Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
A.MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đại đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta; là một trong
những bài học lớn của cách mạng nước ta. Để tăng cường và phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, Đảng
và Bác Hồ đã sáng lập và lãnh đạo tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt
Nam. Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ. Hiện nay, do nhu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của
Việt Nam đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, trong đó
có đổi mới phương thức lãnh đạo đối với MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã
hội.
Trong nhiều năm qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị nói chung và MTTQ Việt Nam nói riêng đã được đổi mới, tác động tích
cực vào quá trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quá trình đổi mới chậm,
còn không ít hạn chế nên chưa phát huy cao vai trò của MTTQ trong công cuộc
đổi mới. Hiện nay, nhu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của Việt
Nam đòi hỏi ngày càng phát huy cao độ mọi nguồn lực, tập hợp khối đại đoàn
kết toàn dân vì sự nghiệp chung. Do đó, Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương
thức lãnh đạo, trong đó có đổi mới phương thức lãnh đạo đối với MTTQ và các
đoàn thể chính trị- xã hội.
Tác giả nhận thấy “ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội” trong Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa X của Đảng là một đề tài mới và có
giá trị cao, tác giả lựa chọn đề tài này nghiên cứu có tính mới và ít người nghiên
cứu; nếu thành công tác giả rất mong sẽ được làm tài liệu tham khảo cho các tác
giả khác.
1
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của MTTQ
Việt Nam và các đoàn thể chính tri- xã hội.
* Khách thể nghiên cứu
- MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính tri- xã hội.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động MTTQVN và các đoàn thể chính trị- xã hội trong thời gian qua từ sau thời
kỳ đổi mới đến nay, phân tích một số nguyên nhân của thực trạng; đề tài đưa ra
một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội, góp phần
vào nâng cao chính sách đối với các đoàn thể chính trị- xã hội.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có nhiệm vụ:
+ Làm rõ một số khái niệm liên quan sử dụng trong đề tài.
+ Thu nhập các tài liệu và phân tích các thông tin về phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội.
+ Phân tích nguyên nhân của thực trạng trên.
+ Đề xuất một số các giải pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mac- Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng về hoạt động của MTTQ và các
đoàn thể chính trị- xã hội, các quan điểm xây dựng Đảng và các đoàn thể chính
trị- xã hội Việt Nam.
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu, phương pháp
suy luận logic, ngoài ra còn có một số các phương pháp khác hỗ trợ làm sang tỏ
vấn đề.
2
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
5. Kết cấu: gồm ba chương
Chương I: Khái quát chung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội
Chương II: Thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
các hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội
Chương III: Những kiến nghị và giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với các hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội
3
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI
1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18 tháng 11
năm 1930. Mặt trận Tổ quốc là tổ chức tập hợp các tổ chức, cá nhân cùng theo
đuổi một mục đích, lý tưởng, định hướng.
Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, Mặt trận
không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc Việt
Nam - một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế tục và phát huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt
Nam các thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương phát huy truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín
ngưỡng, quá khứ, ý thức hệ và chính kiến, miễn là tán thành công cuộc đổi
mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
4
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh", góp phần tích cực vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương,
phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp
luật; phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử
và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để
phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân
Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội là những tổ chức chính trịxã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo
nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào
hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ
quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát
huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn
kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Nhà nước.
5
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng
tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát
của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân.
1.2. Đoàn thể chính trị- xã hội
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư
tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp
phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp
pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội,
giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân,
góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực
hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương
đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn.
Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân
xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các
tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ
chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức
của hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư.
1.3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể chính
trị- xã hội
6
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống những giải pháp, hình thức,
biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng vận dụng để
tác động vào các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân nhằm biến đường lối,
chủ trương của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo,
qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
Phương thức lãnh đạo của Đảng lại tuỳ thuộc vào nhiệm vụ cách mạng trong
từng giai đoạn cách mạng. Khi Đảng đã có đường lối chính trị đúng thì công
tác tổ chức nói chung, công tác cán bộ và phương thức lãnh đạo nói riêng sẽ là
nhân tố quyết định sự thành công của nhiệm vụ cách mạng. Khi nhiệm vụ cách
mạng thay đổi, phương thức lãnh đạo của Đảng đòi hỏi cũng phải thay đổi. Để
chuẩn bị cho công cuộc đổi mới đất nước, Đảng đã sớm ra chỉ thị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Chỉ thị nêu
rõ: Trong cơ chế “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, muốn
đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì trước hết Đảng phải đổi
mới sự lãnh đạo của mình đối với công tác Mặt trận. Phải coi sự đổi mới công
tác lãnh đạo của Đảng là điểm mấu chốt để đổi mới hệ thống Mặt trận. Đối với
Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo
của Đảng, thì Đảng mới giành được vị trí lãnh đạo”.
