Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TÌM HIỂU về FDI của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.93 KB, 11 trang )

TÌM HIỂU VỀ FDI CỦA VIỆT NAM
A. Giới thiệu chung về Việt Nam
1. Vị trí, tự nhiên
Việt Nam nằm trong khu vực địa lý thuận lợi cho giao lưu và thu hút đầu tư
nước ngoài.Vị trí vừa gắn liền với lục địa Á - Âu vừa tiếp giáp với Thái Bình
Dương lại nằm trên các đường hàng hải, đường bộ và đường hàng không quốc tế
quan trọng nên nước ta dễ dàng giao lưu, trao đổi hàng hoá với nhiều nước trên
thế giới.
Cùng với vị trí đó, hệ thống cảng nước sâu ven biển là điều kiện hấp dẫn
nhiều nhà đầu tư nước ngoài (sản lượng hàng hóa qua biển 192580895 tấn- 2010).
Nằm trong khu vực Đông Nam Á , các hoạt động kinh doanh diễn ra sôi nổi, giúp
nước ta học hỏi trao đổi kinh nghiệm các nước trong khu vực.
Ngoài ra, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng là cơ sở phát
triển ngành công nghiệp.Nguồn tài nguyên biển giàu có về hải sản và khoáng sản;
nằm trên vành đai sinh khoảng Thái Bình Dương trên đường di lưu của các loài
động thực vật đã mang lại cho nước ta nguồn thu lớn để phát triển kinh tế.
Khí hậu nhiệt độ cao, lượng mưa và độ ẩm lớn thuận lợi phát triển du lịch,
ngư nghiệp, nông nghiệp.
2. Tình hình kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn trải nghiệm những thách thức
quan trọng nhất của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa. Sau khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2006, độ mở của nền kinh tế đã tăng
vọt từ mức 100% lên 150% chỉ trong vòng hai năm, luồng vốn gián tiếp và trực
tiếp chảy vào mạnh chưa từng có. Nền kinh tế thế giới đã trải qua một giai đoạn
phát triển tương đối ổn định, trung bình khoảng 5% cho đến trước khi cuộc khủng
hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu diễn ra vào quý 1- 2008. Khi khủng hoảng kinh
tế xảy ra, các nền kinh tế đã phát triển lại bị rơi vào suy thoái lớn hơn, chạm mức
thấp nhất (-8%) vào quý 4-2008, trong khi đó các nền kinh tế đang phát triển chỉ bị
suy giảm xuống mức thấp nhất (-4%) vào quý 1-2009.Tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam trong hai năm 2008-2009, tăng trưởng kinh tế
1




ở mức thấp đi liền với lạm phát cao (đặc biệt trong 2008), thâm hụt thương mại và
thâm hụt ngân sách đều cao. Năm 2010 được xem là năm bản lề để ổn định kinh tế
vĩ mô, khắc phục các khó khăn sau khủng hoảng và lấy lại đà tăng trưởng cho giai
đoạn tiếp theo.Sau khủng hoảng, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn thách thức
song kinh tế vẫn đạt mức tăng trưởng ấn tượng trên 5%(2011-2013). Bắt đầu bước
vào thực hiện giai đoạn kinh tế toàn cầu hóa – xã hội hóa, tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân 5,52%/năm,trong điều kiện tốc độ tăng trưởng trung bình thế giới là
5%.

(dự đoán của ADB cho kinh tế VN năm 2015).
Theo đó, tiếp tục phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu sau: Tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân 7,0 - 7,5%/năm; Giá trị công nghiệp, xây dựng tăng 7,8 8%/năm; Giá trị nông nghiệp tăng 2,6 - 3%/năm; Cơ cấu GDP: nông nghiệp 17 18%, công nghiệp và xây dựng 41- 42%, dịch vụ 41- 42%; Sản phẩm công nghệ
cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ đạt 35% tổng GDP; Tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt 55%, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%, giảm nhập siêu và đến năm
2020 cân bằng được xuất nhập khẩu; Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt
40% GDP; Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm mức
bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015.
B. Lý do lựa chọn Việt Nam để tìm hiểu về FDI
1. Tình hình chung về FDI của Việt Nam
1.1 Việt Nam tiếp nhận FDI
2


