Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 118 trang )

1

























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM HUYỀN TRANG




NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN TỈNH NINH BÌNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học












Hà Nội - 2013
2


























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM HUYỀN TRANG




NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN TỈNH NINH BÌNH



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đình Xây





Hà Nội - 2013

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 6
Chương 1: NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA NĂNG
LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
ĐOÀN 10
1.1 Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy
lý luận 10
1.1.1 Tư duy và tư duy lý luận 10
1.1.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận 21

1.2 Năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của cán bộ Đoàn 29
1.2.1 Thực chất hoạt động của đội ngũ cán bộ Đoàn 29
1.2.2 Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với cán bộ Đoàn trong
hoạt động Đoàn 40
Chương 2: NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
ĐOÀN TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 49
2.1 Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh
Bình và nguyên nhân của những hạn chế 49
2.1.1 Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh
Ninh Bình 49
2.1.2 Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong năng lực tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình 63
2.2 Những yêu cầu và vấn đề đặt ra trong việc nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình hiện nay 68
2.2.1 Tất yếu phải nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
Đoàn tỉnh Ninh Bình hiện nay 68
5

2.2.2 Những yêu cầu cơ bản của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình 76
2.2.3 Vấn đề đặt ra trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình hiện nay 81
2.3 Một số nguyên tắc và giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình hiện nay 89
2.3.1 Một số nguyên tắc chủ yếu trong quá trình nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình 89
2.3.2 Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình hiện nay 95
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

PHỤ LỤC 107



6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất cứ một quốc gia, dân tộc hay chế độ xã hội nào muốn tồn tại và
phát triển đều phải quan tâm đến việc bồi dưỡng, phát huy tính cách mạng và
trí tuệ của thanh niên. Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến
vận mệnh và sự tồn tại của đất nước, mà còn ảnh hưởng đến tương lai của dân
tộc. Vì vậy, thanh niên luôn là lực lượng chiến lược của mỗi quốc gia, dân
tộc. Cách mạng Tháng 8 thành công mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho đất
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh
một phần lớn là do các thanh niên”. Nói về nhiệm vụ xây dựng lại đất nước
sau chiến tranh, Người nói: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông
mong, chờ đợi ở các cháu rất nhiều” và tương lai đất nước sẽ phát triển ra sao,
“Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không chính là nhờ một phần rất lớn ở công học tập của các cháu”. Người vừa
khẳng định vai trò lịch sử của thanh niên, vừa đặt niềm tin mạnh mẽ vào khả
năng cách mạng của thanh niên và vị trí chiến lược của công tác vận động
thanh niên.
Thanh niên là những người chủ tương lai của đất nước, vì vậy, một đất
nước muốn phát triển nhanh, mạnh và bền vững trong tương lai thì không thể
không coi trọng việc vận động, giáo dục, rèn luyện thanh niên ngay từ bây giờ.
Ngày 26 - 03 - 1931, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được
thành lập bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng
của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đoàn Thanh niên nói chung và các cán bộ

Đoàn nói riêng đã góp phần không nhỏ trong việc vận động, tập hợp và nuôi
dưỡng lý tưởng Cách mạng cho thanh niên Việt Nam, là cánh tay phải đắc lực
của Đảng, đào tạo và giới thiệu các thanh niên - đoàn viên ưu tú vào hàng ngũ
7

của Đảng. Với vị trí, vai trò quan trọng như trên, đội ngũ các cán bộ Đoàn
thanh niên đòi hỏi phải có một trình độ tư duy nhất định. Việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho họ là điều cần thiết, mang ý nghĩa lâu dài. Bởi lẽ năng
lực tư duy lý luận là một trong những cơ sở quan trọng nhất để người cán bộ
Đoàn đưa ra được những quyết định đúng đắn trong hoạt động thực tiễn từ đó
giúp công tác Đoàn mang lại được hiệu quả cao.
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Đoàn
Thanh niên là đường lối chung, khái quát ở tầm vĩ mô. Khi được triển khai ở
các tỉnh, các địa phương đòi hỏi sự năng động, linh hoạt và sáng tạo của đội
ngũ cán bộ Đoàn các cấp thì mới đưa được những đường lối, chủ trương đó
vào cuộc sống, mới thúc đẩy được phong trào thanh niên ở địa phương phát
triển đi lên. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ Đoàn cấp tỉnh đến cấp cơ sở cần phải
có năng lực tư duy lý luận mới đáp ứng được những yêu cầu đặt ra hiện nay.
Nếu năng lực trí tuệ của họ còn nhiều yếu kém sẽ làm cho công tác thanh niên
ở nhiều địa phương bị hạn chế, làm cho hoạt động của Đoàn Thanh niên
không phát huy được tối đa sức mạnh của mình.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Ninh Bình đã có bề dày
truyền thống lịch sử, lịch sử Đoàn là một bộ phận khăng khít của lịch sử Đảng
bộ tỉnh, của lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào
thanh niên cả nước. Trong giai đoạn hiện nay, trình độ học vấn, năng lực tư
duy của đội ngũ cán bộ Đoàn của tỉnh đã có nhiều thay đổi, được nâng cao
hơn trước. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế, nghiêm túc nhìn nhận và đánh
giá, thì bên cạnh một số mặt mạnh, những điểm tích cực, năng lực tư duy của
đội ngũ cán bộ Đoàn của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng
được những yêu cầu của phong trào thanh niên cũng như sự phát triển đời