Trong điều kiện hiện nay, khi Đảng cầm quyền, thì phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận được thể hiện ở những nội dung:
- Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đường lối chính trị, đề
ra và thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn, xác định đây là nhiệm vụ then
chốt.
- Lãnh đạo thông qua sự thuyết phục và tiền phong, gương mẫu của cán bộ,
đảng viên hoạt động trong Mặt trận. Lãnh đạo bằng việc chăm lo, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ trong xây dựng củng cố chính quyền, tổ chức, Đảng giới
7
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
thiệu cán bộ, đảng viên để Mặt trận và các đoàn thể quần chúng lựa chọn và
bầu cử một cách dân chủ, theo đúng điều lệ của tổ chức mình, tôn trọng tính
độc lập của các tổ chức, không áp đặt.
- Đảng tạo điều kiện và khuyến khích tính chủ động, sáng tạo trong hoạt
động của từng tổ chức thành viên của Mặt trận.
Ngày 27-3-1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khoá VI) đã ra Nghị quyết về “Đổi mới công tác vận động
quần chúng của Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân”.
Về yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần
chúng, Nghị quyết nêu rõ: Là làm sao để nhân dân cảm nhận được là Đảng bảo
vệ lợi ích cho dân và quyền làm chủ của dân được tôn trọng và phát huy. Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng thể hiện
trước hết ở chủ trương, đường lối mà Đảng đề ra phải phù hợp với quy luật
khách quan và đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của quần chúng. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng còn thể hiện ở chỗ “ Thực hiện chính sách nền
nếp việc Đảng, Nhà nước lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân trước khi ban hành những chủ trương, chính sách lớn”. Đảng tiến hành
công tác quần chúng bằng chính sức mạnh của bản thân tổ chức mình, bằng sự
gắn bó với dân, tiên phong gương mẫu của từng đảng viên trong mọi công việc,
thực hiện khẩu hiệu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07-NQ/TW “Về đại đoàn kết
dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc Thống nhất”, với nhiệm vụ chung của
Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy truyền
thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người
Việt Nam, tán thành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu giữ vững độc lập thống
nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, tiến lên: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
8
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Để động viên mạnh mẽ mọi tầng lớp nhân dân, mọi giai cấp, mọi dân tộc và
tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia khối đại đoàn kết toàn dân
nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo ra động lực mới phục vụ công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá IX) đã ra các nghị quyết “về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, “về công tác dân tộc”, “về công tác tôn giáo” và tiếp theo đó, Bộ Chính
trị ra Nghị quyết “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Đảng ta
có chủ trương: mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân; nâng
cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc
thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận được cụ thể hoá,
đó là:
- Kiên trì thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Củng cố
sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và trong từng tổ chức đảng. Đảng viên
gương mẫu tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân. Có
cơ chế để động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Kết hợp thực hiện chế
độ tập trung dân chủ trong Đảng và chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức
Mặt trận để làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta.
- Với trách nhiệm vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận, Đảng
phải thực hiện đúng vai trò tiền phong của mình; cán bộ, đảng viên phải gương
mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, thường xuyên tự phê bình và tiếp thu
ý kiến phê bình của nhân dân, của Mặt trận.
- Đại diện cấp uỷ tham gia Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc trình bày và kiến nghị
những vấn đề cần thiết với Mặt trận; cùng bàn bạc dân chủ, phối hợp và thống
nhất giữa các thành viên; tranh thủ lấy ý kiến của Mặt trận tham gia xây dựng
chủ trương, đường lối của Đảng liên quan đến khối đại đoàn kết toàn dân.
9
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
- Quy định thành nền nếp chế độ làm việc của cấp uỷ với Đảng đoàn Mặt
trận. Xây dựng quy chế định kỳ cấp uỷ làm việc với Đảng đoàn Mặt trận.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng sự định hướng chính trị giúp Mặt trận xác
định mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ; Đảng lãnh đạo Mặt trận
thông qua Đảng đoàn Mặt trận và Đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt
trận.