Việt Nam là nước có tổng đầu tư FDI lớn nhất Đông Nam Á, đóng góp nhiều
vào tăng trưởng kinh tế và ngân sách Nhà Nước, cung cấp lượng lớn việc làm cho
lao động Việt Nam, cũng như mở đường cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận
được khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Với chủ trương khuyến khích khu vực FDI hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi

cho Việt Nam trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu, qua đó Việt Nam từng bước
tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần làm thay đổi cơ
cấu mặthàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm khai
khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng xuất khẩu của công nghiệp chế
biến, chế tạo
Số lượng các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng lên. Quy mô và phạm vi ngày
càng được mở rộng.
1.2 Đầu tư của FDI của Việt Nam ra nước ngoài
Các dự án đầu tư FDI quy mô lớn tập trung trong các lĩnh vực viễn thông, nông lâm nghiệp tập trung tại Lào, Campuchia và một số nước thuộc Châu Âu, Châu
phi.
Bên cạnh dòng vốn đầu tư của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư
của khối tư nhân, đặc biệt là của cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh
nghiệp FDI ngày càng tăng, góp phần làm tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ
của Việt Nam ra nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều dự án còn không khả thi do thủ tục
dườm dà, không thiểu văn hóa cũng như thị trường nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam.
2. Lý do lựa chọn
Việt Nam hiện nay là một trong những nước có nguồn vốn FDI từ các nước đầu
tư vào tương đối lớn, Việt Nam đứng hạng 9 trong số 10 quốc gia Châu Á đang
phát triển được giới đầu tư quan tâm nhất (theo đánh giá của Liên Hợp Quốc năm
2012,2013)
Khi mở của hội nhập, tình hình FDI của Việt Nam có những chuyển biến tích
cực, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của nền kinh tế.
Thuận lợi trong quá trình tìm kiếm thông tin, số liệu.
C. Tình hình FDI của Việt Nam
1. Các quốc gia đầu tư FDI vào Việt Nam và lĩnh vực đầu tư.
3


Trong năm 2014 đã có 60 quốc gia có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong số

đó, Hàn Quốc đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và vốn
tăng thêm là 7.32 tỷ USD, chiếm 36.2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Hồng
Kông đứng vị trí thứ hai với 3 tỷ USD tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và vốn
tăng thêm, chiếm 14.8% tổng vốn đầu tư. Singapore đứng ngay tiếp sau đó với
2.79 tỷ USD, chiếm 13.8% tổng vốn đầu tư. Vị trí thứ tư là Nhật Bản với 2.05 tỷ
USD, chiếm 10.1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Có thể thấy các quốc gia trên
vẫn là những nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam, bên cạnh đó họ còn mở rộng ra rất
nhiều các địa phương khác chứ không chỉ tập chung vào hai trung tâm thành phố
lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ( Nguồn: Cục ĐTNN- Bộ KHĐT)

-Nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư
nước ngoài với 880 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là
15.5 tỷ đô la Mỹ (chiếm 70.7% tổng vốn đầu tư đăng ký).
-Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp
mới và tăng thêm là 2.83 tỷ đô la Mỹ, chiếm 13% tổng vốn đầu tư đăng ký. Kế tiếp

4


là lĩnh vực xây dựng với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1.08 tỷ
đô la Mỹ.
-Tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong tổng vốn đăng ký của cả nước
đã tăng đều trong thời gian vừa qua (năm 2011 chiếm 50%, năm 2012: 70%, năm
2013: 76,6%, năm 2014: 72%
-Trong năm 2014, số lượng các dự án có quy mô lớn chiếm tỷ lệ nhỏ. Thu hút được
4 dự án có quy mô lớn trên 1 tỷ USD, 22 dự án trên 100 triệu USD, 24 dự án trên
50 triệu US, 157 dự án trên 10 triệu USD, còn lại là các dự án dưới 10 triệu USD
(chiếm 87% tổng dự án cấp mới năm 2014):