sống xã hội của tỉnh Ninh Bình nói riêng, của cả nước nói chung. Do vậy,
8

việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt mạnh, yếu về năng lực tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ này là một điều rất cần thiết.
Với lý do trên, học viên chọn chủ đề “Nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, vấn đề tư duy và đổi mới tư duy đã được khá nhiều tác
giả nghiên cứu. Tác giả Phạm Hồng Quý trong bài “Tư duy lý luận và bản
chất của nó”, tạp chí Triết học số 9 năm 2004, đã đi sâu và làm rõ bản chất
của tư duy lý luận trong sự so sánh với tư duy kinh nghiệm; tác giả Lại Văn
Toàn có bài “Đổi mới tư duy lý luận, tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”,
tạp chí Triết học số 1 năm 1988; tác giả Đào Duy Tùng: “Mấy vấn đề về đổi
mới tư duy”, tạp chí Cộng sản số 2 năm 1987 Tạp chí Cộng sản số 10 và 12
năm 1987 đã liên tiếp đăng hàng loạt bài viết về chủ đề “Về tư duy và đổi mới
tư duy” (mục Hội nghị bàn tròn) của các tác giả nhằm làm rõ một số quan
điểm lý luận cơ bản có tính chất đặt cơ sở và định hướng theo tinh thần Đại
hội lần thứ VI của Đảng. Về năng lực tư duy lý luận, có một số bài viết đi sâu
nghiên cứu như “Bàn về năng lực tư duy lý luận” của Hồ Bá Thâm (Tạp chí
Triết học số 2, tháng 6, năm 1994); “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy” của Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí Cộng sản số 10 năm 1987); “Rèn
luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho sinh viên, học sinh” của Vũ Văn
Viên (Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp số 2 năm 1992), v.v
Vấn đề thực trạng tư duy lý luận ở nước ta và vấn đề đổi mới tư duy
được rất nhiều tác giả quan tâm. Những căn bệnh, những yếu kém về tư duy
của cán bộ ta đã được “mổ xẻ” nghiên cứu trong các bài viết của tác giả Lê
Thi (“Thực trạng tư duy của cán bộ đảng viên ta và căn nguyên của nó”, Tạp
chí Triết học số 4 năm 1988), tác giả Ngô Đình Xây (“Vài nét về thực trạng tư
duy lý luận ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 4 năm 1990), tác giả Lê

9

Hữu Nghĩa (“Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta”, Tạp
chí Triết học số 2 năm 1988)
Gần đây cũng đã có một số công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ như: Tác giả Nguyễn Đình
Trãi “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác -
Lênin ở các trường chính trị tỉnh”, luận án Tiến sĩ Triết học năm 2001; tác giả
Nguyễn Đức Quyền “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay”, luận văn Thạc sĩ Triết học
năm 2004; tác giả Nguyễn Thế Thắng “Đổi mới tư duy về phương pháp giảng
dạy ở Học viện chính trị - Hành chính khu vực I”, Tạp chí Giáo dục lý luận số
1 năm 2009; tác giả Vũ Trà Giang với luận văn Thạc sĩ “Rèn luyện và nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà
Nội hiện nay”…
Về công tác thanh niên và hoạt động của đội ngũ cán bộ Đoàn, đồng
chí Phạm Văn Đồng viết cuốn “Về thanh niên và và công tác thanh niên”; tác
giả Văn Tùng trong cuốn “Một số vấn đề về công tác thanh niên trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”đã phân tích một số vấn đề về các
hoạt động cũng như công tác của thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, về xây dựng và củng cố Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh thời kì cách mạng mới. Cuốn “Những giải pháp của Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh phòng chống “Diễn biến hòa bình trong thanh
niên” do tác giả Lê Mạnh Hùng chủ biên đã đưa ra những vấn đề lý luận và
thực tiễn về phòng, chống “diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch đối với
giới trẻ nói chung và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nói riêng. Tác
giả Thái Doãn Thời trong cuốn “Thế nào là người cán bộ Đoàn” trên cơ sở
phân tích các chức năng của Đoàn thanh niên, đưa ra quan niệm về người cán
bộ Đoàn, đã đặt ra những yêu cầu đối với người cán bộ Đoàn thanh niên,
10


hướng phấn đấu để trở thành cán bộ Đoàn ưu tú. Luận án tiến sĩ của tác giả Lê
Văn Cầu “Đổi mới cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp
huyện trong điều kiện hiện nay (qua thực tế một số huyện)” cũng đã xác định
mục tiêu, yêu cầu, phương hướng đổi mới đội ngũ cán bộ Đoàn cấp huyện
trong điều kiện hiện nay trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đưa ra những giải pháp
đào tạo bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ Đoàn cấp huyện trong thời gian
tới, v.v
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp chúng tôi tiếp
thu, tham khảo làm định hướng cho đề tài luận văn của mình. Mặc dù đã có
nhiều tác giả đề cập nhiều tới vấn đề về năng lực tư duy lý luận và hoạt động của
người cán bộ Đoàn nhưng việc làm rõ thực chất, tính tất yếu của việc nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình thì chưa có tác
giả nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu về tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư
duy lý luận, luận văn làm rõ thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ này.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích phạm trù năng lực tư duy lý luận, những yếu tố ảnh hưởng
tới năng lực tư duy lý luận, và vai trò của nó đối với hoạt động của các cán bộ
Đoàn tỉnh Ninh Bình.
+ Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của cán bộ Đoàn tỉnh Ninh
Bình, nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

