Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tiểu luận giữ gìn và phát huy một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.19 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam chúng ta tự hào có nền văn hóa truyền thống lâu đời, phong
phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ bao đời nay, những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp đó đã hun đúc, bồi đắp nên tâm hồn, khí phách và bản
lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc, chính những khí
phách hiên ngang đó đã giúp cho ông cha ta đánh tan các thế lực ngoại xâm,
đặc biệt là thắng lợi trước hai tên đế quốc sừng sỏ là thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ dữ vững nền độc lập của dân tộc.
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà đất nước ta đang hội nhập sâu
rộng vào kinh tế khu vực và quốc tế, đó là cơ hội cho đất nước ta phát triển
mọi mặt về kinh tế và giao lưu và tiếp thu những nền văn hóa trên thế giới
đồng thời cũng là thách thức không nhỏ cho việc dữ gìn và giữ gìn các giá trị
văn hóa dân tộc. Bởi vậy nhiệm vụ của chúng ta là không những không được
đánh mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp đó mà còn phải phát dữ gìn,
phát huy và bổ sung những giá trị mới, biến chúng thành sức mạnh đưa đất
nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững trắc trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế đem lại. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định rằng, chúng ta “ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường…”1
Trong thời kỳ hiện nay, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đâị hoá đất
nước, thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế việc đẩy mạnh giữ gìn, và
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc là hết sức cần thiết của toàn
Đảng toàn dân ta để cho những giá trị ấy không bị mất đi mà luôn luôn được
1

Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 37



1


giữ gìn và phát triển đó là vấn đề vô cùng bức thiết hiện nay vì vậy em xin
mạnh dạn chọn đề tài: “Giữ gìn và phát huy một số giá trị truyền thống của
dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa”. Làm đề tài kết thúc môn chuyên đề
Kinh tế chính trị, với mong muốn được góp một phần công sức vào việc giữ
gìn, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc trong công cuộc xây dựng đât
nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về vấn đề giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đã
được nhiều học giả nghiên cứu, nhiều công trình khoa học đã được công bố.
Năm 1980, nhà xuất bản khoa học xã hội đã xuất bản tác phẩm “ giá trị
truyền thống của dân tộc Việt Nam” của giáo sư Trần Văn Giàu. trong đó
Giáo sư khẳng định, giá trị đạo đức truyền thống là là cốt lõi của hệ giá trị
tinh thần của dân tộc.
Năm 2001, nhà xuất bản chính trị quốc gia đã công bố tác phẩm Tìm
hiểu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa do Nguyễn trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (đồng chủ
biên) trong đó đã đưa ra những thuận lợi và khó khăn của giá trị truyền thống
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kết quả của chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX – 07: “
Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội” đã khẳng định vai trò của giá trị truyền thống của dân tộc trong công
cuộc xây dựng đất nước.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo, nhiều tác phẩm khác cũng trình bày về
vấn đề này. Đó là cơ sở, là nguồn tư liệu cho em xây dựng và hoàn thiện đề
tài này.
3. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc nghiên cứu giá trị truyền thống của dân tộc trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đánh giá về những vấn đề tình hình của giá trị
truyền thống, từ đó đưa ra được những giải pháp đề giữ gìn và phát huy giá
2


trịtruyền thống đó góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, trong đó phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp lô gíc là chủ yếu, kết hợp phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phân tích tổng hợp, đối chiếu.
5. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài này của em gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: Giữ gìn và phát huy một số giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, do trình độ còn hạn chế nên đề tài của em
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được sự đóng góp
của các cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.

3


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm Toàn cầu hóa.
Khái niệm toàn cầu hóa xuất hiện lần đầu tiên trong từ điển của Anh
vào năm 1961 và đựơc dụng phổ biến từ khoảng cuối thập niên 1980 trở lại
đây. Cho đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm này, nhưng có