Qua tổ chức Mặt trận, những vấn đề Đảng đưa ra cần phải bàn bạc, hiệp
thương trên tinh thần dân chủ để đi đến thống nhất thành chủ trương, chương
trình công tác của Mặt trận và vận động mọi người thực hiện. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam cho thấy: có những giai đoạn, có những công việc, nhân danh
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiều khi có lợi hơn, có hiệu quả hơn, mà Đảng ta
vẫn giữ được vai trò lãnh đạo và đảm bảo được sự thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng.
Hiện nay vẫn còn một số cấp uỷ chưa nắm vững phương thức Đảng lãnh đạo
thông qua Đảng đoàn, thường đơn giản “gọi thẳng Mặt trận” đến chỉ thị và giao
nhiệm vụ như đối với cấp dưới của mình, không đúng với cơ chế, trái quy định
cần phải chấn chỉnh lại.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc để phát
huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc còn bao gồm nội dung lãnh đạo kiện
toàn tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, mở rộng hoạt động của Mặt trận, nhằm
làm cho Mặt trận thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình mà Hiến pháp
và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã quy định. Đảng ta khẳng định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng
thuận trong xã hội”3.
Trong tình hình hiện nay, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải gắn
liền với sự vươn lên của cả hệ thống Mặt trận, nhất là của những người trực tiếp
10
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
làm công tác Mặt trận. Mỗi cán bộ Mặt trận phải xây dựng cho mình những đức
tính cần thiết, như: phẩm chất chính trị trong sáng, vững vàng; sự hiểu biết sâu
rộng về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh quốc
phòng; là sự am hiểu tường tận tính chất, vị trí, vai trò của từng tổ chức thành
viên của Mặt trận; văn hoá ứng xử đầy tính thuyết phục của Mặt trận là
“nghiêm khắc với mình, bao dung, độ lượng với người”, xây dựng mối quan hệ
mật thiết giữa công tác Mặt trận với công tác dân vận của Đảng.
1.4. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của
nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt
trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa
nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính
quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu
thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu
mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác
định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt Nam là một bộ phận
không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..."
Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
11
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều
chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình đó
còn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội, các tôn
giáo... Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội đang đặt ra cho
công tác vận động quần chúng nói chung và công tác Mặt trận nói riêng những
vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập hợp các lực lượng yêu nước
đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế lực thù địch đangthực hiện chiến
lược diễn biến hoà bình và nhiều âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
hòng phá hoại sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta.
Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một
sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận
và các đoàn thể thành viên càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của
Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công
cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
12
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN
THỂ CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI
2.1. Thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội
Đảng ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết sát hợp về Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này,
đồng thời củng cố, khẳng định vai trò lãnh đạo và sự chỉ đạo đúng đắn của mình,
tiêu biểu là Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) về đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Nghị quyết
07 của Bộ Chính trị khoá VII về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc
Thống nhất; Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc, về công tác dân tộc và công tác tôn giáo
Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, gắn với phát triển
công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VIII). Riêng đối với lực lượng thanh
niên và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương đã
ban hành Nghị quyết 04 (khoá VIII). Bộ Chính trị, Ban Bí Thư cũng có nhiều
chỉ thị, nghị quyết cụ thể đối với các đối tượng quần chúng và các tổ chức quần
chúng khác.
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, có hai lực lượng quần chúng chưa có
đoàn thể của mình là nông dân và cựu chiến binh. Nhận thức rõ vị trí quan trọng
của những lực lượng này, Ban Bí thư ra chỉ thị số 05 - CT/TW "về tổ chức Hội
liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam và đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội";
ngày 6/12/1989, Hội cựu chiến binh Việt Nam được thành lập. Để tập hợp được
nhiều hơn các đối tượng quần chúng, Đảng lãnh đạo tăng cường và mở rộng Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, đổi tên một số đoàn thể chính trị - xã hội, như: Tổng
13
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
công đoàn Việt Nam thành Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp
Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam.
Qua các văn bản đã ban hành, có thể thấy, Đảng ta tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động; định hướng hoạt động cơ bản của các tổ chức, đoàn thể vào thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đẩy mạnh
quyền dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, xây dựng và thực
hiện chế độ dân chủ tự quản của nhân dân ở các cộng đồng dân cư. Cụ thể:
Một là, Đảng ta có quan niệm ngày càng rõ hơn về phương thức lãnh đạo
của mình đối với Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội. Phương thức lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực này là tổng thể những phương pháp, hình thức, giải pháp,
quy trình, lề lối, tác phong công tác mà Đảng tiến hành để tác động vào Mặt
trận, các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ cách
mạng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Hai là, làm sáng tỏ hơn mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội là: tiếp tục đổi mới
phương thức tập hợp nhân dân; xây dựng một xã hội đồng thuận, ổn định; củng
cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Phát huy tinh thần đại nghĩa và khoan dung, lấy mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tập trung, tương
đồng để thu hút mọi người Việt Nam yêu nước gắn bó với sự nghiệp chung của
đất nước.