11


4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu việc nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung phân tích phạm trù năng lực tư duy lý
luận, nhất là năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình,
từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên nền tảng các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về lý luận, về
tư duy, sử dụng kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan
đến đề tài luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: Phương pháp lôgic -
lịch sử, phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát
hóa, phương pháp điều tra
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm sáng tỏ yêu cầu, những biểu hiện trong thực trạng năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình.
Góp phần gợi mở những vấn đề đặt ra trong năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình.
Ý nghĩa thực tiễn
Những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết sẽ góp phần vào việc
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn
12

nói chung, cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình nói riêng nhằm thúc đẩy sự đi lên của

phong trào thanh niên. Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho những người quan tâm đến vấn đề tư duy, năng lực tư duy lý luận, nhất là
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đoàn tỉnh Ninh Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.




















13

Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA NĂNG LỰC TƯ

DUY LÝ LUẬN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN
1.1 Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng đến năng
lực tư duy lý luận
1.1.1 Tư duy và tư duy lý luận
Từ thời xa xưa đến nay, tư duy luôn là vấn đề cơ bản nhất của nhận
thức luận. Chính vì vậy, tư duy đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu từ nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Tâm lý học nghiên cứu tư duy với
tư cách là hoạt động của não bộ, của hệ thần kinh cao cấp trong tương tác với
môi trường xung quanh. Sinh lý học nghiên cứu tư duy với tư cách là hoạt
động thuần túy của hệ thần kinh. Nhận thức luận nghiên cứu tư duy trong quá
trình nhận thức với các mối quan hệ giữa tri thức và hiện thực, giữa chủ thể
và khách thể. Lôgic học nghiên cứu các quy luật cũng như nghiên cứu các
hình thức, thao tác của tư duy
Trong lịch sử triết học đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về tư duy.
Sự khác nhau đó xuất phát từ các lập trường triết học khác nhau. Tuy nhiên,
dù là lập trường duy tâm hay duy vật, trong sự kế thừa lẫn nhau, các nhà triết
học trước Mác đã đạt được những thành quả nhất định trong việc phân định
các giai đoạn của nhận thức, khẳng định vai trò của cảm giác, kinh nghiệm
hoặc lý tính, tư duy. Song vẫn chưa có quan điểm nào giải quyết một cách
đúng đắn, khoa học về vai trò, tác dụng, cách thức hoạt động của cảm tính, tư
duy, về quan hệ biện chứng giữa cảm tính và lý tính theo lập trường duy vật.
Các nhà triết học trước Mác, mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn chưa xây dựng
được một quan niệm đầy đủ về tư duy nói riêng và một phương pháp nhận
thức khoa học nói chung cho nhận thức và hoạt động của con người.
14

Triết học Mác - Lênin ra đời đã đưa ra được những quan điểm khoa
học, đúng đắn về tư duy. Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng, tư duy là
sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là
bộ não, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái

niệm, phán đoán, lý luận Tư duy xét về thực chất là đặc trưng riêng biệt chỉ
có ở não người. Đó chính là quá trình ý thức con người tiếp cận và nắm bắt
hiện thực. Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con
người và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ
hợp quy luật của thực tại [65, tr. 634 - 635]. Ph. Ăngghen từng nói: “Nếu
người ta đặt câu hỏi rằng tư duy, ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta
sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc người” [39, tr. 55] và “Ý thức, cũng
như tư duy của chúng ta có vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa, cũng
chỉ là sản vật của một khí quan vật chất” [40, tr. 408].
Tư duy với tư cách là thuộc tính không thể thiếu của hoạt động chủ quan
của con người được thể hiện tập trung rõ nhất trong sự sáng tạo và trong sự tiên
đoán các sự vật hiện tượng trong thế giới. Tư duy cũng được xuất hiện và hiện
thực hóa trong quá trình đặt ra và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn
của con người. Có thể khái quát một số đặc trưng của tư duy như sau:
Tư duy là hình thức cao của sự phản ánh trong nhận thức của con
người. Triết học Mác - Lênin cho rằng, nhận thức là quá trình “từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực
khách quan” [31, tr. 179]. Đó là quá trình nhận thức của con người, từ sự
nhận thức các tính chất bề ngoài, các hiện tượng trong thế giới hiện thực. Quá
trình nhận thức, chỉ có thể đạt đến sự nhận thức về bản chất, quy luật vận
động và phát triển của các sự vật hiện tượng khi nhận thức ở trình độ tư duy
lý luận.
15

