ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------*----------
NGUYỄN THỊ HẰNG
PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------*----------
NGUYỄN THỊ HẰNG
PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị Lan
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Đặng Thị Lan (Giảng viên
khoa Triết học – Trƣờng Đại học khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại học quốc
gia Hà Nội). Cảm ơn cô đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ và cho em những góp
ý bổ ích để em hoàn thành luận văn của mình.
Em cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể các
thầy cô giáo Khoa Triết học và các thầy cô tham gia giảng dạy lớp Cao
học K20 đã tận tình truyền đạt kiến thức cho chúng em trong suốt thời
gian học tập tại trƣờng.
Do khả năng và trình độ của em còn nhiều hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của quý thầy cô
và các bạn để em có thể hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày 9 tháng 10 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Hằng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tôi nghiên cứu. Các số liệu, thông
tin nêu trong luận văn là trung thực.
Học viên
Nguyễn Thị Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .............................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ
LUẬN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm tƣ duy, tƣ duy lý luận ................................................................ 9
1.1.1. Tƣ duy ...................................................................................................... 9
1.1.2. Tƣ duy lý luận ........................................................................................ 14
1.2. Tƣ duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................ 20
1.2.1. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay .... 20
1.2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 24
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 39
CHƢƠNG 2. PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP ...................................................................................................... 56
2.1. Thực trạng phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 56
2.1.1. Những thành tựu về phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở Việt Nam hiện nay .................................................................... 56
2.1.2. Những hạn chế trong công tác phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân .......................... 65
2.2. Những yêu cầu và phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát triển tƣ duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ......................... 77
2.2.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ................................................................. 77
2.2.2. Những phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát triển tƣ duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ...................................... 86
Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................... 101
KẾT LUẬN ................................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 104
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức mạnh của tƣ duy lý luận đối với đời sống và hoạt động thực tiễn đã
đƣợc chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận nhƣ cái kim chỉ nam, nó chỉ
phƣơng hƣớng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì
lúng túng nhƣ nhắm mắt mà đi… và có kinh nghiệm mà không có lý luận thì
nhƣ một mắt sáng một mắt mờ”. [59, tr.233-234]. Nhận định này đã khẳng
định tầm quan trọng của tƣ duy lý luận và vai trò của nó đối với sự phát triển
đất nƣớc trong bối cảnh hiện nay.
Nghị quyết lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII
đã chỉ rõ: “Đất nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp đòi hỏi Đảng
ta phải xây dựng đƣợc một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [28,
tr.66], đã cho thấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung và lãnh đạo cấp cơ sở
nói riêng có vai trò quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nƣớc, đặc biệt là năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ này có ý
nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa
và phát triển đất nƣớc hiện nay.
Cấp cơ sở là cấp đầu tiên trong bộ máy hành chính ở nƣớc ta, nhƣng lại
là cấp gần với dân nhất, trực tiếp đƣa các đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống của nhân dân. Đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, năng lực vận dụng
đƣờng lối, chủ trƣơng, quan điểm đổi mới của Đảng vào việc xây dựng các
chƣơng trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở cho phù hợp; rút ra
các bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khái các chƣơng trình, kế hoạch
ở cơ sở. Bên cạnh đó, thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở cũng
còn tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt là về trình độ tƣ duy lý luận thấp; còn
nhiều yếu kém trong tổng kết thực tiễn; bệnh chủ quan, giáo điều, dập khuôn
1
máy móc, tôn sùng kinh nghiệm; mới dừng lại ở tƣ duy mạnh về triển khai,
vận dụng mà chƣa nhạy bén và sáng tạo trong các hoạt động ở cấp cơ sở…
Nguyên nhân của những hạn chế này thì do rất nhiều nguyên nhân khác nhau,
có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trong đó có một số nguyên nhân
cơ bản: trình độ văn hóa, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ các các kỹ năng phục vụ cho công tác lãnh đạo quản lý của cán bộ
còn thấp; công tác của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập, thiếu quy hoạch và
sử dụng còn nhiều bất cập; kinh tế, văn hóa, xã hội ở các cơ sở còn kém phát
triển; trình độ dân trí thấp; cơ sở vật chất và các phƣơng tiện phục vụ công tác
ở cơ sở còn nhiều thiếu thốn, chƣa đƣợc đầu tƣ đồng bộ.
Cùng với sự phát triển của đƣờng lối đổi mới đất nƣớc, trình độ tƣ duy
lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trong đó có tƣ duy lý luận của cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở trên cả nƣớc đã có những bƣớc phát triển mới, từng bƣớc
khẳng định đƣợc vai trò và vị trí quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở, trong công tác lãnh đạo, quản lí các hoạt động ở mỗi địa phƣơng. Tuy
nhiên, đứng trƣớc những yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
đất nƣớc hiện nay, phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã và
đang đặt ra những yêu cầu mới với những tiêu chuẩn mới, trong đó đặc biệt là
sự phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Để đáp
ứng đƣợc những yêu cầu mới, đòi đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở phải có
một trình độ tƣ duy lý luận nhất định mới hoàn thành tốt những nhiệm vụ
đang đặt ra. Nhƣ vậy, phát triển tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cấp bách và lâu dài của đất nƣớc. Tƣ
duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở nhƣ là “kim chỉ nam”
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của ngƣời cán bộ. Tƣ duy lý luận còn là
cơ sở quan trọng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có thể tiếp cận và
hiểu sâu sắc các quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nƣớc, trên cơ sở đó có thể vận dụng một cách sáng tạo vào
trong quá trình lãnh đạo, quản lý ở mỗi cơ sở đạt hiệu quả cao.