Công ty TNHH Samsung Electronics tại Thái Nguyên: sản xuất lắp ráp gia công
các sản phẩm điện tử, vốn đăng ký 3 tỷ USD
Công ty TNHH Điện tử Samsung CE Complex tại TP Hồ Chí Minh, nghiên cứu
sản xuất thiết bị điện tử công nghệ cao, các phần mềm tiên tiến, vốn đăng ký: 1,4
tỷ USD
Công ty TNHH Dewan International tại Khánh Hòa, xây dựng, phát triển khu vực
biển chính của Nha Trang, vốn đăng ký: 1,25 tỷ USD
Công ty TNHH Samsung Display tại Bắc Ninh, sản xuất, lắp ráp, gia công các sản
phẩm màn hình smartphone, máy tính bảng, vốn đang ký: 1 tỷ USD
2. Sự tăng, giảm FDI qua các năm
Trong 25 năm từ 1988-2013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt
khoảng 218.8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106.3 tỷ USD, lĩnh vực công nghiệp
chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), tính đến hết 21/12/2014, vốn FDI vào Việt Nam, cả cấp mới và tăng thêm
là 21.92 tỷ USD, bằng 98,1% so với năm 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam đang có chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục
về thu hút đầu tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD).
Giai đoạn 2000-2005, Việt Nam đang tích cực thực hiện chính sách thu hút
FDI, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, nên giai đoạn này, FDI chủ yếu tập trung
vào các ngành thương nghiệp, công nghiệp nhẹ. Đây là những ngành có thể giải
ngân nhanh. Thời kỳ 2006-2008, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới, lượng vốn đăng ký rất cao, tuy nhiên lại tập trung nhiều vào
các ngành công nghiệp như xi măng, sắt thép, khiến thời gian triển khai dự án dài,
5



giải ngân chậm. Từ 2008 đến nay, vì nhiều nguyên nhân bên trong như vấn đề đất
đai, đền bù giải phóng mặt bằng và nguyên nhân bên ngoài như cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ, thay đổi trong danh mục đầu tư nên mặc dù vốn cam kết cao
nhưng tốc độ giải ngân lại thấp.
3. Tác động của FDI đến Việt Nam
3.1 Tác động tích cực
Công nghệ được chuyển giao: Đây có lẽ là tác động lớn nhất đối với các
nước sở tại nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Như chúng ta đã biết, không
có một quốc gia nào có đủ mọi nguồn lực để làm ra tất cả các công nghệ cần thiết
một cách kinh tế, do đó cần cân nhắc giữa mua và làm. Hơn nữa, sự phát triển
không đồng đều giữa các quốc gia về công nghệ, nhiều nước không có khả năng
sáng tạo ra công nghệ mình cần, buộc phải đi mua công nghệ.Sự chuyển giao công
nghệ tạo điều kiện để giải quyết những khó khăn về lạm phát và thất nghiệp, tạo cơ
hội tăng năng suất lao động thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực và cơ hội tăng thu nhập cho người lao động. Chuyển giao công nghệ thông qua
FDI giúp cho khoảng cách công nghệ giữa các nước đi đầu và nước tiếp nhận công
nghệ thu hẹp lại. Đối với Việt Nam, tác động của FDI đến nền kinh tế thể hiện khá
rõ nét trong thời gian vừa qua, một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến
với trình độ hiện đại như: bưu chính-viễn thông, dầu khí, xây dựng, cầu đường…
Một số ngành như sản phẩm điện tử, cơ khí, chế tạo… đã tạo ra được nhiều sản
phẩm có chất lượng cao, hình thức mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu cả thị
trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra, chuyển giao công nghệ
qua FDI còn hạn chế tối đa việc nhập khẩu một số hàng hóa, nâng cao năng lực của
người lao động, đặc biệt là cơ cấu kinh tế dần dịch chuyển theo hướng công nghiệp
hóa-hiện đại hóa.
Tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước: Nguồn vốn đầu tư được lấy từ
hai nguồn chính là đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đầu tư trực
tiếp nước ngoài sẽ an toàn và tốt hơn việc vay trực tiếp vay nợ thương mại. Bởi
đầu tư trực tiếp nước ngoài không tạo ra khoản nợ, có tính ổn định cao, không

thuận lợi cho việc rút vốn như các khoản vay hoặc đầu tư gián tiếp. Nguồn vốn
FDI vào Việt Nam đồng thời sẽ tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy động

