Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐỒNG THỊ CHINH




NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NỮ
TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học






HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐỒNG THỊ CHINH




NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NỮ
TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY




Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đình Xây





HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi được thực hiện

dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Ngô Đình Xây.
Các số liệu, và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn




Đồng Thị Chinh


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của luận văn 5
CHƢƠNG 1. NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ NỮ 6
1.1 Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến nó 6
1.1.1 Tư duy và tư duy lý luận 6
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận 16
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận 19
1.2. Vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
cán bộ nữ 21

1.2.1 Khái quát một số đặc điểm về tư duy lý luận của cán bộ lãnh, quản lý nữ 21
1.2.2. Năng lực tư duy lý luận với cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ 28
1.2.3 Những yêu cầu của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ
lãnh đạo, quản lý nữ 30
CHƢƠNG 2. NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NỮ TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 33
2.1 Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nữ tỉnh Thái Nguyên 33

2.1.1 Một số nét khái quát về đặc điểm tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay 33
2.1.2 Những ưu điểm về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ nữ tỉnh
Thái Nguyên hiện nay và nguyên nhân 39
2.1.3 Những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay và nguyên nhân 42
2.2 Vấn đề đặt ra 45
2.3 Quan điểm và giải pháp 51
2.3.1 Quan điểm 51
2.3.2. Giải pháp 55
KẾT LUẬN CHUNG 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dựng nước, giữ nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta hiện nay đã chứng minh vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam. Phụ nữ
không những là người vợ, người mẹ, người bạn, người thầy đầu tiên trong gia

đình mà còn tham gia vào hầu hết tất cả các lĩnh vực hoạt động chính trị – xã
hội. Trong bất kỳ lĩnh vực nào phụ nữ cũng thể hiện rõ tài năng, trí tuệ và bản
lĩnh, năng động, sáng tạo và có tinh thần trách nhiệm cao. Từ trong phong
trào đấu tranh cách mạng đó của quần chúng, một đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo,
quản lý đã hình thành. Đây là lực lượng nòng cốt, xung kích trong lãnh đạo
quần chúng thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý nữ cũng đang phát huy vai trò và khả năng của mình trên
tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Sự trưởng thành của đội
ngũ cán bộ nữ hiện nay đánh dấu bước tiến quan trọng của sự nghiệp giải
phóng phụ nữ, đồng thời khẳng định vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đất nước
đổi mới.
Để đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời vì sự tiến bộ của phụ nữ, vấn đề
cực kỳ quan trọng đó là nâng cao năng lực tư và đổi mới cơ chế quản lý đối
với cán bộ nữ. Yêu cầu này rất bức thiết, bởi các vấn đề phức tạp đều có vấn
đề căn nguyên từ khâu quản lý cán bộ. Tuy nhiên, muốn đổi mới khâu quản lý
cán bộ thì trước hết phải nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ nữ.
Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố, trong đó có một yếu tố rất quan trọng mà lâu nay chưa được
quan tâm đúng mức, đó là năng lực tư duy lý luận. Bởi vì nhờ tư duy lý luận
mà cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể nắm bắt chính xác bản chất của các sự vật,
hiện tượng. Đó là cơ sở để đưa ra các quyết định một cách chính xác và kịp thời.


2
Trong những năm qua, các cấp chính quyền đã rất chú ý bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý cho cán bộ. Nhưng do nhiều nguyên nhân nên chất lượng
và hiệu quả còn thấp, người học xong không phát huy được kết quả để nâng
cao trình độ quản lý của mình. Xét về nội dung và phương pháp bồi dưỡng,
chúng tôi thấy có một vấn đề nổi cộm: quá nhấn mạnh yêu cầu thiết thực mà

coi nhẹ yêu cầu tiềm năng, đặc biệt là tiềm năng trí tuệ; nội dung bồi dưỡng
chưa coi trọng việc nâng cao trình độ tư duy lý luận, vì thế cả việc ra quyết
định và triển khai quyết định chưa gắn liền với chuyên môn nghiệp vụ. Bên
cạnh đó, việc chọn cử cán bộ vẫn theo lối mòn “sống lâu lên lão làng”, coi
trọng tiêu chí kinh nghiệm và sự từng trải trong công việc.
Từ thực trạng nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “ Nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ tỉnh Thái Nguyên hiện
nay” làm luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn có được phần đóng góp
vào sự đổi mới trong công tác quản lý đội ngũ cán bộ này ở Thái Nguyên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Về tư duy lý luận, với những góc cạnh và hình thức thể hiện khác
nhau, đã được phân tích và đăng tải trên sách, báo, tạp chí. Có thể kể đến như:
- Hồ Văn Thông: “ Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay”-
Tạp chí Cộng sản , số 10-1987.
- Nguyễn Ngọc Long: “ Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới” – Tạp chí Cộng sản, số 10-1987.
- Phạm Ngọc Quang : “ Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ cuả Đảng hiện
nay”, Tạp chí Triết học, số 2-1994.
- Vũ Văn Viên: “ Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho
sinh viên, học sinh”, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp 2-1992.