Ba là, từng bước làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ hoạt động của Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội; bên cạnh chức năng cơ bản là quy tụ lực lượng
của quần chúng thành tổ chức để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra,
phải bảo vệ có hiệu quả những lợi ích chân chính, hợp pháp của các thành viên
trong tổ chức mình; phát huy vai trò phản biện, kiểm tra, giám sát đối với hoạt
động của tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị.
Bốn là, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ nêu trên, cần đa dạng
hoá hình thức tập hợp quần chúng, phương thức và hình thức hoạt động.
14
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Năm là, khẳng định và xác định rõ: động lực thúc đẩy phong trào quần
chúng phát triển là nhằm đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài
hoà các lợi ích, thống nhất giữa quền lợi với nghĩa vụ của công dân.
- Việc tiến hành đổi mới công tác cán bộ của Mặt trận và các đoàn thể
chính trị xã hội tạo nhiều chuyển biến tích cực, nhất là sau khi lập lại các Đảng
đoàn trong các đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng xác định rõ vai trò và trách
nhiệm của mình đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận, các đoàn thể từ
khâu xây dựng quy hoạch đến công tác quản lý. Các tổ chức Đảng từng bước cải
tiến việc phân công, phân cấp quản lý cán bộ, đổi mới trong chính sách đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể. Đặc biệt việc
mạnh dạn sử dụng cán bộ ngoài Đảng là một bước chuyển đáng kể.
- Thành lập và củng cố các Đảng đoàn, Đảng bộ khối dân vận và Hội
đồng Công tác quần chúng Trung ương, lập Ban dân vận Trung ương và hệ
thống Ban Dân vận Trung ương và hệ thống Ban dân vận trong cả nước nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham
mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân vận, Ban Bí thư
quyết định lập Ban dân vận Trung ương, có hệ thống Ban dân vận tới các huyện
thị, và thành lập khối dân vận với cấp xã, phường. Hội đồng công tác quần
chúng Trung ương cũng được thành lập theo quyết định của Ban Bí thư nagỳ
27/8/1991.
Đảng cử cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong cấp uỷ phụ trách công tác dân
vận. Ở cấp Trung ương, là một uỷ viên Bộ Chính trị hoặc uỷ viên Ban Bí thư; ở
cấp dưới, thường do một đồng chí Uỷ viên Ban thường vụ đảm nhiệm. Tuỳ theo
số lượng cấp uỷ viên ở mỗi cấp, trong Đảng đoàn Mặt trận và một số đoàn thể
chính trị - xã hội đều có một cấp uỷ viên làm Bí thư Đảng đoàn hoặc trực tiếp
giữ các chức vụ lãnh đạo cao nhất của tổ chức này.
Thường xuyên tăng cường kiểm tra hoạt động của Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội, chú ý hơn đến công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện chỉ
thị, nghị quyết liên quan đến hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị -
15
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
xã hội, nhằm nâng cao trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức, đảm bảo hoạt
động đúng tinh thần chỉ thị, nghị quyết đề ra.
2.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội
2.2.1 Nhận thức về phương thức lãnh đạo MTTQ
Nhận thức về phương thức lãnh đạo MTTQ của các cấp uỷ đảng cơ bản là
đúng. Điều này thể hiện trong những văn bản đã ban hành của Trung ương Đảng
và nhiều cấp uỷ địa phương, trong những phát biểu của nhiều đồng chí lãnh đạo
cao cấp của Đảng và Nhà nước. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh chỉ rõ: “Đảng
định hướng và tạo điều kiện để mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu,
phương thức hoạt động; đồng thời, phát huy tinh thần dân chủ, sáng tạo trong
xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình”. Tại Đại hội lần thứ VII
MTTQ Việt Nam, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Muốn tiếp tục đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của mặt trận, trước hết Đảng phải đổi mới phương thức
lãnh đạo của mình đối với công tác mặt trận theo yêu cầu của thời kỳ mới. Phải
coi sự tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là một trong những điểm
mấu chốt để mặt trận tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của
mình...”.