2
Thực tế những năm gần đây cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói
chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở nói riêng đã có những chuyển
biến mạnh mẽ về cơ cấu và trình độ. Đội ngũ cán bộ ngày càng đƣợc trẻ hoá
và hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, phẩm chất trí tuệ mà trực
tiếp là năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở vẫn còn
tồn tại nhiều mặt hạn chế, bất cập, chƣa ngang tầm với những đòi hỏi và
nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, vấn đề quan tâm phát triển
tƣ duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có ý nghĩa và vai trò to lớn trong
công cuộc xây dựng đất nƣớc hiện nay.
Vậy, làm gì và làm nhƣ thế nào để phát triển tƣ luy lý luận cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay là vấn đề đang đặt ra cấp thiết
cả về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng
đối với chiến lƣợc phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nƣớc trong thời
kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tƣ duy, tƣ duy lý luận đƣợc nghiên cứu từ rất sớm, đặc biệt là từ
sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, trong đó có nhiều các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này
và cũng có nhiều công trình khoa học đƣợc công bố, xuất bản thành sách,
đăng tải trên các báo, tạp chí, luận văn, luận án, các hội thảo khoa học. Vấn
đề tƣ duy, tƣ duy lý luận đã đƣợc nhiều các tác giả trong và ngoài nƣớc quan
tâm nghiên cứu cũng nhƣ đề cập đến dƣới nhiều góc độ khác nhau. Ở nƣớc
ta, nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều tác phẩm, bài viết trên tạp chí, một số
luận án đã đề cập đến vấn đề đổi mới tƣ duy, nhất là tƣ duy kinh tế, vấn đề
nâng cao năng lực tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, có tác giả lại tìm hiểu
về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn hoặc gắn nó với một vấn đề cụ thể
3
nào đó, luận giải cho sự cần thiết của việc đổi mới tƣ duy lý luận. Trong đó
có một số công trình cơ bản nhƣ:
Vấn đề tƣ duy lý luận và đổi mới tƣ duy lý luận: “Đổi mới tư duy lý luận
và công tác xây dựng Đảng” của tác giả Hoàng Tùng, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1987. Trong đó tác giả tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu về: đổi mới
tƣ duy là tiền đề khắc phục sự chậm trễ về lý luận; đổi mới công tác xây dựng
Đảng. Trên cơ sở phân tích tác giả đƣa ra nhận định: để thực hiện thành công
nhiệm vụ đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội của đất nƣớc, trƣớc hết cần
phải đổi mới tƣ duy lý luận và đổi mới công tác xây dựng Đảng. Nghiên cứu
này đã chứng tỏ đƣợc sức mạnh to lớn của tƣ duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới đất nƣớc nói chung.
Nghiên cứu về tƣ duy lý luận trong tác phẩm “Tƣ duy lý luận với hoạt
động của ngƣời cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn” do tác giả Trần Thành chủ
biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Trong đó tƣ duy lý luận là hình
thức cao nhất của tƣ duy, là quả trình tiếp cận, năm bắt, nhận thức và tái tạo
hiện thực khách quan bằng lý luận, hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật. Bàn về vai trò của tƣ duy lý luận đối với ngƣời cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn đƣợc coi nhƣ “chìa khóa” mở ra cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn. Tƣ duy lý luận giúp cho ngƣời cán bộ nắm đƣợc thực chất quan điểm,
đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc; cũng nhờ có tƣ duy lý luận
ngƣời cán bộ mới có khả năng phân tích sự phong phú, đa dạng và phức tạp
của thực tiễn, từ đó vận dụng lý luận một cách chủ động, sáng tạo, biết tổng
kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận.
“Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tƣ duy lý luận” của tập thể học viện
Nguyễn Ái Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1988. Các tác giả đã cho rằng chính
cách nghĩ bảo thủ, chủ quan, máy móc, duy ý chí là nguyên nhân đã làm cản
trở quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, từ đó nêu lên sự cần thiết
của việc phải đổi mới tƣ duy. Bởi chỉ có đổi mới tƣ duy mới có thể nhìn thấy
4
rõ đƣợc cái lạc hậu, lỗi thời cần phải loại bỏ, và đi đến khẳng định những
nhân tố mới, cách làm mới phù hợp với thực tiễn cụ thể của đất nƣớc.
“Tƣ duy lý luận với sự nghiệp đổi mới” của GS.Trần Nhâm, Nxb Chính
trị quốc gia, 2004. Tác giả trên cơ sở nghiên cứu vấn đề đổi mới tƣ duy lý
luận của Đảng ta trong bối cảnh thời đại, trong mối quan hệ với toàn cầu hóa
và những thách thức đặt ra, cũng nhƣ trong mối tƣơng quan giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin và thời đại hiện nay.
“Qúa trình đổi mới tƣ duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”, do tập thể
tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Chủ
biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. Tác phẩm đã đề cập đến nhiều vấn
đề liên quan tới quá trình đổi mới và phát triển ở nƣớc ta, góp phần làm sáng tỏ
quá trình đổi mới tƣ duy lý luận của Đảng, nhất là nhận thức lý luận của Đảng
về Chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
“Đổi mới tƣ duy lý luận - tƣ duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, Tạp
chí Triết học, số 1, 1988. Tác giả đã đề cập vấn đề đổi mới tƣ duy lý luận đã
đƣợc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng nhƣ tính cấp thiết của
vấn đề đổi mới đƣợc thông qua, để thấy đƣợc vai trò của tƣ duy lý luận trong
sự nghiệp đổi mới đất nƣớc. Đây là một nhân tố không nhỏ trong việc định
hƣớng các chiến lƣợc, sách lƣợc phát triển đất nƣớc.