3
Trong các bài báo trên các tác giả đã trình bày một cách tổng quát vai
trò của tư duy và tiếp cận ở tầm vĩ mô những yêu cầu về năng lực tư duy
trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề năng lực tư duy lý luận cũng thu hút nhiều tác giả chọn làm đề
tài nghiên cứu cho các luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ. Trong đó:

- Nguyễn Đình Trãi: “ Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
giảng viên dạy lý luận Mác – Lênin ở các trường chính trị tỉnh”. Luận án Tiến
sĩ Triết học.
- Vũ Đình Chuyên: “ Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ quản lý, lãnh đạo cấp huyện ở nước ta hiện nay”( qua thực tế tỉnh Kiên
Giang)- Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội -2000.
- Vũ Ngọc Hoằng: “ Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ sĩ
quan chỉ huy ở đồn biên phòng trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
triết học , Hà Nội – 2004.
- Kiều Hồng Mai: “ Nâng cao tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo cấp
huyện trong tình hình hiện nay qua khảo sát ở tỉnh Hà Tây”. Luận văn thạc sĩ
Triết học…
Các công trình đã phân tích thực trạng, nguyên nhân và đã đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao tư duy lý luận với đối tượng, phạm vi mà tác giả
khảo sát…
Tuy nhiên, vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý nữ thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Hơn nữa, việc
đánh giá thực trạng tư duy lý luận và đề ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ phụ nữ còn rất mới mẻ. Vì vậy, với đề
tài luận văn này, qua việc luận giải về năng lực tư duy lý luận trong đội ngũ
cán bộ phụ nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay, tác giả hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé


4
của mình vào công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ phụ nữ cấp,
cũng là góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Phân tích thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý nữ tỉnh Thái Nguyên hiện nay và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
của cán bộ phụ nữ trong tỉnh.
- Khảo sát thực trạng trình độ tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nữ qua thực tế tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ phụ nữ, đáp ứng yêu cầu của đất nước.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng : Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nữ trong hệ thống chính trị, từ cấp xã tới cấp tỉnh.
-Phạm vi nghiên cứu: Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đao, quản lý nữ của tỉnh Thái Nguyên, biểu hiện qua hoạt động thực tiễn trong
những năm gần đây, cụ thể là từ năm 2000 tới nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan
điểm của Đảng về con người, về năng lực tư duy lý luận của cán bộ quản lý
nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng. Luận văn còn kế thừa kết quả
nghiên cứu của tác giả đi trước về vấn đề này.


5
- Luận văn sử dụng tài liệu của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và các
tài liệu liên quan đến đề tài cuả Sở, Hội và kết quả khảo sát của tác giả ở các
cán bộ phụ nữ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, phương pháp hệ thống,
phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê…và các phương
pháp khác.

6. Đóng góp của luận văn:
- Góp phần làm sáng tỏ những yêu cầu phát triển năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Bước đầu đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng nâng cao
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ nữ tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
học tập, nghiên cứu và tiến hành công tác quản lý của cán bộ nữ cấp tỉnh.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
một số phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


6
CHƢƠNG 1
NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ NỮ
1.1 Năng lực tƣ duy lý luận và những yếu tố ảnh hƣởng đến nó
1.1.1 Tư duy và tư duy lý luận
1.1.1.1.Tư duy
Tư duy là một thuộc tính đặc biệt của con người, nó thể hiện trình độ
nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tư duy bao giờ cũng
là vấn đề cơ bản nhất của nhận thức luận. Vì vậy, từ xa xưa, tư duy đã thu hút
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Tư duy với tư cách là đối tượng nghiên cứu và xem xét nó trong mối
quan hệ với vật chất, với thế giới hiện thực khách quan là vấn đề xuyên suốt
trong lịch sử triết học. Song, dù theo lập trường trường duy tâm hay duy vật,
trong sự kế thừa lẫn nhau, các nhà triết học trước Mác đã đạt được những
thành quả nhất định trong phân định các giai đoạn của nhận thức, khẳng định
vai trò của cảm giác, kinh nghiệm hoặc lý tính, tự do. Nhưng vẫn chưa có

quan điểm nào giải quyết vấn đề một cách đúng đắn, khoa học về vai trò, tác
dụng, cách thức hoạt động của cảm tính, tư duy; về quan hệ biện chứng giữa
cảm tính và lý tính theo lập trường duy vật.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, tư duy là sản phẩm cao
nhất của một dạng vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá
trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán lý
luận… Tư duy xuất hiện trong hoạt động sản xuất xã hội của con người và
phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy
luật của thực tại.


