cơ sở đó, Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước
ngoài căn cứ Nghị định số 21/2003/NĐ – CP ngày 10/3/2003 của Chính
Phủ đã được hình thành. Với vai trị là một tổ chức của Bộ Ngoại giao,
giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực công
tác về người Việt nam ở nước ngồi. Qua đó, Uỷ ban nghiên cứu, tổng hợp
tình hình, đề xuất với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền về chủ
trương, chính sách đối với NVNONN. Uỷ ban cũng khơng ngừng hỗ trợ,
hướng dẫn NVNONN trong các mối liên hệ, đóng góp xây dựng đất nước.
Khơng những thế, Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngồi cịn chủ trì,
phối hợp, hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính
Phủ và chính quyền địa phương trong cơng tác thơng tin, tun truyền,vận
động và thực hiện chính sách đối với NVNONN và thân nhân của họ.
Một tổ chức khác là Quỹ Hỗ trợ, vận động cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài cũng được ra đời với phạm vi hoạt động cả nước.
Đây là một tổ chức tài chính hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận, trực
thuộc Bộ Ngoại giao, nhằm hỗ trợ cộng đồng NVNONN, giúp cộng đồng
ổn định, phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam, hướng về Tổ quốc,
góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Bên cạnh đó, Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài
đã được xây dựng theo Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam. Với mục đích làm cầu nối giữa đồng bào trong nước
với NVNONN, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào nắm được thông
21


tin về tình hình trong nước; đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng
và Nhà nước. Hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang
trải kinh phí và dựa trên nguyên tắc thỏa thuận, hiệp thương dân chủ, thống
nhất hành động. Hội cũng tổ chức và phối hợp tổ chức các đoàn đại biểu
của Hội ra nước ngoài theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nước về đối

ngoại và các đoàn của kiều bào về thăm Tổ quốc.
Qua những đặc điểm trên có thể thấy cộng đồng NVNONN
không chỉ là một bộ phận quan trọng khơng thể tách rời của đất nước ta mà
cịn đóng một vai trị thiết yếu trong q trình phát triển đất nước và hội
nhập thế giới. Chính từ những đặc điểm này mà Đảng và Nhà nước ta luôn
chủ trương hồn thiện cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy
mạnh và phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở kết hợp việc
xây dựng cơ chế, chính sách với cơng tác vận động, kết hợp các hoạt động
trong nước với các hoạt động ở nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi của
NVNONN là một trong những hoạt động chính của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hồn thiện và củng cố cơng tác đối với cộng đồng người
Việt.
1.3.

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác

TTĐN đối với cộng đồng NVNONN.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của cộng đồng và ý nghĩa
của công tác TTĐN với cộng đồng NVNONN, Đảng và Nhà nước ta đã đặt
ra yêu cầu phải tăng cường cơng tác TTĐN. Có rất nhiều những văn bản
pháp lí thể hiện chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trong
đó khơng thể không kể đến:
Chỉ thị số 11 CT/TW ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư về đổi mới và
tăng cường cơng tác TTĐN khẳng định cơng tác TTĐN có một nội dung
quan trọng là “thông tin cho cộng đồng người Việt Nam nhất là ở những
khu vực Tây Âu, Bắc Mĩ, Liên Xô và Đông Âu.”
22


Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị ra ngày 29/11/1993 về chính sách

và cơng tác đối với NVNONN trong đó nhấn mạnh quan điểm thơng suốt là
“giúp kiều bào hiểu tình hình đất nước, phát huy khả năng góp phần xây
dựng đất nước, quê hương trên nhiều lĩnh vực…Dùng nhiều hình thức
cung cấp thơng tin về tình hình đất nước, phát hành văn hóa phẩm trong
nước tới những nước có đơng người Việt Nam, đưa các đồn nghệ thuật đi
nước ngoài biểu diễn để đáp ứng nhu cầu của đồng bào.”[13]
Chỉ thị số 10/2000/CT-Ttg ngày 26/4/2000 của thủ tướng chính phủ
về tăng cường quản lí và đẩy mạnh cơng tác TTĐN một lần nữa khẳng
định yêu cầu và mục tiêu của công tác TTĐN với cộng đồng NVNONN :
“TTĐN là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng và đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho thế giới hiểu rõ đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công cuộc đổi
mới của Việt Nam, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt
Nam; đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt
Nam; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ bạn bè Quốc tế, sự
đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước ngoài với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[16]
Nghị quyết số 36- NQ/TW ra ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về
cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi có nêu: “Đổi mới mạnh mẽ
và tồn diện cơng tác thơng tin tun truyền giúp cho NVNONN hiểu đúng
tình hình của đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho
các chương trình dành cho NVNONN của đài phát thanh, truyền hình,
internet, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức và kĩ thuật của các chương
trình này.”[17]
Cơng tác thơng tin, tun truyền cho cộng đồng NVNONN là một
công tác quan trọng của công tác vận động kiều bào, cũng là mắt xích
khơng thể thiếu trong hệ thống cơng tác TTĐN của Đảng và Nhà nước.