Nhưng còn không ít đồng chí lãnh đạo và cấp uỷ địa phương nhận thức
chưa đúng về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ. Vì thế, đã bộc lộ
một số hạn chế:
Việc ban hành những quy định cụ thể về phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ các cấp còn chậm và chưa rõ.
Sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với MTTQ và các đoàn thể nhân dân có
lúc, có nơi chồng chéo, lúng túng, có khi thiếu thống nhất, chưa đồng bộ. Cơ cấu
tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng, MTTQ và các đoàn thể
chính trị-xã hội ở các cấp vẫn trùng lắp. Thẩm quyền và trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân chưa thật rõ ràng.
16
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Cơ chế phối hợp giữa MTTQ với chính quyền, giữa MTTQ với các tổ
chức thành viên có mặt còn thiếu hoặc chưa phù hợp, quá trình thực hiện hiệu
quả chưa cao.
Ở không ít nơi, cấp uỷ, chính quyền còn coi nhẹ công tác mặt trận. Chưa
giới thiệu những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực làm công tác mặt
trận. Thiếu những chính sách, chế độ tạo điều kiện, khuyến khích, động viên cán
bộ làm công tác mặt trận, nhất là ở cơ sở.
Để khắc phục những hạn chế trên, trước hết phải điều chỉnh nhận thức của
lãnh đạo cấp cao và các cấp uỷ địa phương về MTTQ và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ. Trong đó, phải nhận thức sâu sắc MTTQ là
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trịxã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQ là
một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lãnh đạo mặt trận. MTTQ là
nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng, đoàn kết, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, có nhiệm vụ động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, phản
biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
công chức nhà nước, đảng viên; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản
ảnh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. Chính vì thế, công tác mặt trận liên quan
đến cả hệ thống chính trị, của tất cả cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các
đoàn thể chính trị-xã hội, của công chức, viên chức cơ quan đảng, nhà nước.
2.2.2. Hoàn thiện các quy định của Đảng và những chính sách liên quan đến
MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội
Các quy định của Đảng liên quan đến MTTQ cần được bổ sung và cụ thể
hoá bằng các văn bản pháp quy của Nhà nước. Trong đó có quy chế giám sát và
17
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
phản biện xã hội của MTTQ đối với các cơ quan đảng, nhà nước, cán bộ, đảng
viên. Chừng nào chưa có các quy chế rõ ràng, có tính pháp quy thì thiếu cơ sở
pháp lý để nâng cao vai trò của MTTQ trong công tác xây dựng đảng và góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng và thực hiện cơ chế phân bổ tài chính trực tiếp cho MTTQ theo
hệ thống từ Trung ương đến địa phương. MTTQ nên được phân bổ ngân sách từ
Quốc hội, HĐND các cấp. Thay đổi cơ chế tài chính sẽ là một cơ sở bảo đảm
MTTQ có tiếng nói khách quan. Nguồn tài chính này cần phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ công tác của MTTQ. Nên có chính sách bảo đảm hiện đại hoá cơ sở
vật chất, đáp ứng yêu cầu hoạt động của MTTQ trong tình hình mới.
2.2.3. Về tổ chức của MTTQ
Kiện toàn Đảng đoàn MTTQ Việt Nam trực thuộc Ban Bí thư. Xác định
rõ chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của Đảng đoàn MTTQ, quan hệ công
tác giữa Đảng đoàn MTTQ với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính
phủ, các bộ, ngành, với đảng đoàn các tổ chức thành viên. Phân biệt rõ nguyên
tắc hiệp thương chính trị trong hoạt động của MTTQ với nguyên tắc tập trung
dân chủ trong hoạt động của đảng đoàn và sinh hoạt đảng của đảng viên ở
MTTQ.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam ở Trung ương và địa
phương hiện còn thiếu hoặc chưa phù hợp nên có sự điều chỉnh, bổ sung. Trong
đó, cần có bước đột phá về tổ chức bộ máy nghiên cứu khoa học - đào tạo và hệ
thống truyền thông. Hiện cả hai lĩnh vực công tác này của MTTQ đều yếu so với
yêu cầu và so với các đoàn thể chính trị-xã hội (công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ).