7
Với bộ công cụ đặc biệt của mình, tư duy giúp cho chủ thể nhận thức
phản ánh được những thuộc tính cơ bản, những mối liên hệ cơ bản không chỉ
ở những sự vật riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự vật. Tư duy có khả năng nắm
bắt, phát hiện được bản chất của sự vật ngày càng sâu sắc hơn. Tính gián tiếp,
khái quát hóa, trừu tượng hóa, tính tích cực và sáng tạo là đặc trưng cơ bản
của tư duy con người. Nhờ vậy, tư duy thoát khỏi sự ràng buộc của hoàn cảnh
trực tiếp mà vẫn có thể nhận thức được đối tượng.
Tư duy giúp con người nhận thức được sự vật, hiện tượng ở mức độ
bản chất của nó. Trong quá trình trừu tượng hóa, dường như tư duy tách rời
khỏi hiện thực, khỏi cái cụ thể, cái cảm tính để gạt bỏ cái bề ngoài ngẫu
nhiên, đi vào bên trong bản chất của sự vật, phát hiện ra những mối liên hệ
căn bản nhất, từ đó tái tạo lại về sự vật, hiện tượng một cách toàn diện sâu
sắc. Tuy nhiên thế giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư
duy là kết quả của sự tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì thế, quá
trình tư duy là một quá trình phức tạp, nó không tiến hành phản ánh một lần
mà phải thực hiện một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về sự vật.
Do đó, tư duy con người và sản phẩm của nó không phải tất cả đều là chân lý.
Ta có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của tư duy như sau:

+ Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây được hiểu là những dấu
hiệu, những thuộc tính chung của sự vật, hiện tượng. Tư duy là trình độ cao
của quá trình nhận thức. Đó là quá trình phản ánh khái quát hóa chỉ có ở trình
độ nhận thức này mới phản ánh được những thuộc tính chung mang tính phổ
biến và cơ bản của sự vật khách quan. Cái chung trong thế giới hiện thực
không bao giờ tồn tại một cách độc lập, cụ thể mà cùng tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng khác nhau. Vì thế, nó không tách rời khỏi cái riêng, cái đặc thù,
nhưng trong tư duy cái chung được khu biệt ra một cách độc lập, được trừu
tượng hóa tách ra khỏi mọi cái riêng cảm tính.


8
+ Tư duy mang tính trừu tượng hóa. Khi tách cái chung ra khỏi mọi cái
riêng trong tư duy là một sự trừu tượng hóa. Đây chính là một đặc trưng cơ
bản của tư duy. V.I. Lênin nói về sự ưu việt của trừu tượng hóa là: những trừu
tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên, sự trừu tượng hóa về giá trị…phản
ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn, trung thành hơn.
+ Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp. Tư duy
phản ánh sự vật không phải từ những cảm giác trong tiếp xúc trực tiếp với sự
vật, hiện tượng mà là trên cơ sở các hình thức của nhận thức cảm tính như
cảm giác, tri giác và biểu tượng – nghĩa là nó mang tính gián tiếp. Chính vì
phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp mà tư duy có khả năng tách
rời nhất định với sự vật, không bị sự vật, hiện tượng chi phối nên nó có tính
độc lập tương đối. Do đó, nó có sức mạnh to lớn trong sự phản ánh thế giới
khách quan.
+ Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, sáng tạo.
Bản chất của con người là một thực thể năng động, sáng tạo luôn muốn vươn
tới và cải tạo thế giới, do đó, xuất phát từ cơ sở hoạt động thực tiễn nên tư duy
của con người cũng phản ánh thế giới một cách sáng tạo và tích cực. V. I.
Lênin cho rằng, sự chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối với

tiến trình phát tiển của lịch sử. Chính bằng tư duy mà con người có thể xây
dựng các giả thuyết khoa học, các lý thuyết trừu tượng, các mô hình lý tưởng
cho hiện thực và dự báo tương lai.
Tư duy có nhiều đặc trưng tùy theo cách tiếp cận. Sự phân chia trên đây
chỉ mang tính tương đối, bởi thực ra chúng tồn tại, gắn bó, liên hệ với nhau
hết sức chặt chẽ, chúng làm giả định lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau.
Trên thực tế, tư duy có tính sáng tạo, do đó nó có khả năng vượt trước
thực tiễn, đi trước hiện thực khách quan. Nhưng cũng vì sự linh động này mà
đôi khi tư duy dễ mắc phải sai lầm trong quá trình phản ánh khi nó phát huy