thể chia thành 2 loại ý kiến.ý kiến theo nghĩa hẹp và ý kiến theo nghĩa rộng.
Theo quan niệm rộng, đa số các giả xác định toàn cầu hóa như là hiện
tượng hay là qua trình làm gia tăng mạnh mẽ các mối liên hệ gắn kết, tác
động, phụ thuộc lẫn nhau; là việc mở rộng quy mô, cường độ hoạt động giữa
các khu vực, các quốc gia trên phạm vi toàn cầu mà trước hết và chủ yếu trên
lĩnh vực kinh tế.
Theo Lê Hữu Nghĩa thì “ toàn cầu hóa, xét về bản chất là quá trình tăng
lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc
lẫn nhau của tất cả các quốc gia, khu vực dân tộc trên thế giới… toàn cầu hóa
hiện nay là giai đoạn mới, giai đoạn phát triển cao của quá trình quốc tế hóa
đã diễn ra từ nhiều thế kỉ trước đây và sẽ tiếp tục diễn ra trong thế kỉ 21” 1. báo
cáo về phát triển con người năm 1999 của UNDP cho rằng “toàn cầu hoa
không mới, nhưng thời đại hiện nay của toàn cầu hóa có tính chất riêng biệt.
sự hẹp lại của không gian và sự biến mất của đường biên giới đang gắn kết
cuộc sống của mọi người với nhau”2
Theo quan niệm hẹp, đa số các học giả nghiên cứu khi đề cập đến toàn
cầu hóa thì trước hêt và chủ yếu là đề cập đến toàn cầu hóa kinh tế, đó là khái
niệm chỉ hiện tượng hay quá trình hình thành thị trường toàn cầu làm tăng sự
tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia. Theo quan
niệm của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD) thì toàn cầu hóa sự
1

Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Tòng (đồng chủ biên) toàn cầu hóa – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tr7
2
Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Tòng (đồng chủ biên) toàn cầu hóa – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tr 123

4



vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực
trên phạm vi toàn cầu… Là một quá trình ly tâm và là lực kinh tế vĩ mô, toàn
cầu hóa rút ngắn khoảng cách kinh tế không những giữa các nước và khu vực,
mà còn giữa các tác nhân kinh tế với nhau. Toàn cầu hóa cũng có khuynh
hướng làm mất sự ổn định của các tổ chức độc quyền nhóm đã được thiết lập
bằng cách làm thay đổi các “luật chơi” của cuộc đấu tranh giữa các doanh
nghiệp để chiếm lợi thế cạnh tranh trên các thị trường quốc gia cũng như trên
thế giới”1.
Ủy ban châu âu cho rằng “ toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như là
một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau
đang ngày cang trở nên phị thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc buôn
bán hàng hóa và dịch vụ cũng như do có sự lưu thông vốn, tư bản và công
nghệ. Đây không phải là một hiện tượng mới mà là sự tiếp tục của một quá
trình đã được khơi mào từ lâu”2.
Ngoài ra còn có rất nhiều quan niệm khac nhau về toàn cầu hóa xuất
phát từ góc độ khác nhau.
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa, “ toàn cầu hóa một khái niệm chỉ quá
trình vận động của lịch sử xã hội loài người từ một bộ phận, một quốc gia riêng lẻ,
tương đối độc lập và tách biệt đến hình thành những mối liên hệ chặt chẽ, tác động
qua lại và phụ thuộc lẫn nhau trên tất cả các mặt ở phạm vi toàn cầu của đời sống xã
hội mà nền tảng là sự liên kết kinh tế cùng với sự hình thành các tổ chức, các định
chế quốc tế nhằm quản lý và điều chỉnh các hoạt động mang tính toàn cầu
đó”3.

1

Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Tòng (đồng chủ biên) toàn cầu hóa – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tr 123
2

Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Tòng (đồng chủ biên) toàn cầu hóa – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tr 33
3
Mai Thị Quý – toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay.

5


1.2 Đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa
Xu thế toàn cầu hóa đã hình thành và phát triển gắn với sự hình thành
và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, những
yếu tố mầm mống của toàn cầu hóa đã xuất hiện, đó là sự giao lưu buôn bán
giữa các quốc gia phong kiến với nhau. Tuy nhiên, những mối giao lưu quốc
tế ở thời điểm đó chủ yếu là thương mại ở quy mô nhỏ, đơn giản trên một
phạm vi địa lý mang tính khu vực. Chỉ sau những phát kiến địa lý ở các thế kỷ
XV – XVI và những tiến bộ kỹ thuật hàng hải đã giúp các nước trên mọi châu
lục thông thương với nhau bằng đường biển xuyên đại dương và sự chiến
thắng của chủ nghĩa tư bản ở châu âu với nền sản xuất đại công nghiệp, toàn
cầu hóa mới được hình thành như một xu thế. Sự phát triển của xu thế này trải
qua những giai đoạn và những đặc trưng khác nhau.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, xu thế toàn cầu hóa gắn liền với sự
bành trướng thị trường của các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt là thông qua
việc xâm chiếm, giành giật thuộc địa, hình thành những khối thị trường khá
biệt lập gồm chính quốc và các nước thuộc địa. Các nước thuộc địa chủ yếu là
thị trường cung cấp nguyên vật liệu và những sản phẩm mà chính quốc cần
đồng thời là nơi tiêu thụ hàng hóa cho sản xuất ở chính quốc.
Từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến cuối thập niên 1940, do tác
động của 2 cuộc đại chiến thế giới và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929
– 1933 toàn cầu hóa có sự suy giảm. từ thập niên 1950 đến cuối thập niên