Tư duy không phải là toàn bộ nhận thức mà chỉ là một giai đoạn của
quá trình nhận thức, nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nếu chỉ bằng
cảm giác, tri giác thì nhận thức con người rất hạn chế, bởi vì con người không
thể bằng cảm giác mà nhận thức, hiểu những vấn đề như tốc độ, ánh sáng, âm
thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp khác… muốn hiểu được những

vấn đề đó, không gì có thể thay thế ngoài sức mạnh của tư duy. Tư duy diễn
ra dưới hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý, giả thuyết, lý luận… Kết quả
của quá trình tư duy bao giờ cũng là sự phản ánh các thuộc tính, các mối quan
hệ cơ bản, phổ biến không chỉ có ở một sự vật riêng lẻ, mà ở một nhóm sự vật
nhất định và kết quả cuối cùng phần nào được ghi lại trong ngôn ngữ.
Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.
Nói cách khác, tư duy là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con
người một cách khách quan và gián tiếp. Tư duy xuất hiện trong quá trình
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Ở giai đoạn nhận thức
bằng tư duy, sự vật chủ yếu được phản ánh một cách gián tiếp và khái quát
nhờ các khái niệm, phán đoán, suy lý. Sức mạnh trừu tượng hóa của tư duy là
hướng vào việc tìm tòi chân lý, nắm bắt những mối liên hệ khách quan có tính
bản chất, phát hiện những tính quy luật chi phối các sự vật hiện tượng. Chính
sự xuất hiện những khái niệm chung, các phạm trù cho thấy khả năng phản
ánh thực tại mang tính khái quát cao của tư duy con người. Từ việc xây dựng
các khái niệm và phạm trù qua quá trình suy lý và phán đoán - những thao tác
của tư duy mà con người đã phát hiện ra các quy luật. Tính chất khái quát và
gián tiếp của tư duy biểu hiện ở chỗ, nó đi từ “một hình thức liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau này đến một hình thức khác sâu sắc hơn, chung hơn” [31, tr.
240]; từ sự hiểu biết có tính chất hiện tượng đến hiểu biết có tính bản chất, từ
ngẫu nhiên, bề ngoài đến quan hệ có tính tất nhiên, mang tính quy luật. Điều
này đã được khoa học chứng minh.
16

Tư duy phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người nhưng
không phản ánh một cách thụ động, máy móc rập khuôn mà mang tính tích
cực, sáng tạo. Tính tích cực của tư duy được thể hiện ở chỗ nó vượt lên trên
nhận thức cảm tính, nó xây dựng nên hệ thống tri thức mới về thế giới khách
quan trong tính toàn vẹn và vì thế, phản ánh được bản chất của sự vật. Tính
sáng tạo của tư duy thể hiện ở quá trình tư duy khám phá, sáng tạo ra những

tri thức mới. Đó là khả năng xây dựng các khái niệm, phạm trù, liên kết chúng
lại với nhau, hệ thống hóa tri thức, vạch ra những mối quan hệ, liên hệ giữa
chúng, khái quát lại các quy luật chi phối tự nhiên xã hội và bản thân. Mặc dù
năng lực sáng tạo của tư duy ở mỗi con người là hạn chế và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan nhưng năng lực sáng tạo của tư duy
nhân loại là vô tận. Tư duy của con người như vậy, rõ ràng mang bản chất
người, thuộc phạm trù trí tuệ người, giúp cho con người khám phá các thuộc
tính, các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đi sâu vào bản chất, phát
hiện ra những quy luật vận động và phát triển của thực tại khách quan [65, tr.
634 - 635].
Thực tế cho thấy, quá trình tư duy cũng chính là quá trình vận dụng tri
thức vào đời sống hiện thực. Một mặt, tư duy bị quy định bởi hoạt động thực
tiễn lịch sử cụ thể của con người, mặt khác, với quá trình cải tạo giới tự nhiên
và cải tạo xã hội, con người cũng cải tạo chính bản thân mình, biến đổi và
phát triển tư duy của bản thân. Về điều này, Ph. Ăngghen khẳng định: “…
chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của
tư duy con người và trí tuệ con người phát triển song song với việc người ta
đã học cải biến tự nhiên” [39, tr. 720].
Như vậy, hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực chủ
yếu của tư duy, thực tiễn trở thành tiêu chuẩn cao nhất của tư duy con người.
17

Chính nó sẽ khẳng định và điều chỉnh tư duy. V.I.Lênin khẳng định “Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”. Ông cũng đã khái quát một cách sáng rõ mối quan hệ giữa
tư duy và thực tiễn cũng như biện chứng của quá trình nhận thức là “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn -
đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại
khách quan” [33, tr. 120]. Như thế, xuất phát từ thực tiễn, tư duy không dừng