9
hoàn toàn thực tiễn. Lĩnh vực phản ánh của tư duy rất đa dạng: gồm tư duy về
kinh tế, tư duy về chính trị, tư duy về văn hóa… nhưng mọi hình thức phản
ánh, lĩnh vực phản ánh của tư duy đều có mục đích cuối cùng là tạo ra sản
phẩm được chứng nhận với tên gọi là chân lý. Vì vậy, phương pháp tư duy có
thể là tư duy hình thức, tư duy biện chứng, tư duy siêu hình và tư duy kinh
nghiệm, thông qua cách thức mà chủ thể tư duy phản ánh về đối tượng sẽ cho
phép chúng ta đánh giá được chủ thể tư duy đang ở trình độ nào trong tư duy.
1.1.1.2 Tư duy lý luận:
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà người ta có các cách phân loại tư
duy khác nhau. Chẳng hạn về phương pháp, về loại hình, về lĩnh vực Riêng
về cấp độ, ta có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Khác với tư duy kinh
nghiệm, tư duy lý luận phản ánh thế giới khách quan ở trình độ khái quát và
trừu tượng, bằng các khái niệm, phán đoán và suy luận. Chính nó tạo nên hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vì thế, nó mang lại những hiểu biết
sâu sắc về bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng
khách quan.
Trong mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận chúng ta
thấy rõ được sự tác động qua lại giữa hai trình độ của tư duy này, chúng

không phủ định nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa.
Tư duy kinh nghiệm với sản phẩm là những tri thức kinh nghiệm, là tập hợp
những hiểu biết tích lũy được rút ra trong hoạt động nhận thức của chủ thể tư
duy, là kết quả được nhận thức bằng con đường trực quan,cảm tính mang tính
kinh nghiệm của mỗi người. Những tri thức được rút ra từ tư duy kinh nghiệm
không phải là tri thức lý luận, là chân lý khoa học đích thực mà chỉ là chân lý
của những cái đã trải qua và nó bó hẹp trong phạm vi thế giới kinh nghiệm.
Cái chung của tri thức kinh nghiệm chỉ là tổng cộng những sự vật, mối liên hệ
riêng lẻ, đơn nhất, được tập hợp theo dấu hiệu tương tự bề ngoài, được lặp đi


10
lặp lại nhiều lần một cách trực quan chứ không phải là cái bản chất tất yếu,
phổ biến tồn tại trong những cái riêng. Kinh nghiệm là sự phản ánh những
dấu hiệu, những mối quan hệ hình thức, bề ngoài, lặp đi lặp lại nhiều lần trong
cuộc sống hiện thực. Ở tư duy kinh nghiệm, con người sử dụng những tri thức
kinh nghiệm cũ cũng như thông qua hoạt động cải tạo hiện thực khách quan
một cách trực tiếp làm phương tiện và cơ sở cho việc sử lý những thông tin
mới trong hiện thực cho việc chế biến ra những tri thức kinh nghiệm mới từ
tài liệu cảm tính để định hướng cho hoạt động tiếp theo. Tri thức kinh nghiệm
là tri thức của những cái riêng mang tính chất kinh nghiệm nên không thể
vạch ra con đường chân lý trong từng ngẫu nhiên tự phát. Nó chỉ có thể thụ
động chạy theo cái tất yếu, cái bản chất chuyển hóa của sự vận động chứ
không phải là cái có khả năng bao quát được sự vật đó. Tư duy đó hạn chế
nhận thức của chủ thể ở trình độ tự phát, thụ động chứ phải tự giác, sáng tạo.
Tư duy kinh nghiệm chủ yếu đi vào những cái riêng, cái đơn nhất không bản
chất. Và ở tư duy kinh nghiệm còn tồn tại vô số những cái ngẫu nhiên, tạo nên
tổng số những tri thức hạn chế về đối tượng chứ không phải là tái tạo lại toàn
bộ sự biện chứng đối tượng trong tư duy.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản

ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan.
Là sản phẩm của nhận thức, lý luận được hình thành và phát triển trong mối
liên hệ hữu cơ với thực tiễn; trong đó vai trò quyết định thuộc về thực tiễn.
Tư duy lý luận là cấp độ cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái
quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử
dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính
bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức.


11
Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm
sản phẩm của tư duy lý luận là tri thức lý luận, khác với tổng số những tri
thức kinh nghiệm mảnh đoạn. Tri thức lý luận là hệ thống những khái niệm,
phạm trù, quy luật chỉ ra tính tất yếu , phổ quát bao trùm toàn bộ biện chứng
của đối tượng. Tri thức lý luận là sản phẩm dựa trên sự tổng hợp, khái quát
các tri thức về tự nhiên, xã hội trong quá trình hoạt động của con người hướng
đến sự giải thích làm sáng tỏ những mối liên hệ phổ biến và các quy luật của
hiện thực khách quan. Sức mạnh của tri thức lý luận đã vượt qua cái bề ngoài
hình thức của đối tượng, vượt lên những cái thường biến động của đối tượng
để thấy được những mối liên hệ bên trong những quan hệ bản chất mà bằng
nhận thức trực tiếp, riêng lẻ không nhận thấy được. Tư duy lý luận phản ánh
bản chất, quy luật ở cấp độ các giai đoạn, các hình thức của sự vật, hiện
tượng. Nó đi vào nghiên cứu sâu tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách
vấn đề phản ánh một cách sâu sắc nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận
động của đối tượng nên tư duy lý luận có khả năng bao quát, bám sát vào đối
tượng cũng như khả năng vươn lên trên, định hướng cho sự vận động, phát
triển của sự vật.
Vậy, tư duy lý luận là trình độ phản ánh cao nhất của tư duy, nó chính
là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt và tái tạo hiện thực bằng lý luận và