“Tiếp tục đổi mới tƣ duy, nâng cao tƣ tƣởng trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của GS. Đặng Xuân Kỳ, đăng trên Tạp chí Đảng cộng sản,
số 8, 4/1999. Tác giả cho rằng: quá trình đổi mới tƣ duy lý luận đã có những
biến đổi, song cần phải tiếp tục đổi mới hơn nữa bởi lý luận của chúng ta còn
nhiều chỗ lạc hậu so với thực tiễn. Đổi mới không phải chỉ là đƣa ra những
nhận thức, phƣơng pháp tƣ duy khác trƣớc mà ở đây đổi mới có nghĩa là cái
mới đã bao hàm cái đúng đắn đã có trƣớc kia, loại bỏ những sai lệch, lỗi thời
của cái cũ và bổ sung những gì mới mẻ, phản ánh đúng thực tiễn, phù hợp với
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội.
5
Vấn đề về thực trạng tƣ duy lý luận ở nƣớc ta và đổi mới tƣ duy lý luận
đƣợc nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu nhƣ: Tác giả Lê Hữu
Nghĩa “Một số căn bệnh trong phƣơng pháp tƣ duy của cán bộ ta”, Tạp chí
Triết học số 2, 1988. Tác giả Ngô Đình Xây “Vài nét về thực trạng tƣ duy lý
luận ở nƣớc ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 4, 1990.
Một số công trình đề cập đến vấn đề phát triển tƣ duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ nhƣ: “Nâng cao năng lực tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã hiện nay” của Hồ Bá Thâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác
giả Nguyễn Đa Phúc “Phát triển tƣ duy biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cơ sở nƣớc ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 1997. Tác giả
Vũ Đình Chuyên “Nâng cao năng lực tƣ duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện ở nƣớc ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang” Luận văn Thạc sĩ
Triết học năm 2000. Tác giả Vũ Đức Quyền “Nâng cao năng lực tƣ duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Triết học năm 2004...
Nhìn chung, trong những công trình nghiên cứu trên các tác giả đã luận
giải về vấn đề lý luận, tƣ duy lý luận, các hoạt động trong công tác lãnh đạo,
quản lí của đội ngũ cán bộ và sự cần thiết phải đổi mới tƣ duy lý luận ở nƣớc
ta hiện nay theo những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nhấn
mạnh vai trò tƣ duy lý luận trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc còn chƣa đủ độ và chƣa đầy đủ. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nƣớc đang đòi hỏi tƣ duy của chúng ta cũng cần phải đổi mới, đƣợc bổ sung
cho phù hợp với tình hình, hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, vấn đề nhận thức rõ vai
trò của tƣ duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay là một vấn
đề cấp thiết. Trong đó, đặc biệt là xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ bồi
dƣỡng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở kế thừa quan điểm cơ bản của các nhà nghiên
cứu trƣớc, tác giả đặt ra mục đích trình bày một cách có hệ thống vấn đề phát
triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở hiện nay ở nƣớc ta, góp
6
phần vào việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở trong
sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
*Mục đích:
Làm rõ vấn đề phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở
Việt Nam hiện nay.
*Nhiệm vụ:
- Trình bày một số vấn đề lý luận chung về tƣ duy lý luận, phát triển tƣ
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng phát triển tƣ duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số phƣơng hƣớng, giải pháp phát triển tƣ duy lý luận cho
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tuợng nghiên cứu: Tƣ duy lý luận và phát triển tƣ duy lý luận cho
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở.
* Phạm vi nghiên cứu:
Cán bộ lãnh đạo và phát triển tƣ duy lý luậncho cán bộ lãnh đạo là những
vấn đề lớn, có phạm vi rộng và nhiều vấn đề liên quan rất phức tạp. Vì vậy, trong
luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một mảng vấn đề cụ thể là phát triển tƣ
duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu phát triển tƣ duy lý
luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên lập truờng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu đã công bố làm cơ sở thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
7
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích và tổng
hợp, lôgíc và lịch sử, so sánh, khái quát hóa và các phƣơng pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
- Bƣớc đầu khái quát khái niệm phát triển tƣ duy lý luận, nội hàm phát
triển tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở; chỉ ra đặc điểm, vai trò
phát triển tƣ duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển tƣ
duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm
sáng rõ hơn bản chất, đặc điểm, vai trò phát triển tƣ duy lý luận cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở, đánh giá đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp khả thi
góp phần phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở Việt Nam
hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác giáo dục, tuyên truyền về phát triển tƣ duy lý luận cho cán bộ lãnh
đạo cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho những ngƣời quan tâm về vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn có 2 chƣơng, 6 tiết.