lại ở trừu tượng, mà nó còn quay lại thực tiễn để kiểm tra các tri thức mới thu
được. Và bằng cách đó, con người chứng minh được tính đúng đắn, chân thực
của tư duy, nghĩa là chứng minh tính hiện thực, tính trần tục và sức mạnh của
tư duy con người.
Tư duy ngay từ khi xuất hiện đã gắn liền với ngôn ngữ - vỏ vật chất của
tư duy, chúng luôn thống nhất với nhau. Tư duy không thể tồn tại thiếu ngôn
ngữ, ngôn ngữ là phương tiện tồn tại của tư duy. Nếu như tư duy có chức năng
khái quát, tổng hợp, sáng tạo thông tin mới thì ngôn ngữ là phương tiện chuyển
tải thông tin. Với ý nghĩa này, ngôn ngữ mới mang chức năng nhận thức.
Nói tóm lại, sự phản ánh của tư duy đối với hiện thực khách quan là
hình thức cao nhất; đó là sự phản ánh khái quát, tích cực, sáng tạo về các
thuộc tính, các mối liên hệ, quan hệ phổ biến không chỉ có ở một sự vật riêng
lẻ mà ở một nhóm sự vật nhất định. Nếu tư duy phản ánh đúng đắn sự vật
khách quan thì nó sẽ tác động tích cực đến hoạt động nhận thức và thực tiễn,
cải tạo tự nhiên và xã hội vì lợi ích của con người. Ngược lại, nếu tư duy phản
ánh sai lệch hiện thực khách quan, nó sẽ tác động xấu đến hoạt động nhận
thức và thực tiễn, gây nên sự trì trệ đối với sự phát triển của khoa học và kĩ
thuật, kinh tế và xã hội.
Tư duy là “thế giới” tinh thần vô cùng phong phú, phức tạp, tùy theo
từng lĩnh vực thực tiễn lịch sử - xã hội; từng phương diện cấp độ phản ánh mà
18

tư duy được nhìn nhận ở các góc độ khác nhau. Về phương pháp tư duy, có tư
duy biện chứng và tư duy siêu hình; theo loại hình tư duy, có tư duy lôgic và
tư duy hình tượng, tư duy khoa học và tiền khoa học; theo lĩnh vực tư duy có
tư duy triết học, tư duy toán học, tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy văn
hóa…; về cấp độ tư duy, có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận;…
Mỗi cấp độ, mỗi loại hình tư duy có chức năng, đối tượng, phương
pháp, vị trí và vai trò khác nhau. Tư duy kinh nghiệm có chức năng, đối tượng
và phương pháp khác với tư duy lý luận. Đối tượng của tư duy kinh nghiệm là

những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian, thời gian với sự thống
nhất giữa riêng và chung, đặc thù và phổ biến… Tư duy kinh nghiệm sản sinh
ra những tri thức đơn nhất, còn tư duy lý luận sản sinh ra những tri thức phổ
biến. Tư duy kinh nghiệm mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể
hiện thực, thiên về phản ánh mặt hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Tư
duy lý luận là cấp độ phát triển cao nhất của tư duy, trên cơ sở hệ thống tri
thức tích lũy được từ tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận phản ánh thế giới
khách quan ở trình độ khái quát và trừu tượng với các khái niệm, phán đoán
và suy luận. Tư duy lý luận phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan nhờ các
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Chính nó tạo
nên hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Do tính chất gián tiếp của sự
phản ánh hiện thực nên tư duy lý luận mang tính chất tác động gián tiếp đối
với khách thể hiện thực và thường nặng về sự định hướng. Về trình độ phản
ánh, nếu tư duy kinh nghiệm chỉ dừng lại ở sự mô tả các mối quan hệ bề
ngoài, liệt kê các sự kiện, hiện tượng rời rạc thì tư duy lý luận phản ánh sâu
sắc các mối quan hệ nội tại mang tính quy luật, các cấp độ bản chất của sự vật
và hiện tượng của thế giới khách quan.
Tri thức của chủ thể tư duy kinh nghiệm có thể đúng nhưng thường bị
giới hạn trong một phạm vi chật hẹp nào đó, “nó đúng một cách thuần phác,
19

thô sơ, cảm tính nhiều hơn là sự đúng đắn do luận chứng khoa học đem lại”
[3, tr. 55].
Tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống các khái
niệm, phạm trù, quy luật, vì vậy mà nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản
chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng khách
quan. Mục đích của nó là làm xuất hiện lại (tái tạo lại) cái bản chất của sự vật,
của đối tượng nghiên cứu, giải thích đối tượng và thông qua đó phát hiện ra
những khả năng thay đổi và khả năng vận dụng đối tượng. Xét về bản chất, tư
duy lý luận là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, theo con

đường trừu tượng hóa, khái quát hóa, đi sâu vào nhận thức những mối quan
hệ nội tại, bản chất, quy luật của sự vật và hiện tượng. Vì vậy, tư duy lý luận
có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng. Cũng chính vì thế, tư duy lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong
sự phát triển của khoa học cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn xã hội
của con người.
Được hình thành trong giai đoạn nhận thức lý tính, tư duy lý luận khác
hẳn về chất so với tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận của con người đã mở
rộng đối tượng nhận thức của mình từ cái hữu hạn, mảnh đoạn, riêng lẻ lên
thế giới các đối tượng vô hạn, phổ quát, chỉnh thể. Do mọi hoạt động của tư
duy lý luận mang tính bản chất, tất yếu nên mối quan hệ tương tác, chuyển
hóa giữa các tri thức lý luận cũng mang tính tất yếu theo một lôgic nội tại nhất
định. Tri thức lý luận có giá trị đích thực nếu nó làm nảy sinh tri thức lý luận
tiếp theo cũng là một sự tất yếu, phổ quát. Điều đó có nghĩa là tri thức lý luận
phải trở thành công cụ, phương pháp tư duy, để tư duy vận hành, sản sinh ra
tri thức lý luận mới.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về tư duy lý luận:
20