được thông qua những giả thuyết, lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau. Tư
duy lý luận bao giờ cũng có tính hệ thống và nghệ thuật chuyển hóa lẫn nhau,
có tính biện chứng phản ánh sự vật một cách đa dạng và đầy đủ nhất dưới
hình thức lý luận, được thể hiện thông qua những lý thuyết, giả thuyết. Do
vậy, vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn
là rất lớn. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học
thì không thể không có tư duy lý luận” [18, 489]. Vì tư duy lý luận cho phép
nhà nghiên cứu vạch mở dược bản chất phát triển của khách thể nghiên cứu,


12
tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác,
phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết, quy luật tồn tại
và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận được. Bằng tư
duy lý luận con người khám phá ra bản chất của đối tượng, tư duy lý luận
đóng vai trò là chất keo dính kết các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ của
sự vật, hiện tượng “Dù người ta có tỏ ý khinh thường tư duy lý luận như thế
nào đi nữa nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên kết
hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được hay không thể hiểu được mối
liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [18, 508]. Tư duy lý luận gắn kết các hình ảnh
hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận thức đi vào
bản chất của sự vật.
Tư duy lý luận với sản phẩm là tri thức lý luận, nó đóng vai trò làm tiền
đề cho nhận thức xã hội, trên cơ sở đó vận dụng vào quá trình nhận thức xã
hội, phản ánh hiện thực xã hội và cũng như việc áp dụng những học thuyết xã
hội vào trong quá trình hoạt động thực tiễn, giải thích thế giới. Trong vai trò
là bà đỡ lý luận này, các học thuyết xã hội này còn làm tiền đề xây dựng các
học thuyết, lý thuyết xã hội mới, phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và
tạo ra những chân lý. Tất nhiên chúng ta cần phải lưu ý rằng lý luận về các
quy luật của tư duy hoàn toàn không phải là một chân lý vĩnh viễn. Do đó,

trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ nhất định thì chủ thể tư duy lý luận phải có
sự sáng tạo, chủ động dựa trên những đặc điểm riêng biệt của hoàn cảnh lịch
sử để có nhận thức đúng đắn, những quyết sách đúng góp phần thúc đẩy sự
phát triển.
Như vậy, tư duy lý luận là sự phản ánh nhất quán, chặt chẽ, có đích về
đối tượng hiện thực cũng như những tính chất và các mối liên hệ căn bản của
chúng vào đầu óc con người.


13
Tư duy lý luận giúp chủ thể nhận thức đạt được những kết quả nhận
thức về đối tượng khách quan một cách sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống
hơn và mang tính phổ quát.
Trên thực tế, không có một hệ thống tri thức lý luận nào được hình
thành một cách ngẫu nhiên mà nó phải có điều kiện và tiền đề ra đời của nó,
đó là thực tiễn. Thế giới hiện thực khách quan là chất liệu không thể thiếu
trong kết cấu của sự phản ánh. Không có thế giới hiện thực, không có đối
tượng phản ánh thì tư duy không có cơ sở vật chất để tồn tại. Nói cách khác,
cùng với bộ não của con người thì thế giới hiện thực là cơ sở quyết định sự
sinh thành và phát triển của tư duy. Nhưng tư duy lý luận có vai trò như thế
nào đối với đời sống xã hội, cải tạo hiện thực thì cần phải xem xét và nghiên
cứu một cách toàn diện và cụ thể.
Qua quá trình tư duy lý luận, chủ thể tư duy đã tiến hành tổng kết, khái
quát những quy luật vận động, phát triển trong thế giới khách quan. Với mỗi
sản phẩm được hình thành, chúng lại quay trở lại phục vụ cho thực tiễn, kể cả
những tri thức thuộc về kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm được rút ra từ hoạt
động thực tiễn nhưng nó chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính, cái nhỏ lẻ, bề
ngoài chứ chưa đi sâu vào mối liên hệ bên trong, bản chất của sự vật. Do đó,
để hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn thì nhận thức không chỉ dừng lại ở
trình độ kinh nghiệm mà phải đạt đến một tri thức cao hơn. Đó là tri thức lý

luận và hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật, các học thuyết giả
thuyết đem lại khả năng hiểu biết sâu sắc về mối liên hệ cơ bản, bản chất tất
yếu của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Bộ óc của con người
với tư cách là cơ sở sinh học hình thành tư duy con người trong quá trình
phản ánh hiện thực, tiếp cận hiện thực, tái tạo lại hiện thực không phải là sự
bắt trước một cách cứng nhắc, mô phỏng hay vẽ lại hiện thực khách quan mà
được tư duy nhận thức một cách tích cực, sáng tạo và có cải biến hiện thực.