8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TƢ DUY LÝ LUẬN
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1. Khái niệm tƣ duy, tƣ duy lý luận
1.1.1. Tư duy
Trong quá trình hoạt động thực tiễn con ngƣời đồng thời tiến hành hoạt
động nhận thức thế giới khách quan. Trong quá trình đó, con ngƣời muốn cải
tạo sự vật, hiện tƣợng đòi hỏi phải nhận thức đƣợc bản chất, quy luật của các
mối quan hệ nội tại, mối quan hệ giữa các sự vật hiện tƣợng với nhau và giữa
chúng với thế giới khách quan. Qúa trình nhận thức này, đòi hỏi chủ thể phải
trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trong đó,
nhận thức cảm tính là sự phản ánh bề ngoài của các sự, hiện tƣợng, cung cấp
các cứ liệu làm cơ sở cho nhận thức lý tính. Chính từ những phản ánh bề
ngoài, trực quan đơn lẻ của giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại, thông qua
những thao tác tƣ duy bằng khái niệm, phán đoán, suy lý, chủ thể nhận thức
có thể đi sâu phân tích và khám phá bản chất của thế giới khách quan. Qúa
trình này đƣợc lặp đi lặp lại dựa trên sự kiểm nghiệm của thực tiễn đối với tri
thức lý luận, giúp cho tƣ duy không ngừng hoàn thiện và phát triển từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Tƣ duy là một thuộc tính đặc biệt của con ngƣời, thể hiện trình độ nhận
thức và năng lực hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tƣ duy chính là vấn đề cơ
bản nhất của nhận thức luận. Vì vậy, tƣ duy đã trở thành đối tƣợng nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ: nhận thức
luận, lôgic học, tâm lý học, sinh lý học… Trong mỗi lĩnh vực khoa học, tƣ
duy lại đƣợc tiếp cận dƣới góc độ khác nhau cụ thể là: trong nhận thức luận
nghiên cứu tƣ duy trong quá trình nhận thức với các quan hệ tri thức - hiện
thực, chủ thể - khách thể; lôgic học lại nghiên cứu các quy luật, hình thức và
9
thao tác tƣ duy; lĩnh vực tâm lý học nghiên cứu tƣ duy với tƣ cách là hoạt
động của bộ não, hệ thần kinh cao cấp trong quá trình tƣơng tác với môi
trƣờng xung quanh; còn trong sinh lý học nghiên cứu tƣ duy đơn thuần là
hoạt động thuần túy của hệ thần kinh.
Trong lịch sử Triết học, khi bàn về vấn đề tƣ duy đã có rất nhiều các
quan điểm khác nhau, sự khác nhau đó là do xuất phát từ các lập trƣờng triết
học khác nhau tạo nên. Nhƣng dù đứng trên lập trƣờng duy vật hay duy tâm,
dƣới sự kế thừa lẫn nhau thì các nhà triết học trƣớc Mác đã đạt đƣợc những
thành quả nhất định trong việc phân chia các giai đoạn của nhận thức, khẳng
định vai trò của cảm giác, kinh nghiệm, lý tính, tƣ duy. Tuy nhiên, họ vẫn
chƣa đi sâu vào giải quyết một cách đúng đắn, khoa học về vai trò, tác dụng,
cách thức hoạt động của cảm tính, tƣ duy; quan hệ cảm tính và lý tính theo
lập trƣờng duy vật. Nhƣ vậy, các nhà triết học trƣớc Mác vẫn chƣa xây dựng
đƣợc một quan niệm đầy đủ về tƣ duy nói riêng và phƣơng pháp nhận thức
khoa học nói chung cho hoạt động nhận thức của con ngƣời.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, đã tạo nên một bƣớc tiến mới trong việc
đƣa ra những quan điểm khoa học đúng đắn về tƣ duy. Chủ nghĩa Mác –
Lênin cho rằng: “Tƣ duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất, đƣợc
tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới
khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận… Thực chất, tƣ duy
chính là sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất đƣợc tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái
niệm, phán đoán, lý luận… Tƣ duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản
xuất xã hội của con ngƣời và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện
những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại” [72, tr.634-635]. Ph.Ăngghen
cho rằng: “Nếu ngƣời ta đặt câu hỏi rằng tƣ duy, ý thức là gì, chúng từ đâu
đến, thì ngƣời ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con ngƣời” [35, tr.55].
Tƣ duy phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con ngƣời một
cách khái quát và gián tiếp. Chính trong quá trình lao động sản xuất của xã
10
hội loài ngƣời tƣ duy đã xuất hiện và phản ánh thực tại một cách gián tiếp,
phát hiện những mối quan hệ hợp quy luật của thực tiễn. Vì vậy, tƣ duy luôn
gắn liền với hoạt động sinh lý của bộ não ngƣời, bên cạnh yếu tố sinh học thì
yếu tố xã hội cũng có tác động quyết định đối với tƣ duy. Tƣ duy là sản phẩm
của xã hội từ những đặc điểm, phƣơng thức hoạt động và cả kết quả. Vì thế,
tƣ duy luôn gắn liền với các hoạt động đặc trƣng của xã hội loài ngƣời là lao
động sản xuất, giao tiếp và ngôn ngữ.
Hoạt động thực tiễn của con nguời là nguồn gốc, động lực chủ yếu của
tƣ duy nên thực tiễn trở thành tiêu chuẩn cao nhất của tƣ duy con nguời. Tƣ
duy với tƣ cách là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động chủ quan của
con ngƣời, với sự sáng tạo và tiên đoán các sự vật hiện tƣợng trong thế giới.
Tƣ duy còn đƣợc xuất hiện và hiện thực hóa trong quá trình đặt ra và giải
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của con ngƣời. Nhƣ vậy, tƣ duy của con
ngƣời không bất biến mà phát triển từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp,
có thể trình bày một số đặc trƣng cơ bản của tƣ duy nhƣ sau:
Thứ nhất, tư duy là hình thức cao nhất của sự phản ánh trong nhận
thức của con người.
Chính quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan đã đem lại nhận
thức khoa học, năng lực khám phá và sáng tạo những tri thức mới về các mối
quan hệ bản chất, quy luật khách quan chi phối sự phát triển của hiện thực.