6


các nguồn vốn khác như ODA, NGO, đồng thời kích thích thu hút vốn đầu tư trong
nước.
Lãi suất cố định: FDI có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức huy động
khác ví dụ việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức và đôi khi trở thành
gánh nặng cho nền kinh tế, hoặc là các khoản viện trợ thường đi kèm với điều kiện
về chính trị.
Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế: Thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư đã xuất hiện
như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử
gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may…
3.2 Tác động tiêu cực
Vốn FDI tạo cơ hội để một nguồn vốn lớn chảy ra bên ngoài (lợi nhuận, các
khoản thanh toán khác v.v. của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam), ảnh
hưởng đến lực lượng ngoại hối của nước nhận đầu tư, giảm đóng góp vào nguồn
thu thuế của Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đôi khi biệt lập với các ngành sản xuất
trong nước, do đó không có những hiệu ứng lan truyền có lợi về mặt phổ biến công
nghệ sản xuất, quản lý và marketing. Tiếp nhận FDI nhất là của các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia một cách không hạn chế có thể đẩy các nhà sản xuất
trong nước vào một cuộc cạnh tranh không cân sức và quá sớm.
Đối với môi trường: Việc chuyển giao công nghệ của các dự án FDI cũng có
mặt hạn chế. Đó là bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật- công nghệ mới
thì phải tìm được nơi thải những kỹ thuật- công nghệ cũ. Việc thải các công nghệ
cũ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Tuy nhiên, các nước phát triển xem các
nước đang phát triển như nơi thải các may móc lạc hậu. Bởi vậy, các nước đang

phát triển có thể dễ dàng bị biến thành bãi rác công nghiệp.
Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành
và cùng loại sản phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ các
nước châu Á (69%, Đông Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm 24%,
châu Mỹ chiếm 5%, các nước G8 mới chiếm 23,7% nên chưa thu hút được nhiều
đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, công nghệ nguồn. Có một số trường
hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự
7


yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào Việt Nam
một số máy móc, thiết bị có công nghệ lạc hậu.
Thực trạng này tiếp tục đặt ra cho Việt Nam những bài toán lớn từ vấn đề
luật pháp, chính sách, quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân
lực, công tác giải phóng mặt bằng, phân cấp trong quản lý FDI, môi trường v.v. để
khai thác lợi thế cũng như hạn chế những tác động tiêu cực của FDI khi Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
4. Việt Nam đầu tư FDI ra nước ngoài
Tính lũy kế đến tháng 4/ 2015, Việt Nam đã có 962 dự án đầu tư ra nước
ngoài với tổng vốn đăng ký đầu tư là 15 tỷ USD. Ngoài ra, còn có 115 lượt dự án
tăng vốn với tổng vốn tăng thêm là 5 tỷ USD. Như vậy, tính cả vốn cấp mới và vốn
tăng thêm tính đến nay là 20 tỷ USD.
Thị trường đầu tư ra nước ngoài vẫn tập trung nhiều tại một số thị trường
truyền thống như Lào (có 259 dự án với 3,9 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư, chiếm
27% tổng số dự án và 26% tổng vốn đăng ký đầu tư), Campuchia (có 171 dự án và
3,2 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư, chiếm 18% tổng số dự án và 22% tổng vốn đăng
ký đầu tư).
Về lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam tập trung đầu tư
vào ngành khai khoáng là nhiều nhất (111 dự án và 5,1 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm
11,5% tổng số dự án và 34% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là ngành nông, lâm, ngư

nghiệp (125 dự án và 2,7 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 13% tổng số dự án và 18%
tổng vốn đầu tư)
D. Nhận xét, đánh giá
Hơn 25 năm qua, khu vực kinh tế FDI ngày càng phát huy vai trò quan trọng
và có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Khu vực kinh tế FDI đã tạo ra hàng triệu lao động trực tiếp và lao động gián
tiếp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động, góp phần
thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ cả về máy móc, thiết bị, tri thức và kinh
nghiệm quản lý; thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước; đổi mới thủ