2.2.4. Về công tác cán bộ của MTTQ
Đẩy mạnh hơn nữa công tác luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị,
khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ. Trong đó, luân chuyển cán bộ
18
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
đảng, chính quyền có kinh nghiệm sang làm công tác mặt trận và ngược lại. Nên
có quy định cán bộ lãnh đạo mặt trận các cấp ít nhất có một nhiệm kỳ làm công
tác đảng, một nhiệm kỳ làm công tác chính quyền. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo
các cấp của Đảng, chính quyền cũng có thời gian làm công tác mặt trận chuyên
trách. Có ý kiến cho rằng, trưởng ban dân vận kiêm luôn chủ tịch mặt trận sẽ tiết
kiệm được một biên chế người đứng đầu, thống nhất trong lãnh đạo. Việc này có
nơi đã thực hiện nhưng không hiệu quả. Do đó, không nên áp dụng mô hình này.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để bố trí đủ số cán bộ ở cơ quan MTTQ các
cấp đáp ứng nhu cầu công tác hiện nay và những năm tới.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ đã được đặt ra từ
nhiều năm và trong nhiệm kỳ Đại hội X đã có những chuyển biến tích cực.
Nhưng để hiệu quả hơn, trong nhiệm kỳ Đại hội XI, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với MTTQ cần được chỉ đạo và thực hiện đồng bộ, có chiều
sâu.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với MTTQ và các đoàn thể chính trị- xã hội
2.3.1 Hạn chế
Về nhận thức: Còn nhiều vấn đề chưa được chỉ ra thật rõ, như: Mặt trận
Tổ quốc là một liên minh chính trị, hoạt động của Mặt trận có nên đi vào những
việc quá cụ thể, tổ chức hoạt động kiểu phong trào như một đoàn thể không?
Trong quan hệ giữa Mặt trận và các tổ chức thành viên, việc Đảng vừa là tổ
chức thành viên, vừa có vai trò lãnh đạo sẽ được thể hiện cụ thể như thế nào
trong quy chế hoạt động không? Mối quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội được cụ thể hoá như thế nào, một mặt thể hiện tiếng nói chung
của đông đảo quần chúng; mặt khác, thể hiện được nguyện vọng, lợi ích đa dạng
của các tầng lớp nhân dân.?...
Trong chỉ đạo thực tiễn: Sự lãnh đạo bằng định hướng thông qua các chỉ
thị, nghị quyết vẫn còn chung chung, nội dung trùng lặp. Nghị quyết của cấp uỷ
đối với Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nhìn chung chưa kịp thời.
19
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Nghị quyết của cấp dưới gần như mô phỏng, thậm chí là bản sao của nghị quyết
cấp trên; vẫn còn tình trạng chưa kịp triển khai thực hiện nghị quyết trước đã
ban hành nghị quyết mới. Việc học tập nghị quyết của Đảng ở không ít nơi còn
mang tính hình thức, chưa chỉ ra những việc cụ thể cần làm. Qua điều tra xã hội
học, 65.5% số người được hỏi cho rằng nghị quyết của Đảng chưa thực sự cụ
thể, không quy định rõ trách nhiệm; 55.8% cho rằng việc thực hiện kiểm ra tổ
chức còn yếu.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá các nghị quyết của Đảng về Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội còn chậm, thiếu đồng bộ. Luật mặt trận,
Luật Công đoàn, Luật Thanh niên đã được ban hành nhưng chưa có luật về các
tổ chức quần chúng khác, đặc biệt là luật về Hội. Công tác lãnh đạo thông qua tổ
chức và cán bộ đối với Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội còn nhiều vấn
đề bất cập:
+ Về Đảng đoàn: Quy chế tổ chức và hoạt động của Đảng đoàn còn một
số vấn đề chưa rõ: Tổ chức Đảng đoàn của Mặt trận Tổ quốc như thế nào là phù
hợp? Mối quan hệ giữa Đảng đoàn cấp trên và cấp dưới, giữa Đảng đoàn và Uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc VN với Đảng đoàn của các đoàn thể chính trị
- xã hội chưa được xác định rõ.
+ Đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được
kiện toàn về cả số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới. Đội ngũ này đa phần làm việc kiểu hành chính, một số mắc bệnh quan liêu,
không chịu sâu sát quần chúng nhân dân. Chế độ, chính sách, điều kiện làm việc
của cán bộ còn nhiều bất cập. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy 39.3% số
người được hỏi đánh giá cán bộ Mặt trận, đoàn thể hoạt động yếu kém, gần 50%
cho rằng họ thiếu sự quan tâm của cấp uỷ và sự tạo điều kiện của chính quyền,
38.3% nhận xét Mặt trận và các đoàn thể chậm đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, mức độ tác động đến quần chúng thấp. Ở những vùng tôn giáo và
những nơi xẩy ra "điểm nóng", vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội thường
bị giảm sút...