Triết học Mác - Lênin khẳng định nhận thức chính là một quá trình đi từ “trực
quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng và từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn,
đó là con đƣờng biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện
thực khách quan” [29, tr.179]. Vậy, tƣ duy là quá trình nhận thức của con
ngƣời đi từ việc nhận thức các tính chất, hiện tƣợng bề ngoài trong thế giới
hiện thực. Trong đó, quá trình nhận thức chỉ có thể đạt đến sự nhận thức về
bản chất và quy luật vận động, phát triển của các sự vật hiện tƣợng khi nhận
thức ở trình độ tƣ duy lý luận. Tƣ duy là trình độ cao của quá trình nhận thức,
đó là quá trình phản ánh khái quát hóa, chỉ ở trình độ nhận thức này mới có
11
thể phản ánh đƣợc những thuộc tính chung mang tính phổ biến, cơ bản của sự
vật khách quan. Tƣ duy không phải là toàn bộ quá trình nhận thức, mà là một
giai đoạn của quá trình nhận thức và đƣợc hình thành trên cơ sở nhận thức
cảm tính. Vì vậy, nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con ngƣời
sẽ hạn chế, bởi con ngƣời không thể dùng cảm giác để nhận thức và hiểu các
vấn đề nhƣ tốc độ, âm thanh, hình ảnh, cũng nhƣ các hiện tƣợng phong phú và
phức tạp khác trong xã hội. Để có đƣợc những nhận thức khoa học về các vấn
đề phong phú đó, không thể thiếu đƣợc sức mạnh của tƣ duy. Tƣ duy đƣợc diễn
ra dƣới hình thức của các khái niệm, phán đoán, suy lý, giải thuyết, lý thuyết, lý
luận. Kết quả của các quá trình tƣ duy này là sự phản ánh các thuộc tính, các
mối quan hệ cơ bản, phổ biến ở mỗi sự vật riêng lẻ và cả ở nhóm các sự vật
nhất định và kết quả cuối cùng đƣợc ghi lại thông qua ngôn ngữ.
Thứ hai, tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp và
khái quát.
Tƣ duy là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con ngƣời
một cách khách quan và gián tiếp bởi con ngƣời, xã hội thông qua chính quá
trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Trong giai đoạn nhận thức bằng tƣ
duy, sự vật đƣợc phán ánh một cách gián tiếp và khái quát bằng các khái
niệm, phán đoán, suy lý. Qúa trình trừu tƣợng hóa của tƣ duy hƣớng vào việc
đi tìm chân lý, những mối liên hệ khách quan có tính bản chất và phát hiện ra
quy luật chi phối các sự vật hiện tƣợng. Chính sự phản ánh thế giới khách
quan một cách gián tiếp và khái quát mà tƣ duy có khả năng tách rời nhất định
với sự vật và có sự độc lập tƣơng đối với các sự vật, hiện tƣợng. Sự xuất hiện
của các khái niệm, phạm trù đã cho thấy khả năng phản ánh thực tại khách
quan mang tính khái quát cao của tƣ duy con ngƣời. Nhƣ vậy, đặc trƣng khái
quát và gián tiếp của tƣ duy đƣợc biểu hiện ở việc đi từ “một hình thức liên hệ
và phụ thuộc lẫn nhau này đến một hình thức khác sâu sắc hơn, chung hơn”
[31, tr.240], từ sự hiểu biết có tính chất hiện tƣợng đến hiểu biết có tính bản
chất; đi từ cái ngẫu nhiên, bên ngoài đến quan hệ có tính tất nhiên, mang tính quy luật.
12
Thứ ba, tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, sáng tạo.
Nghĩa là tƣ duy phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con ngƣời
không phải một cách thụ động, rập khuôn máy móc mà mang tính tích cực,
sáng tạo. Bởi bản chất của con ngƣời là một thực thể năng động, sáng tạo
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới, xuất phát từ hoạt động thực tiễn nên
tƣ duy của con ngƣời cũng phản ánh thế giới một cách tích cực và sáng tạo.
Tƣ duy thể hiện tính tích cực ở việc vƣợt lên trên nhận thức cảm tính, xây
dựng hệ thống tri thức mới về thế giới khách quan, từ đó phản ánh bản chất
của sự vật. Tính sáng tạo của tƣ duy đƣợc thể hiện ở quá trình tƣ duy khám
phá, sáng tạo ra tri thức. Đó là khả năng xây dựng các khái niệm, phạm trù,
liên kết chúng lại với nhau, hệ thống hóa tri thức, vạch ra các mối quan hệ
giữa chúng và khái quát các quy luật chi phối tự nhiên, xã hội và bản thân.
Năng lực sáng tạo của tƣ duy mỗi ngƣời là hạn chế và phụ thuộc vào yếu tố
chủ quan, khách quan nhƣng năng lực sáng tạo của tƣ duy nhân loại là vô tận.
Tƣ duy của con ngƣời thuộc phạm trù trí tuệ ngƣời, giúp cho con ngƣời khám
phá các thuộc tính, các mặt, các mối liên hệ của sự vật hiện tƣợng để đi sâu
vào bản chất và phát hiện ra quy luật vận động, phát triển của thực tại khách
quan [72, tr.634]. Mặc dù, tƣ duy diễn ra trong đầu óc của con ngƣời nhƣng
có xu hƣớng vƣơn ra đời sống và quay trở về thực tiễn để chỉ đạo hành động
của con ngƣời. Thông qua tƣ duy, con ngƣời có thể xây dựng các giải thuyết
khoa học, lý thuyết trừu tƣợng, các mô hình lý tƣởng cho hiện thực và dự báo
tƣơng lai.