8


tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; xây dựng và hoàn thiện đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của Việt Nam. Trong khu vực công nghiệp
và xây dựng, tốc độ tăng trưởng của khu vực đầu tư nước ngoài bình quân đạt 18%
năm, cao hơn tốc độ tăng chung toàn ngành. Trong khu vực nông - lâm - ngư
nghiệp, đầu tư nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng
hóa sản phẩm, nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu… Trong dịch vụ, đầu tư nước
ngoài đã tạo nên một số ngành dịch vụ chất lượng cao như viễn thông, du lịch quốc
tế, tài chính,ngân hàng, bảo hiểm,kiểmtoán…
FDI là nguồn vốn bổ sung đáng kể vào tổng đầu tư xã hội góp phần cải thiện
cán cân thanh toán.FDI đã góp phần quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng
cao làm tăng năng lực sản xuất,khai thông thị trướngản phẩm.Ngoài ra, luồng vốn
FDI còn góp phần quan trọng vào xuất khẩu.Qua đó,giúp Việt Nam từng bước
tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực FDI còn có những hạn chế, tồn
tại như hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa cao, giá trị gia tăng

tạo ra tại Việt Nam và khả năng tham gia chuỗi giá trị thấp. Công tác kiểm tra,
giám sát về việc thực hiện các quy định về bảo về môi trường của các doanh
nghiệp còn nhiều bất cập .Việc quản lý vốn đầu tư FDI còn lỏng lẻo, khiến cho một
lượng vốn lớn chảy ra bên ngoài (lợi nhuận, các khoản thanh toán khác… của các
nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam), ảnh hưởng đến lực lượng ngoại hối của nước
nhận đầu tư, giảm đóng góp vào nguồn thu thuế của Việt Nam. Tiếp nhận FDI nhất
là của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia một cách không hạn chế có thể đẩy
các nhà sản xuất trong nước vào một cuộc cạnh tranh không cân sức và quá sớm.
Đồng thời, chưa phân cấp rõ ràng trong quản lí,chưa đi kèm với các chính sách cụ
thể.Việc phân bổ cơ cấu đầu tư cũng khá yếu kém. Trong tổng các dự án FDI đăng
ký, nhiều dự án đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, tận dụng bảo hộ, công
nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản. Đây là cơ cấu không mong đợi bởi vì vốn đầu
tư vào khai thác tài nguyên thì không có tác dụng lan tỏa. Vốn đầu tư vào các
ngành bảo hộ thì không có sức cạnh tranh chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia
tăng; vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận họ hưởng,

9


còn hậu quả và chi phí khắc phục thì ta chịu; vốn đầu tư vào bất động sản thì có thể
gây ra bất ổn.
Các hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và
thiếu nhất quán, các chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn. Tuy các chính
sách ưu đãi của ta thường xuyên được rà soát sửa đổi, bổ sung nhưng còn dàn trải,
chưa tập trung đúng mức vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần thu hút đầu tư.
Ngoài ra, hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, mặc dù đã được đầu tư nhiều
trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được
nhu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông,
cảng biển, hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp.Nguồn nhân lực
của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, nguồn nhân lực có

trình độ cao còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động của các doanh
nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trong một nghiên
cứu mới đây do Cục Đầu tư nước ngoài phối hợp với Tổ chức Phát triển Công
nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tiến hành, thì 32% các nhà đầu tư nước ngoài cho
rằng thiếu công nhân lành nghề là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho họ
không sử dụng hết công suất. Vì vậy, lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với chi phí
thấp của Việt Nam đang giảm dần.

10


11



×