14
Trong quá trình cải biến ấy, tư duy lý luận có thể còn in lại dấu ấn của chủ thể
tư duy bằng con mắt chủ quan, do đó có khả năng phản ánh không đúng hiện
thực ở khía cạnh nào đó. Vì vậy, trong quá trình tư duy phải tôn trọng và tuân
thủ nguyên tắc thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Tư duy lý luận có tính độc lập tương đối của nó, có khả năng đi trước,
đi xa hơn hiện thực trực tiếp, là quá trình phản ánh gián tiếp hiện thực khách
quan, nó có khả năng vượt trước hoạt động thực tiễn, hình thành những tri
thức mới mà bản thân thực tiễn chưa có. Các nhà kinh điển macxit đã chứng
minh luận điểm này. Khi hình thành học thuyết hình thái kinh tế xã hội trên
cơ sở tổng kết, khái quát thực tiễn và lý luận đã có, các ông đã đưa ra dự báo
sẽ có năm hình thái kinh tế xã hội mà khi đó thực tiễn cho thấy chỉ có bốn học
thuyết hình thái kinh tế xã hội đã tồn tại trong lịch sử mà thôi. Một hình thái
kinh tế xã hội trong tương lai – hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
được các ông dự đoán là sẽ ra đời. Dự đoán đó là dựa trên cơ sở vận động
logic nội tại của hiện thực để dự báo sự vận động của chính hiện thực ấy. Tư
duy lý luận có khả năng phản ánh sâu sắc bản chất cũng như dự kiến chiều
hướng phát triển tất yếu, lâu dài của các hiện tượng xã hội. Sức mạnh của tư
duy lý luận đối với đời sống hiện thực được Hồ Chí Minh khẳng định “lý luận
như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho ta trong công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi và có kinh nghiệm mà

không có lý luận thì như một mắt sáng, một mắt mờ” [38, 233-234].
Tư duy lý luận với sản phẩm của mình là lý luận tạo thành hai nhóm
chính trong quá trình hoạt động thực tiễn: nhóm thứ nhất là những tri thức
để giải thích thế giới (nhận thức thế giới) nhóm này thuộc về các lý thuyết
khoa học, giả thuyết, phạm trù; nhóm thứ hai là những tri thức để cải tạo
thế giới – đó chính là những chủ trương, đường lối, chính sách, các văn bản
pháp luật, các quyết định, và chúng được thực thi trong đời sống hằng


15
ngày. Hồ Chí Minh đã tổng kết “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ
ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính” [38; 233].
Tóm lại, tư duy lý luận là cấp độ tư duy ở trình độ phản ánh các sự vật,
hiện tượng một cách khái quát, trừu tượng cao nhưng sâu sắc và đầy đủ về các
mối liên hệ bản chất, tất yếu, tính quy luật, tính đứng đắn và tính chính xác
của sự vật hiện tượng. Vì vậy, tư duy lý luận có vai trò to lớn trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn, nó có khả năng phát hiện ra bản chất và quy
luật của đối tượng. Nhờ vậy, tư duy lý luận có khả năng đưa ra các dự báo
khoa học về xu hướng vận động và phát triển của chúng, do đó phạm vi ứng
dụng của nó cũng phổ biến hơn so với tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận là
đỉnh cao của tư duy con người, tư duy đó đang được phát triển trong thời đại
ngày nay, nhất là khi xã hội loài người đang bước vào nền văn minh tin học,
văn minh trí tuệ, khi tin tức khoa học đang thâm nhập vào mọi mặt của đời
sống xã hội và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thời đại ngày nay đang
đặt ra những thời cơ và thách thức để các nước đang và kém phát triển có thể
rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, việc phát
triển tư duy lý luận, phát huy sức mạnh và vai trò của nó là một yếu tố quan
trọng hàng đầu.