Nhƣ vậy, quá trình hoạt động thực tiễn của con ngƣời chính là nguồn
gốc, động lực chủ yếu của tƣ duy và thực tiễn trở thành tiêu chuẩn cao nhất
của tƣ duy con ngƣời. V.I.Lênin khẳng định “quan điểm về đời sống, về thực
tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” và khái
quát mối quan hệ giữa tƣ duy và thực tiễn là “từ trực quan sinh động đến tƣ
duy trừu tƣợng, từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn đó là con đƣờng biện
chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” [29,
13
tr.120]. Tƣ duy xuất phát từ thực tiễn, nó không dừng lại ở trừu tƣợng mà còn
quay trở lại thực tại để kiểm tra các tri thức mới thu đƣợc. Nhờ vậy mà con
ngƣời có thể chứng minh đƣợc tính đúng đắn, chân thực của tƣ duy.
Ngay từ khi xuất hiện tƣ duy đã gắn liền với ngôn ngữ, hay ngôn ngữ
chính là vỏ vật chất của tƣ duy, vì vậy ngôn ngữ và tƣ duy luôn thống nhất
với nhau. Tƣ duy không thể tồn tại nếu thiếu ngôn ngữ hay tách rời ngôn
ngữ, bởi ngôn ngữ chính là phƣơng tiện cho sự tồn tại của tƣ duy. Trong khi
tƣ duy có chức năng khái quát, tổng hợp và sáng tạo thông tin mới thì ngôn
ngữ đóng vai trò là phƣơng tiện đi chuyển tải thông tin, ngôn ngữ mang
chức năng nhận thức.
Tóm lại, tƣ duy có vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức thế giới.
Khi tƣ duy của con ngƣời nhận thức về giới tự nhiên, lịch sử, xã hội, hoạt
động tinh thần thì tƣ duy đã mang đến cho chúng ta sự hiểu biết về những mối
liên hệ phong phú, đa dạng, phức tạp; về sự vận động và biến đổi, sự phát
triển và tiêu vong của các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan.
Tƣ duy có nhiều đặc trƣng tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau, dựa trên
mỗi cách tiếp cận khác nhau lại có cách phân loại tƣ duy khác nhau, ở mỗi
cấp độ, loại hình tƣ duy có chức năng, đối tƣợng, phƣơng pháp, vị trí và vai
trò khác nhau. Vì vậy, sự phân chia chúng thành các đặc trƣng riêng chỉ mang
tính tƣơng đối, bởi chúng tồn tại, gắn bó và liên hệ với nhau rất chặt chẽ, làm
giả định và tiền đề cho nhau.
1.1.2. Tư duy lý luận
* Khái niệm tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận là trình độ phát triển cao nhất của tƣ duy, là quá trình
mà tƣ duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng
lý luận thông qua những giả thiết, lý thuyết có mối quan hệ tƣơng hỗ với
nhau. Có nhiều cách hiểu khác nhau về tƣ duy lý luận, nhƣng cho đến nay
trong các tài liệu triết học có thể hiểu tƣ duy lý luận qua 3 lát cắt sau:
14
Một là, tƣ duy lý luận đƣợc hiểu với tƣ cách là một động từ, nó đƣợc
xem nhƣ là qúa trình đang vận động, nắm bắt và tái tạo hiện thực. Đây là một
quá trình kép bao gồm bốn quy trình: quá trình tƣ duy tiếp cận, nắm bắt hiện
thực để thu thập thông tin; quá trình xử lý thông tin để tìm ra mối liên hệ bản
chất và quy luật của sự vật; quá trình liên kết các quy luật để tìm ra mối liên hệ
bản chất; quá trình tƣ duy trở về với hiện thực để chỉ đạo và cải tạo hiện thực.
Hai là, tƣ duy lý luận với tƣ cách là một danh từ, đƣợc hiểu là một kết
quả đã đƣợc hình thành, là sản phẩm của trí tuệ cao và có đƣợc thông qua sự
tích lũy tri thức trong hoạt động hàng ngày của con ngƣời, từ đó tƣ duy lý
luận đƣợc khái quát và hình thành nhờ tƣ duy kinh nghiệm.
Ba là, tƣ duy lý luận đƣợc hiểu với tƣ cách là một tính từ. Ở đây, tƣ
duy lý luận đƣợc hiểu nhƣ là phƣơng pháp, phƣơng thức tƣ duy khi nó phản
ánh và tái tạo hiện thực khách quan. Hiểu tƣ duy lý luận với tƣ cách là một
tính từ, nó đƣợc hiểu thông qua các cặp đối lập: tƣ duy biện chứng đối lập với
tƣ duy siêu hình, tƣ duy lôgic đối lập với tƣ duy phi lôgic, tƣ duy khoa học
đối lập với tƣ duy phi khoa học. Tƣ duy lý luận theo nghĩa này đƣợc hiểu và
đồng nghĩa với tƣ duy biện chứng.
Nhƣ vậy, tư duy lý luận là tư duy lôgic, khoa học và sáng tạo. Tư duy lý
luận thể hiện trình độ phát triển cao của năng lực tư duy của chủ thể nhận thức,
vì năng lực là toàn bộ những đặc tính tâm lý của con người, khiến cho nó thích
hợp với một hoạt động nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử.