23



CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHUYÊN MỤC CHÍNH
TRỊ VÀ QUỐC TẾ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIETNEMNET
2.1. Khái quát về chuyên mục Chính trị và Quốc tế của báo mạng điện
tử Vietnamnet
2.1.1. Khái quát về báo mạng điện tử Vietnamnet
Báo mạng điện tử Việt Nam đã ra đời hơn 10 năm với bước khởi đầu
là những trang báo đầu tiên như: Quehuong, Vnexpress, Vietnamnet,
Vneconomy... Với sự phát triển trong khoảng thời gian ít ỏi đó, báo mạng
điện tử đã cập nhật nhanh chóng tất cả các diễn biến trong đời sống chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội của cả nước và đạt được những thành tựu đáng
kể. Đặc biệt nhất là thành tựu trong việc thực hiện công tác thông tin đối
ngoại cho một bộ phận công dân Việt Nam - cộng đồng NVNONN. Sự phủ
sóng tồn cầu của Internet đã khiến cho khoảng cách giữa các vùng miền,
các quốc gia thu hẹp hơn bao giờ hết. Với những ưu việt mà các loại hình
báo chí khác khơng có được, báo mạng điện tử đã khắc phục được hầu hết
những nhược điểm khi đưa tin ra nước ngoài và trở thành phương tiện
truyền thơng tun truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Ngay cả truyền hình VTV4 dành cho người Việt ở nước ngoài của Đài
truyền hình Việt Nam cũng khơng thể đáp ứng nhu cầu thông tin cho cộng
đồng này về mặt nhanh nhạy của thơng tin. Bởi vì tất cả các chương trình
truyền hình đều cần khoảng thời gian nhất định để thu thập, xử lí và sản
xuất. Báo in được sản xuất dù là trong nước hay ngồi nước thì đều khơng
thể so sánh với báo mạng điện tử về mặt thời gian, chi phi sản xuất, khả
năng lưu trữ và bảo quản. Cịn báo phát thanh thì với nhược điểm vốn có
của mình, cũng khơng đáp ứng được nhu cầu thơng tin cho cộng đồng
24



người Việt ở nước ngoài do khung thời gian lên sóng hạn hẹp, khó theo dõi
liền mạch, nội dung chưa phong phú và đầy đủ, đặc biệt khó tương thích và
phổ biến đến cộng đồng thính giả ở ngồi nước.
Báo điện tử VietNamnet />
Hình thành từ năm 1997 với tên gọi Mạng thông tin trực tuyến
VASC Orient, hơn 13 năm qua, Vietnamnet đã trở thành món ăn tinh thần
khơng thể thiếu đối với độc giả trong và ngoài nước. Với thế mạnh là
nguồn thơng tin chính thống, có tính định hướng xã hội, cập nhật nhanh,
Vietnamnet đã khẳng định thương hiệu tờ báo điện tử uy tín tại Việt Nam.
Khơng bằng lịng với những thành cơng đã có, Vietnamnet đã và đang luôn
tự thay đổi để xứng đáng với sự tin cậy của độc giả. 20 là số chuyên mục
và chuyên trang hiện có của Vietnamnet với các mục như: chính trị, xã hội,
văn hóa, quốc tế, cơng nghệ thơng tin viễn thơng, khoa học, phóng sự điều
tra. Chỉ trong tháng 6 năm 2009 có tới 42.321.412 lượng truy cập vào
website Vietnamnet thể hiện sự quan tâm của độc giả với tờ báo điện tử
hàng đầu của Việt Nam. Tờ báo với 400 phóng viên, biên tập viên và cộng
tác viên của Vietnamnet trong và ngoài nước. Với đội ngũ đông đảo này,
Vietnamnet đã từng bước khẳng định vị thế của mình qua những nguồn
thơng tin Nóng – Nhanh – Chính xác để cung cấp cho độc giả.
2.1.2. Đặc điểm cơ bản của chuyên mục Chính trị và Quốc tế.
Chuyên mục Chính trị và Quốc tế được coi như là thế mạnh của
trang báo mạng điện tử Vietnamnet trong tổng khối chính trị vĩ mơ và thời
sự Quốc tế. Ra đời ngay từ đầu khi hình thành nên trang báo này, hai
chuyên mục có bề dày hoạt động khá lâu và đạt được khá nhiều thành tích
tiêu biểu.
25


×