Ngày nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, vào xu thế hội
nhập quốc tế hóa, toàn cầu hóa với những diễn biến chính trị phức tạp.
Hoàn cảnh ấy đã tạo ra những thách thức, khó khăn lớn buộc chúng ta phải
vượt qua nhưng đồng thời nó cũng tạo ra rất nhiều cơ hội và nếu chúng ta
nắm bắt được những cơ hội quý giá đó, tìm được giải pháp, cách thức phát
triển thích hợp, tuân thủ quy luật khách quan thì tất yếu sẽ vượt qua được
và giành thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước xã hội chủ


16
nghĩa. Vì vậy vấn đề đổi mới tư duy lý luận đã, đang và luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm vì nó là chìa khóa của sự phát triển, đặc biệt là đổi
mới tư duy về vai trò của nhân tố con người, nó sẽ là tiền đề, điều kiện cho
sự đổi mới và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của nước ta. Trong
nghị quyết VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra rằng “công tác lý
luận trước hết phải hướng vào vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ căn cứ
khoa học của các giải pháp, dự báo các xu hướng phát triển, góp phần bổ
sung, hoàn thiện đường lối của Đảng làm cho ngày càng sáng tỏ con đương
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta” [25, 40].
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận
1.1.2.1. Năng lực
Năng lực tư duy lý luận là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu trong quá trình đổi mới tư duy trong thời gian vừa qua. Một
trong những điểm khác nhau căn bản giữa con người và con vật không phải ở
nhận thức mà ở năng lực tư duy. Bởi lẽ - như Ph.Ăngghen nói - con vật cũng
có nhận thức, cho dù nhận thức ấy không có gì là tối cao cả, nhưng con vật
không có năng lực tư duy. Về thực chất, tư duy là giai đoạn, là trình độ cao
của quá trình nhận thức hiện thực khách quan của con người. Đó là quá trình
ý thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực khách quan một cách gián tiếp
thông qua các khái niệm, phán đoán, suy luận lôgíc. Nhờ có tư duy mà con

người có thể nhận thức được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng, qua đó mà cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình
Năng lực của con người nói chung chỉ thể hiện ra trong hoạt động thực
tiễn, cho nên muốn đánh giá loại năng lực nào của một con người thì phải
thông qua hoạt động của đối tượng trong lĩnh vực đó. Để hiểu rõ khái niệm
năng lực tư duy, trước hết ta cần làm rõ khái niệm năng lực. Ta có thể hiểu,
năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với


17
yêu cầu đạc trưng của một hoạt động, nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt
động đó đạt hiệu quả cao.
Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân
nới đóng vai trò quan trọng, năng lực của con người không phải hoàn toàn tự
nhiên mà có, phần lớn do công tác, do tập luyện mà có.
Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này một cách tổng quan cũng như đi
sâu nghiên cứu các khái niệm, cấu trúc, vai trò của năng lực tư duy. Có tác giả
cho rằng năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất, trí tuệ đáp ứng yêu
cầu nhận thức thế giới và đảm bảo cho hành động sáng tạo của con người.
Năng lực này được biểu hiện qua khuynh hướng nhận thức và vận động, ở kết
quả xử lý thông tin và kết quả hoạt động. Có tác giả lại cho rằng đó là một sức
mạnh, một phẩm chất thật sự của con người. Qua đó, con người có thể sáng
tạo tinh thần, vận dụng tri thức vào cuộc sống. Theo tác giả này, 3 yếu tố cơ
bản cấu thành năng lực tư duy là: năng lực ghi nhớ và tái hiện bằng ngôn ngữ,
hình ảnh; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa thông qua phân tích tổng
hợp; năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng để xử lý thông tin.
Tư duy luôn gắn với các chủ thể nhất định, vì lẽ đó, năng lực tư duy
luôn gắn với chủ thể cụ thể.
Năng lực tư duy trước hết gắn liền với yếu tố di truyền học. Đó là cơ
sở ban đầu song nhân tố xã hội đóng vai trò quyết định tư duy của con người

và tri thức đóng vai trò là điều kiện để năng lực tư duy của chủ thể phát
triển. Từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, những thuộc tính rời rạc của sự
vật, hiện tượng được phản ánh trong đầu óc của chủ thể, từ đó diễn ra quá
trình trừu tượng hóa, khái quát hóa để nắm được bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng. Năng lực tư duy của chủ thể còn thể hiện ở khả năng biết
tổng kết, khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận phù hợp với quy
luật khách quan.


18
Năng lực tư duy tuy không đồng nhất với trình độ tư duy nhưng chúng
không tách rời nhau. Khi nói về trình độ tư duy là nói về cấp độ, mức độ hay
những khả năng xác định của tư duy. Đó có thể là trình độ thấp hay cao, tư
duy tiền khoa học hay tư duy khoa học, trình độ tư duy kinh nghiệm hay tư
duy lý luận cùng với trình độ tư duy là phương pháp tư duy tương ứng. Ở
trình độ thấp, phương pháp tư duy sẽ là phương pháp tư duy siêu hình; ở trình
độ cao, sẽ là phương pháp tư duy biện chứng.
Trình độ là một mức độ nhất định của khả năng tư duy mà chủ thể
nhận thức đạt tới. Nó cho thấy cấp độ và khả năng nhận thức của chủ thể. Vì
vậy, trình độ tư duy nhất định bao giờ cũng là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa năng lực tư duy của chủ thể và vốn tri thức mà chủ thể tích lũy trong
quá trình nhận thức.
Ph.Ăng-ghen từng khẳng định: “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc
tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của con người mà thôi. Năng lực ấy cần
phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì đến nay, không có
một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ lịch sử triết học thời trước”[18,
tr.487]. Năng lực tư duy của con người trước hết là từ những yếu tố di truyền,
năng khiếu thế nhưng nếu không được rèn luyện thường xuyên thì sẽ bị mai
một, không phát huy được tác dụng. Vì thế, có thể khẳng định năng lực tư duy
và trình độ tư duy đều là sản phẩm của lịch sử, là sản phẩm của môi trường