* Đặc trưng của tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận là giai đoạn phát triển cao nhất của tƣ duy khoa học. Với
tƣ cách là một nấc thang cao nhất của tƣ duy, tƣ duy lý luận có những đặc
trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất, tƣ duy lý luận phản ánh thế giới hiện thực một cách gián tiếp,
có tính khái quát và trừu tƣợng hoá cao. Tƣ duy lý luận là trình độ cao của tƣ
duy, có đặc điểm là phản ánh khái quát và trừu tƣợng cao khách thể hiện
thực. Tƣ duy kinh nghiệm có đối tƣợng là những khách thể hiện thực riêng lẻ,
15
còn tƣ duy lý luận có đối tƣợng là những khách thể trừu tƣợng, khái niệm,
phạm trù, quy luật. Từ những cái trừu tƣợng, tƣ duy lý luận đi vào khái quát
và tổng hợp thành cái cụ thể trong tƣ duy. Kết quả mà tƣ duy lý luận có đƣợc
là sự phản ánh khái quát, trừu tƣợng cao đối với khách thể hiện thực.
Thứ hai, tƣ duy lý luận đƣợc diễn đạt bằng hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật. Tƣ duy lý luận phản ánh bản chất sự vật, hiện tƣợng.
Đồng thời, nó mang tính trừu tƣợng hóa, khái quát hóa cao nên chủ yếu
hƣớng vào việc đi phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra mối liên hệ bên
trong quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tƣợng.
Vì vậy, tƣ duy lý luận đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy
luật của các sự vật khách quan và có khả năng đƣa ra những dự báo khoa học,
định hƣớng cho hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, tƣ duy lý luận có vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn đúng đắn,
phản ánh sự vật, hiện tƣợng trong tính chỉnh thể hệ thống. Thế giới khách quan
tồn tại rất đa dạng, phong phú và nhiệm vụ của tƣ duy lý luận là không chỉ
dừng lại ở việc nhận thức các hiện tƣợng bề ngoài mà còn phải đi sâu vào bản
chất, gạt bỏ những cái ngẫu nhiên, bề ngoài để tìm ra cái tất yếu, quy luật.
Thứ tƣ, tƣ duy lý luận có khả năng đƣa ra các dự báo khoa học nhằm
điều chỉnh hành vi của con ngƣời trong hoạt động thực tiễn. Tƣ duy lý luận
cũng nhƣ tƣ duy nói chung đều có tính năng động, sáng tạo. Tính năng động
sáng tạo của tƣ duy lý luận không chỉ thể hiện trong hiện thực mà còn trên cơ
sở của những tri thức đã có. Từ đó, tƣ duy lý luận có khả năng tạo ra những
mối liên hệ giữa các tri thức, đồng thời sáng tạo ra những tri thức mới, dự báo
xu hƣớng phát triển của các sự vật hiện tƣợng. Tƣ duy kinh nghiệm mới chỉ
dừng lại ở sự phản ánh các sự vật hiện tƣợng đã và đang diễn ra thông qua
các số liệu thu đƣợc trong hoạt động thực tiễn. Còn tƣ duy lý luận trên cơ sở
phản ánh chính xác quá khứ, hiện tại và với tất cả các điều kiện đã biết thì nó
thực hiện các thao tác theo quy luật của tƣ duy nhƣ: phán đoán, chứng minh,
suy luận… rồi đƣa ra những kết luận mới, tri thức mới, những tiên đoán và
16
dự báo khoa học. Nhờ có tƣ duy lý luận mà con ngƣời có khả năng phản ánh
và dự báo đúng xu hƣớng vận động của hiện thực khách quan trong một thời
gian dài. Tƣ duy lý luận có chức năng dự báo và định hƣớng cho hoạt động
thực tiễn.
Tƣ duy lý luận với tƣ cách là mức độ cao nhất của tƣ duy đóng vai trò là
thế giới quan, nhân sinh quan, phƣơng pháp luận chung nhất cho mọi loại
hình tƣ duy.
* Bản chất và cấu trúc của tư duy lý luận
Tƣ duy lý luận về bản chất là biện chứng, là trình độ phát triển cao nhất
của tƣ duy khoa học mà nhân loại đạt đến, vì ở trong nó đã bao hàm hai yếu
tố cơ bản nhất của khoa học hiện đại đó là tƣ duy biện chứng và duy vật. “Tƣ
duy lý luận chân chính, khoa học, hiện đại đó là tƣ duy lý luận mácxít. Về
thực chất tƣ duy lý luận mácxít là tƣ duy biện chứng duy vật - một loại hình
tƣ duy đƣợc hình thành trên cơ sở tổng kết những tri thức tinh túy nhất của
khoa học. Nó là sản phẩm của sự kết tinh tƣ duy nhân loại và bao chứa trong
đó hai thành tố, hai hạt nhân cơ bản và hợp lý của khoa học hiện đại là: duy
vật và biện chứng” [23, tr.23-24]. Trong đó, yếu tố biện chứng làm cho tƣ
duy thấy đƣợc mối liên hệ, quan hệ qua lại bên trong của sự vật và hiện tƣợng
cũng nhƣ mối liên hệ và quan hệ giữa các sự vật hiện tƣợng. Còn yếu tố duy
vật giúp cho nhận thức con ngƣời nắm bắt đƣợc thực chất của sự vật, căn
nguyên của sự vật, các quy luật của sự vật.
Tƣ duy lý luận là quá trình sáng tạo. Tính sáng tạo của tƣ duy lý luận
đƣợc thể hiện ở chỗ nó đem lại những tri thức mới về bản chất, cái bên trong,
những quy luật của hiện thực khách quan dƣới dạng lý luận theo hƣớng khái
quát hóa, trừu tƣợng hóa cao hơn nên nó đem lại nhận thức sâu sắc, đầy đủ,
hệ thống chỉnh thể hơn về bản chất và những tính quy luật vốn có của hiện
thực khách quan. Do vậy, tƣ duy lý luận giúp cho con ngƣời nhận thức đúng
đắn về sự vật và đƣa ra những biện pháp tác động phù hợp vào chúng. Nhờ
17
quá trình sáng tạo tƣ duy lý luận luôn vƣơn tới cái mới và nhận thức ngày
càng đầy đủ, đúng đắn về thế giới khách quan.