20
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
- Hoạt động lãnh đạo đổi mới phương thức công tác Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội trong thời kỳ mới đôi khi còn lúng túng, chưa thực sự hiệu
quả, dẫn tới tình trạng "hành chính hoá", Mặt trận, các đoàn thể nhiều khi chưa
kịp thời nắm bắt được những vấn đề phức tạp nảy sinh từ các đối tượng, các
tầng lớp, các giai cấp trong xã hội. Ở không ít nơi, cấp uỷ chưa quan tâm lãnh
đạo thường xuyên đối với Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, mà thường
"khoán trắng" cho những uỷ viên được phân công phụ trách. Do đó, hiệu quả
thực hiện các mục tiêu hoạt động chưa cao.
- Phương thức sinh hoạt chủ yếu của các tổ chức chính trị - xã hội là các
hội nghị, nặng về phổ biến sự chỉ đạo một chiều từ trên xuống, ít có ý kiến tranh
luận, nội dung một số hội nghị trùng lặp. Đa phần cán bộ lãnh đạo ít dành thời
gian đi khảo sát thực tế ở cơ sở và tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với quần chúng
nhân dân.
- Việc kiểm tra các hoạt động của cơ quan Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời đôi khi bị xem nhẹ, nên
không phát hiện được những nhân tố, điển hình mới, tiên tiến, kịp thời khắc
phục và uốn nắn các khuyết điểm. Chất lượng sơ kết, tổng kết thấp, nặng nề báo
cáo thành tích, chưa có tính khái quát và chưa rút ra được các bài học kinh
nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Trước hết, xuất phát từ nhận thức, đến nay vấn đề phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị vẫn còn nhiều điều chưa được
làm sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn, tồn tại tình trạng coi phương thức lãnh
đạo của Đảng ở đây chỉ là lề lối làm việc, là các biện pháp tác nghiệp, phong
cách và tác phong của tổ chức Đảng. Nhiều người còn chưa phân biệt được
những phương thức lãnh đạo với nội dung lãnh đạo và e ngại tổ chức lãnh đạo
sẽ làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng.
Năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể
chính trị - xã hội nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
21
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Việc phân tích chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận và
các đoàn thể, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ từng cấp còn chậm
được cụ thể hoá; việc thành lập lại Đảng đoàn Mặt trận và các đoàn thể là một
bước tiến, song chưa kịp nghiên cứu bổ sung, hướng dẫn giải quyết cụ thể
những vấn đề phát sinh từ thực tiễn...
22
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
CHƯƠNG 3
NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA MTTQ VÀ CÁC
ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI
3.1. Một số ý kiến nhằm phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính
trị xã hội
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi
mới. Mục tiêu của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện
mục tiêu đó, cần phải xây dựng một hệ thống chính trị, trong đó xác định rõ
ràng vị trí, vai trò, chức năng của từng chủ thể, trên cơ sở các nguyên tắc hoạt
động thực sự khoa học, bảo đảm cho sự lựa chọn những phương thức thực thi
quyền lực của nhân dân lao động một cách tối ưu, giải quyết hài hoà và đúng
đắn mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị có vai trò đặc biệt
quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Thông qua Mặt trận, nhân dân
được tập hợp, đoàn kết lại, nhân dân có thể bày tỏ chính kiến của mình, cùng
tham gia giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng, của đất nước; giám sát,
cũng như hiệp thương lựa chọn những người đủ đức, đủ tài đại diện cho mình
vào bộ máy công quyền… Nói cách khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là thiết
chế chính trị - xã hội, bên cạnh động viên, tập hợp, đoàn kết đông đảo nhất các
tầng lớp nhân dân trong xã hội thành một khối thống nhất, còn có chức năng tư
vấn, giám sát, phản biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng
Đảng và Nhà nước, để thực thi quyền lực của nhân dân. Đặc biệt và cụ thể phải
kể đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng, củng cố
chính quyền nhân dân, nhất là tham gia các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp; tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật và
triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm thực hiện quyền dân chủ
trực tiếp của nhân dân. Công tác giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
cán bộ công chức nhà nước trong những năm gần đây cũng đã được Mặt trận
23
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Tổ quốc quan tâm, có cách làm thiết thực và từng bước đang có những bước
tiến mới.
Những thành tích và kết quả hoạt động của Mặt trận đạt được như nói trên
bắt nguồn từ đường lối đúng đắn và sự quan tâm lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trên thực tế, Đảng luôn luôn coi trọng công tác dân vận - Mặt trận,
phát huy vai trò của Mặt trận. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã có những đổi
mới, thể chế hoá vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của Mặt trận. Bản thân Mặt trận
cũng có nhiều cố gắng đổi mới tổ chức cũng như hoạt động để luôn hoàn thành
nhiệm vụ, từng bước khẳng định vị thế của chính mình.