giáo dục, học tập và rèn luyện.
Khi nói về năng lực tư duy là nói về khả năng lựa chọn, tổng kết để
tìm ra kết luận nhất định. Đó là việc lựa chọn những khái niệm để hình thành
một phán đoán đúng. Đó chính là khả năng lựa chọn phương pháp thích hợp
để phù hợp với quy luật khách quan của đối tương nghiên cứu. Năng lực tư
duy thường được tiếp cận ở các kiểu như: năng lực tư duy thực hành, năng lực
tư duy lý luận, năng lực tư duy hình tượng. Xét theo cấp độ của năng lực tư


19
duy có thể phân ra thành năng lực tư duy lý luận và năng lực tư duy kinh
nghiệm.
Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng
lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn
vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát
triển; đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng khái niệm,
phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem
lại những tri thức mới mang tính chính xác, sâu sắc và chặt chẽ, logic và có
hệ thống phù hợp với quy luật khách quan của sự tồn tại và vận động của
hiện thực. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào
cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng giải quyết, giải
pháp khả thi để giải quyết các vấn đề của cuộc sống đạt hiệu quả cao.
Năng lực tư duy còn thể hiện ở khả năng xác lập tri thức mới, là khả
năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức. Hồ
Chí Minh từng khẳng định: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử”[41,tr.497].
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận
Chúng ta có thể khái quát một số yếu tố ảnh hưởng tới tư duy lý luận
như sau:

+ Năng lực tư duy phụ thuộc vào đặc tính bẩm sinh của mỗi người. Đó
là những yếu tố bẩm sinh như: đặc điểm cấu tạo của hệ thần kinh, di
truyền mà Ph.Ăng-ghen gọi là “ một đặc tính bẩm sinh của con
người ”[18,487]. Những yếu tố này đóng vai trò chính trong việc tạo ra tiềm
năng về năng khiếu, sự thông minh, nhạy cảm Đó là tiền đề, điều kiện của
trí tuệ nói chung cũng như tư duy lý luận nói riêng. Tuy nhiên, những tố chất
này phải được rèn luyện thường xuyên mới có thể phát huy được vai trò.


20
+ Năng lực tư duy phụ thuộc vào quá trình giáo dục, học tập rèn luyện
một cách tự giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều kiện tiên quyết là
điều kiện tiên quyết để con người phát triển năng lực của mình. Quá trình tích
lũy tri thức nhất thiết phải thông qua quá trình giáo dục. Quá trình này mang
lại cho con người cả về nội dung và phương pháp đúng đắn nhất. Nếu chủ thể
bị hạn chế về tri thức thì không thể nâng cao được năng lực tư duy nói chung
cũng như tư duy lý luận nói riêng.
+Môi trường kinh tế xã hội, nền tảng văn hoá, khoa học có ảnh hưởng
quan trọng tới năng lực tư duy lý luận. C.Mác nói rằng con người là sản phẩm
của hoàn cảnh kinh tế xã hội. Nhìn lại lịch sử ta thấy,cơ chế bao cấp mang lại
tư duy ỉ lại, luôn trông chờ vào người khác. Đó là sự thụ động và đã tạo ra
một thời đại mất đi sự năng động, đánh mất động lực phát triển xã hội. Ngược
lại, cơ chế thị trường trong giai đoạn hiện nay, tuy mang nhiều thách thức
nhưng thật sư nó đã mang lại những động lực to lớn cho sự phát triển xã hội
về mọi mặt. Tư duy lý luận của chủ thể còn đặc biệt phụ thuộc vào nền tảng
văn hóa xã hội. Như đã biết, nền tảng văn hóa xã hội là cội nguồn sức mạnh
của con người, khơi dậy những năng lực tiềm tàng của con người. Ứng với
mỗi giai đoạn khác nhau trong sự phát triển cuả khoa học công nghệ, năng lực
tư duy lý luận của con người cũng có những hình thức thể hiện khác nhau.

+ Hoạt động thực tiễn của chủ thể. Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực
tiếp đến năng lực tư duy lý luận. Thực tiễn chính là tiêu chuẩn kiểm tra chân
lý. Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra rằng:” chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở
chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”[18,tr. 720].
Xuất phát từ thực tiễn mà con người có những hiểu biết, khái niệm nhờ đó

×