Tƣ duy lý luận là trình độ cao nhất của tƣ duy, nó chính là quá trình tiếp
cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ
thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Với tƣ cách là hình thức cao nhất
của tƣ duy, tƣ duy lý luận nắm bắt, tái tạo hiện thực khách quan không phải
bằng những khái niệm thông thƣờng mà bằng những khái niệm lý luận.
Thông qua những khái niệm này giúp cho tƣ duy con ngƣời có thể đi sâu vào
bản chất của sự vật, tìm ra những quy luật của sự vật hiện tƣợng.
Chính vì vậy, thông qua những giả thuyết và lý thuyết với tƣ cách là
công cụ chủ yếu trong tƣ duy lý luận, tƣ duy lý luận đã góp nhần nâng nhận
thức của con ngƣời lên một trình độ mới về chất, để không chỉ nhận thức
đƣợc thực chất của những sự vật hiện tƣợng đã, đang tồn tại mà còn đƣa ra
những tiên đoán khoa học về sự vật, hiện tƣợng. Đây là sức mạnh của tƣ duy
lý luận, là sự sáng tạo lại hiện thực khách quan theo hƣớng khái quát hóa,
trừu tƣợng hóa cao hơn nên nó đem lại nhận thức sâu sắc, đầy đủ, hệ thống –
chỉnh thể hơn về bản chất và những tính quy luật vốn có của hiện thực khách
quan. Tƣ duy lý luận đặc biệt coi trọng tính khoa học và sử dụng những tri
thức lý luận đạt đƣợc nhƣ là công cụ, phƣơng pháp khoa học để phát hiện
những mâu thuẫn, những vấn đề mới nảy sinh, đồng thời đƣa ra những giải
pháp mới để giải quyết, đây là điều mà tuy duy thông thƣờng không có đƣợc.
Hạt nhân của tƣ duy lý luận là tƣ duy triết học. Xét theo lôgic nội tại của
tƣ duy lý luận có hai cấp độ lớn là: tƣ duy của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ
duy của các khoa học cụ thể, trong đó tƣ duy của chủ nghĩa Mác - Lênin làm
cơ sở còn Triết học làm hạt nhân. Nhƣng thực ra ngay trong cơ sở của tƣ duy
lý luận cũng lại có hai cấp độ là: tƣ duy triết học và tƣ duy của các bộ môn
còn lại hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây tƣ duy lý luận cũng vẫn giữ
vai trò là nền tảng, cơ sở và hạt nhân. Nhƣ vậy, về thực chất tƣ duy lý luận có
ba cấp độ lớn đó là: tƣ duy Triết học, tƣ duy của các bộ môn còn lại hợp thành
18
chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ duy khoa học cụ thể. Trong cấu trúc phân tầng
của tƣ duy lý luận, tƣ duy triết học vừa là cơ sở, vừa là hạt nhân. Tƣ duy Triết
học cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong tƣ duy lý luận chủ yếu là do
những đặc trƣng của tƣ duy Triết học quy định. Cấu trúc của triết học Mác Lênin đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và sự thống nhất gắn bó không tách
rời là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong thành phần của triết học Mác - Lênin
còn có những vấn đề triết học trong khoa học tự nhiên, tâm lý học, lôgic học,
đạo đức học, mỹ học, chủ nghĩa vô thần khoa học và lịch sử triết học. Vì vậy,
nó không chỉ là lý luận của biện chứng khách quan và lôgic của nhận thức
khoa học, mà còn là lý luận của học thuyết xã hội học, của học thuyết đạo đức
học và mỹ học. Phƣơng pháp tƣ duy triết học là tƣ duy lý luận, loại tƣ duy
dựa vào việc tổng kết kinh nghiệm của nhân loại, thành quả của khoa học và
của văn hóa nói chung.
Triết học ở bất cứ thời đại nào cũng đều là kết tinh của tri thức nhân loại.
Tƣ duy triết học bao chứa trong nó những yếu tố cơ bản nhƣ: tính trừu tƣợng
- khái quát, tính chỉnh thể - bao quát, tính phê phán. Chính những đặc trƣng
này đã giúp cho tƣ duy triết học đóng vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan,
phƣơng pháp luận chung nhất cho mọi lĩnh vực của tƣ duy và sử dụng nó một
cách đúng đắn và sáng tạo trong các vấn đề mà hoạt động thực tiễn đã và
đang đặt ra. Mặt khác, những đặc trƣng này còn làm cho tƣ duy triết học có
đƣợc không chỉ là ở sự thuyết minh, chứng minh mà còn ở sự phát minh. Vì
vậy, tƣ duy triết học có thể đóng đƣợc vai trò và thực hiện đƣợc sứ mệnh là
nhân tố vừa là cơ sở vừa là hạt nhân trong tƣ duy lý luận.
Tóm lại, tƣ duy lý luận là cấp độ tƣ duy ở trình độ phản ánh các sự vật
hiện tƣợng một cách khái quát, trừu tƣợng cao, đầy đủ về mối liên hệ bản
chất, tính tất yếu, quy luật của sự vật, hiện tƣợng. Vì vậy, tƣ duy lý luận đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức, hoạt động thực
tiễn. Tƣ duy lý luận còn có khả năng đƣa ra các dự báo khoa học về xu hƣớng
vận động và phát triển của hiện thực khách quan. Tƣ duy lý luận là đỉnh cao
19