Bên cạnh đó, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế cần khắc phục: chưa tập trung vào những công tác cơ bản, trọng tâm theo
chức năng, nhiệm vụ, công tác tổ chức và cán bộ chậm đổi mới; công tác lý
luận cũng như việc tổng kết thực tiễn hoạt động chưa được đặt đúng tầm và
triển khai thực hiện được nhiều; chưa thật sự phát huy được tính chủ động, tích
cực, sáng tạo của quần chúng nhân dân; chưa coi trọng công tác tuyên truyền ở
địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào các tôn giáo,
vùng đồng bào dân tộc,… Chỉ có những giải pháp thiết thực đồng bộ và có hiệu
quả của Đảng, Nhà nước và cả bản thân Mặt trận mới có thể phát huy những
thành tựu, hạn chế những yếu kém của Mặt trận Tổ quốc trong giai đoạn tới.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đổi mới hệ thống chính trị, cụ thể là đổi
mới đối với việc lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo Mặt trận, các đoàn thể, tổ chức
xã hội là rất quan trọng. Hiện nay, nhận thức của không ít cấp uỷ đảng về vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận còn chưa đầy đủ, chưa toàn diện và
chưa ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Không ít cán bộ,
đảng viên còn xem nhẹ công tác Mặt trận, xem tổ chức Mặt trận chỉ là tượng
trưng, hình thức, chỉ khi “tình huống có vấn đề” cấp uỷ đảng hoặc chính quyền
khó giải quyết mới cần Mặt trận hoà giải, đoàn kết.
Ở nước ta, Đảng vừa là một thành viên của Mặt trận, vừa là người lãnh đạo
Mặt trận, nhưng trong thực tiễn cấp uỷ đảng mới chỉ chú ý vai trò, trách nhiệm
24
Môn: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
của người lãnh đạo mà ít chú ý đến vai trò, trách nhiệm Đảng là một thành
viên. Điều này vô hình chung làm hạ thấp chính ngay vai trò, năng lực và uy tín
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận. Một mặt cấp uỷ đảng rơi vào tình trạng
lạm quyền, áp đặt, bao biện và can thiệp thô bạo vào công việc của Mặt trận,
mặt khác làm cho hoạt động của Mặt trận rơi vào tình trạng thụ động, ỷ lại, xơ
cứng và hành chính hoá, làm mất đi tính độc lập, đặc điểm, sắc thái riêng của
Mặt trận.
Trong nhiều văn bản pháp luật đều quy định các cơ quan nhà nước bảo đảm
các điều kiện cần thiết cho hoạt động của Mặt trận đạt hiệu quả, nhưng trong
thực tế điều kiện và kinh phí hoạt động của Mặt trận các cấp hiện nay rất khó
khăn. Ngân sách hoạt động của Mặt trận nhiều nơi thực hiện vẫn theo cơ chế
“xin - cho”, phụ thuộc vào cơ quan nhà nước, hay uy tín người đứng đầu tổ
chức Mặt trận. Vì vậy, hoạt động của Mặt trận không thể phát huy đúng và đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ của mình là chức năng giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước.
Hệ thống chính trị ở cơ sở được vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tuy nhiên, cho đến nay việc quy định về mối
quan hệ giữa tổ chức đảng, bộ máy chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính
trị - xã hội ở cơ sở còn nhiều vấn đề hiện chưa rõ, chưa cụ thể, mới chỉ dừng lại
ở nguyên tắc chung. Còn thiếu các văn bản pháp quy, cơ chế để Mặt trận thực
thi quyền hạn và trách nhiệm theo pháp luật quy định. Không ít nơi bộ máy
Đảng, chính quyền và Mặt trận hoạt động còn hình thức, hành chính, chưa sát
dân, chưa nắm bắt và kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng và những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội vẫn
còn nhiều hạn chế. Còn có nhận thức không đúng, cho rằng đoàn thể nhân dân
là “công cụ” của Đảng và chính quyền. Tính chất quan liêu, khuynh hướng
hành chính hoá tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân vẫn chưa được
khắc phục, nên các đoàn thể nhân dân còn nặng về vận động, kêu gọi chung
chung mà nhẹ về hiện thực hoá các lợi ích, lý tưởng, nguyện vọng chính đáng
25