Nếu hiểu tư duy lý luận với tư cách là một động từ thì nó được xem
như là quá trình đang vận động được khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực.
Đây là một quá trình khép kín bao gồm bốn quy trình nhỏ. Đó là quá trình tư
duy tiếp cận, nắm bắt hiện thực (thu thập thông tin); quá trình xử lý thông tin
để tìm ra mối liên hệ bản chất, quy luật của sự vật; quá trình liên kết các quy
luật để tìm hiểu bản chất của nó (tái tạo sự vật ở cấp độ bản chất) và quá trình
tư duy trở về với hiện thực để chỉ đạo, cải tạo hiện thực.
Với tư cách là một danh từ thì tư duy lý luận được hiểu như là một kết
quả đã có, đã hình thành, như là sản phẩm của trí tuệ cao có được nhờ sự tích
lũy tri thức trong hoạt động hằng ngày của con người và ở đây tư duy lý luận
được khái quát lên, được hình thành nên từ tư duy kinh nghiệm.

Tư duy lý luận còn được hiểu với tư cách là một tính từ. Với cách hiểu
này, tư duy lý luận được hiểu và sử dụng như là phương pháp, là cách thức,
phương thức tư duy. Đó chính là kiểu nhìn nhận, đánh giá vốn có của tư duy
lý luận khi nó phản ánh và tái tạo hiện thực khách quan. Tư duy lý luận theo
nghĩa tính từ này được hiểu thông qua các cặp đối lập của nó. Đó chính là tư
duy biện chứng đối lập với tư duy siêu hình, tư duy lôgic đối lập với tư duy
phi lôgic, tư duy khoa học đối lập với tư duy phi khoa học và ở nghĩa này thì
tư duy lý luận được hiểu và đồng nghĩa với tư duy biện chứng.
Có thể nói, tư duy lý luận là tư duy lôgic khoa học và sáng tạo. Nó biểu
hiện trình độ phát triển cao của năng lực tư duy của chủ thể nhận thức, bởi vì
năng lực là toàn bộ những đặc tính tâm lý của con người khiến cho nó thích
hợp với một hoạt động nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử.
Năng lực của con người là sản phẩm của sự phát triển của lịch sử. Nó không
những do hoạt động của bộ não quyết định, mà trước hết, là do trình độ phát
triển lịch sử mà loài người đã đạt được. Như thế, năng lực của con người gắn
21

liền không thể tách rời với tổ chức lao động xã hội và hệ thống giáo dục
tương ứng.
1.1.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận
a. Năng lực tư duy lý luận
Phạm trù năng lực tư duy lý luận chiếm vai trò quan trọng trong lý luận
nhận thức và lôgic học. Đây là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
lý luận trong quá trình đổi mới tư duy thời gian qua. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu một cách khá sâu sắc về khái niệm, cấu trúc và vai trò của năng
lực tư duy được công bố và đã góp phần làm cơ sở khoa học cho việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam trong quá trình đổi mới
đất nước và hội nhập quốc tế.
Từ điển Triết học cho rằng: “hoạt động tâm lý đặc biệt của con người
tức là năng lực tư duy”. Trong bài viết của mình về năng lực tư duy lý luận,

tác giả Nguyễn Ngọc Long đã đề cập một cách trực tiếp đến khái niệm năng
lực tư duy. Theo tác giả, “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí
tuệ, đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bản thân con người, đảm bảo cho
hoạt động sáng tạo của mình” [36, tr. 48], năng lực đó được biểu hiện ở
khuynh hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là
kết quả hoạt động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện
trình độ khác nhau của năng lực tư duy.
Có tác giả cho rằng, năng lực tư duy là một phẩm chất, một sức mạnh
thực sự của con người, năng lực tư duy là sức mạnh để sáng tạo tinh thần,
phát triển và vận dụng tri thức vào cuộc sống. Tác giả còn chỉ rõ ba yếu tố cơ
bản cấu thành năng lực tư duy là: Năng lực ghi nhớ, tái hiện bằng ngôn ngữ,
hình ảnh do nhận thức cảm tính đưa lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát
hóa thông qua phân tích, tổng hợp; năng lực tưởng tượng, suy luận, liên
22

tưởng, để phân biệt, phát hiện, lựa chọn, xử lý trong việc nhận thức và hành
động [55, tr. 8].
Qua các ý kiến trên đây chúng ta thấy, tuy còn có các cách hiểu khác
nhau nhưng nhìn chung, các tác giả đều thống nhất rằng năng lực tư duy là tổng
hợp những phẩm chất trí tuệ của con người và có vai trò hết sức quan trọng.
Như chúng ta đã biết, tư duy là sự suy nghĩ của con người trên cơ sở
các quá trình sinh lý - thần kinh diễn ra trong bộ não. Năng lực tư duy là đặc
trưng riêng có ở con người. Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó với một chất lượng cao [43,
tr. 656] và [74, tr. 117]. Vì vậy, để có được một quan niệm đầy đủ và đúng
đắn về năng lực tư duy lý luận, chúng ta cần nhận rõ những dấu hiệu đặc
trưng của nó, đó là:
- Năng lực tư duy lý luận là một khả năng, một phẩm chất tâm sinh lý
của con người. Đó là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội tạo nên
sức mạnh trí tuệ ở con người. Nói cách khác, năng lực tư duy lý luận vừa

mang tính bẩm sinh, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội.
- Năng lực tư duy lý luận được đặc trưng bởi sự tích lũy về phương
pháp tư duy. Sở dĩ như vậy là vì, tư duy là một quá trình trong đó con người
tiến hành hàng loạt các thao tác theo một lôgic nhất định. Các thao tác tư duy
đó là phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa Những thao tác này
có nội dung khác nhau nhưng liên hệ mật thiết, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong
quá trình tư duy. Các thao tác này được tiến hành ra sao, theo trật tự nào, lại
do những đối tượng nghiên cứu quy định. Nghĩa là, cách thức tư duy của con
người phụ thuộc vào tính lôgic khách quan của sự vật, vào tính chất và các
mối liên hệ của nó. Cách thức tư duy từng bước được ghi nhận như những dấu
ấn trong bộ nhớ của con người và dần dần hình thành nên những phương pháp
tư duy, được truyền thụ, giáo dục từ thế hệ này đến thế hệ khác. Con người
23

muốn nhận thức đúng đắn thế giới khách quan và hoạt động thực tiễn có hiệu
quả cần phải có phương pháp tư duy khoa học. Nhưng phương pháp tư duy dù
có khoa học đến đâu đi nữa cũng không thể tự quyết định được kết quả tốt của
tư duy lý luận mà điều quan trọng là ở chỗ, phương pháp ấy phải được rèn
luyện, vận dụng thành thạo, mềm dẻo, linh hoạt như một nghệ thuật thì mới
trở thành sức mạnh của tư duy. Điều này cắt nghĩa vì sao ở những người cùng
được trang bị một phương pháp tư duy mà kết quả tư duy lại rất khác nhau.
- Năng lực tư duy lý luận là khả năng lựa chọn, sắp xếp các thao tác
tư duy theo một lôgic nào đó nhằm đạt tới kết quả cụ thể. Đó chính là khả
năng xác định mục đích, các bước tiến hành, các khâu chủ yếu trong quá trình
phản ánh để lựa chọn thao tác nào là chính, cũng như cách phối hợp chúng ra
sao. Thực tế cho thấy, người càng có năng lực tư duy lý luận phát triển càng
có thể hình dung trước được kết quả công việc với những cách thức, biện
pháp để đạt được kết quả ấy.
- Năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng tiến hành các
thao tác tư duy. Mỗi thao tác có vị trí, vai trò khác nhau và liên hệ hữu cơ với

những thao tác khác nhằm đạt tới mục đích chung. Đồng thời, mỗi thao tác tư
duy lại được đặc trưng bởi một cách tiến hành nhất định. Cách thức này được
con người khái quát thành phương pháp tư duy như là công cụ không thể
thiếu được trong nhận thức và hành động.
- Năng lực tư duy lý luận là khả năng tích lũy vốn tri thức và nhận
thức sử dụng tri thức, xử lý thông tin và phương pháp một cách khoa học,
hiệu quả. Đó là “Nghệ thuật vận dụng các khái niệm” (Ph. Ăngghen). Năng
lực tư duy lý luận chủ yếu không phải là vốn có mà là sản phẩm của lịch sử xã
hội. Do đó, nó phải được rèn luyện, mài giũa thường xuyên; phải thông qua
hoạt động để biến tri thức và phương pháp tư duy thành phẩm chất và sức
24

mạnh vốn có của chủ thể tư duy, tạo ra một sự nhanh nhạy, chính xác như một
nghệ thuật trong suy nghĩ cũng như hành động.
- Năng lực tư duy lý luận là khả năng vận dụng lý luận đã có để nhận
thức, giải quyết những vấn đề thực tiễn mới; đồng thời, có những dự báo khoa
học cho tương lai.
- Năng lực tư duy lý luận không tách rời trình độ tri thức, văn hóa của
mỗi người. Trình độ cũng như vốn tri thức, văn hóa chung là một thành tố quan
trọng, tạo nên nền tảng của năng lực tư duy. Không có trình độ tri thức, văn hóa
nhất định thì khó mà có được năng lực tư duy lý luận thực sự. Tất nhiên là có
trình độ tri thức, văn hóa cao chưa hẳn đã có năng lực tư duy phát triển. Nhưng
rõ ràng là, sự tích lũy vốn tri thức, văn hóa chung càng nhiều, càng cao thì điều
đó chứng tỏ một năng lực tư duy nhất định của chủ thể [48, tr. 17].
Có thể nói, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ
của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở trình độ lý luận) nhanh,
nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực; đồng thời có khả năng tiên đoán
sự vận động tiếp theo của hiện thực, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi nhằm
giải quyết và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người.
Về các yếu tố cấu thành nên năng lực tư duy lý luận, đã có nhiều quan

điểm khác nhau. Có người nhấn mạnh năng lực trừu tượng và khái quát hóa
của tư duy [57, tr. 278]; có người lại cho đó là xét đoán và liên tưởng. Theo
Mác - Ăngghen, những yếu tố cấu thành nên năng lực tư duy lý luận mà nhờ
đó nó có thể nắm bắt được các vấn đề và xử lý đúng dắn trong quá trình nhận
thức cũng như hoạt động, là năng lực trừu tượng hóa và năng lực tưởng tượng
- suy luận [39, tr. 647].
Năng lực tư duy lý luận được cấu thành từ nhiều yếu tố, chúng tôi tán
thành ý kiến của tác giả Hồ Bá Thâm cho rằng: có 3 loại yếu tố cấu thành nên
năng lực tư duy như là một thực thể.
25

Yếu tố đầu tiên, sơ đẳng của năng lực tư duy là năng lực ghi nhớ, tái hiện
những hình ảnh (khái niệm, hình tượng, sự kiện) do cảm tính mang lại. Năng lực
ghi nhớ và tái hiện chính là cơ sở cho sự suy nghĩ, tư duy của con người.
Trừu tượng hóa trong phân tích và tổng hợp. Đó là khả năng tách bản
chất khỏi hiện tượng, cái Chung khỏi cái Riêng và từ đó đi đến những kết
luận. Có thể coi trừu tượng hóa là năng lực tinh thần cơ bản nhất của tư duy
con người. Các Mác đã rất đề cao năng lực, sức trừu tượng hóa của tư duy khi
nhận thức các hiện tượng xã hội [38, tr. 198].
Tưởng tượng - suy luận, liên tưởng là một năng lực cơ bản của tư duy,
nhờ đó mà tư duy tìm được mối liên hệ bản chất, đi từ chưa biết đến biết, có
khả năng vạch ra cái mới, dẫn đến những phát hiện và khám phá, lựa chọn và
xử lý trong các tình huống nhận thức và hành động [55, tr. 8].
Trong năng lực tư duy lý luận, các yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ,
thống nhất hữu cơ với nhau và sự phân biệt giữa chúng chỉ là tương đối. Tuy
nhiên, cũng cần thấy rằng, trừu tượng hóa là yếu tố quan trọng nhất trong
năng lực tư duy lý luận.
Từ cấu trúc của năng lực tư duy lý luận, có thể xem năng lực tư duy lý
luận là tổng hợp những khả năng lưu giữ và tái hiện, trừu tượng hóa và khái
quát hóa, liên tưởng và suy luận trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức

và vận dụng chúng vào hoạt động sáng tạo của chủ thể tư duy. Nếu không có
các khả năng đó thì tư duy không tồn tại với tư cách là tư duy.
Năng lực tư duy lý luận có tác dụng hết sức to lớn. Một mặt, tư duy huy
động sức mạnh trí lực (cả nội dung và phương pháp tư duy) và sử dụng nó
một cách hiệu quả để nhận thức bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá
trình. Mặt khác, cụ thể hóa sự nhận thức đó để chỉ đạo hành động cụ thể của
chủ thể tư duy. Chính vì vậy mà năng lực tư duy lý luận là cơ sở của “năng
lực lao động trí tuệ”[61, tr. 164].
26

b. Những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy lý luận
Như đã nói ở phần trên, tư duy con người được hình thành và phát triển
dựa trên sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và xã hội, vì vậy, năng
lực tư duy lý luận của chủ thể ra sao, được phát triển như thế nào phụ thuộc vào
nhiều điều kiện, yếu tố phức tạp trong não người và trong đời sống xã hội.
Trước hết, năng lực tư duy có tính bẩm sinh, phụ thuộc vào cấu tạo hệ
thần kinh trung ương từng người, từng thế hệ. Khoa sinh vật học, di truyền
học ngày nay đã xác định mức độ thông minh của từng người phụ thuộc vào
máu, vào đặc điểm của hệ thần kinh và gen di truyền [28, tr. 52]. Trước đây,
khi bàn đến năng lực tư duy, Ph. Ăngghen đã cho rằng năng lực tư duy lý luận
là một “đặc tính bẩm sinh do năng lực của con người” mà có [2, tr. 52], nhưng
nó chỉ ở dạng khả năng, nghĩa là như một khả năng khách quan vốn có bắt
nguồn từ năng lực phản ánh của óc người.
Mặt tự nhiên, yếu tố bẩm sinh là yếu tố đầu tiên có ảnh hưởng trực tiếp
đến năng lực tư duy lý luận của chủ thể tư duy. Nhưng con người tồn tại gắn
liền với những hoạt động thực tiễn trong những môi trường xã hội nhất định,
chính trong đời sống thực tiễn, năng lực tư duy lý luận của con người mới
được thể hiện và phát huy. Bởi thế, năng lực tư duy lý luận còn phụ thuộc vào
các yếu tố xã hội. Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là
các yếu tố cơ bản sau:

- Môi trường kinh tế - xã hội là điều kiện vật chất khách quan có tác
động hết sức to lớn đến năng lực tư duy lý luận. Nói đến môi trường kinh tế -
xã hội, trước hết phải kể đến vai trò quyết định của phương thức sản xuất ra
đời sống vật chất của xã hội bởi sản xuất vật chất chính là nền tảng của đời
sống xã hội như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nói. Trình độ
phát triển của nền sản xuất vật chất không những tạo điều kiện phát triển con
người về thể chất - cơ sở sinh học của tư duy mà còn là nơi nảy sinh những

×