1970, xu thế toàn cầu hóa trở lại rồi có phần lắng xuống vào thời kỳ cuối thập
niên 1970 đến cuối thập niên 1980 do tác động của cuộc khủng hoảng dầu lửa
– kinh tế. Đặc điểm chính của toàn cầu hóa trong những năm 1950 – 1970 là
sự bùng nổ của các thể chế liên kết kinh tế trên phạm vi toàn cầu và khu vực
cùng với sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ của các dòng thương
mại, dịch vụ, đầu tư và tài chính, công nghệ và nhân công giữa các nước, sự
bùng nổ và phát triển của các công ty xuyên quốc gia – một nhân tố quan
trọng của toàn cầu hóa. Một trong những nét đặc biệt của thời kì này là sự
6


phát triển của FDI nhanh hơn nhiều so với thương mại quốc tế. Ngoài ra ,
trong giai đoạn này , cần phải kể đến đặc trưng cơ bản nữa đó là sự hình thành
hai mô hình liên kết chính trị, kinh tế mang tính đối lập, hệ quả của sự tồn tại
song song hai hệ thống chính trị - kinh tế thế giới đối địch nhau.. Trong suốt
thời kỳ này, cả hai hệ thống đều nỗ lực thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế
mang tính ý thức hệ, thống nhất trong bản chất, mục tiêu, nôi dung, biện pháp
và được điều hành từ trung tâm các hệ thống. Hai hệ thống liên kết theo hai
kiểu khác nhau, khép kín trong khuôn khổ mỗi hệ thống, rất có ít mối quan hệ
ngang giữa các thành viên của mỗi hệ thống với các thành viên của hệ thống
khác.
Sau một thời gian lắng xuống, toàn cầu hóa lại bùng nổ trở lên mạnh
mẽ từ cuối thập niên 1980 đến nay. Do chịu tác động trực tiếp của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ cùng những biến
đổi lớn về cục diện chính trị toàn cầu. toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay
mang một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: toàn cầu hóa có sự phát triển vượt bậc cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu và diễn ra với tốc độ nhanh hơn, biểu hiện ở nhiều thỏa thuận liên
kết kinh tế toàn cầu và khu vực được ký kết, hàng loạt tổ chức hợp tác kinh tế
đa phương được hình thành và ngày càng có nhiều nước tham gia. Tính chất “

mở” trở thành khuynh hướng chung trong quan hệ kinh tế quốc tế. những bức
tường, những rào cản ngăn cách các quốc gia về chế độ chính trị, về địa lý,về
văn hóa… ngày dần được dỡ bỏ và thay vào đó là “ sợi dây” liên kết chặt chẽ.
Hơn nữa, toàn cầu hóa hiện nay không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà
còn tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa…làm cho
đời sống mọi mặt của các quốc gia trên toàn thế giới luôn chịu sự tác động
qua lại,ảnh hưởng,chi phối lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ.
Thứ hai: toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay đang chịu sự chi phối
của các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ.

7


Sự ra đời của toàn cầu hóa gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Cũng chính vì vậy mà từ khi xuất hiện đến nay, quá trình này luôn bị đặt dưới
sự chi phối của các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay,
khi mà các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ thì vai trò “
độc tôn” của chủ nghĩa tư bản lại càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. Cũng
chính vì vậy mà đã có không ít người coi toàn cầu hóa hiện nay là “toàn cầu
hóa tư bản chủ nghĩa” hay “ Mỹ hóa toàn cầu”. Mặc dù trong những năm gần
đây, thế giới đã và đang chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ và Trung
Quốc.. làm cho tương quan lực lượng trên thế giới có sự thay đổi, nhưng
trong thời điểm hiện tại thì những nhận định trên vẫn có cơ sở.
Như vậy, lịch sư ra đời và phát triển của toàn cầu hóa cho thấy, toàn
cầu hóa đã, đang và sẽ phát triển theo đúng quy luật khách quan đó là: sự phát
triển của toàn cầu hóa không diễn ra theo một con đường thẳng tắp mà theo
con đường quanh co, khúc khuỷu, lúc nhanh, lúc chậm, lúc nổi lên, lúc lại
lắng xuống cùng với sự thăng trầm của nền kinh tế và chính trị thế giới. Toàn
cầu hóa sẽ tiếp tục phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mức độ ngày càng
cao và điểm đến cuối cùng của toàn cầu hóa sẽ đưa chúng ta đến một thế giới

trong đó nền kinh tế của tất cả các quốc gia sẽ được liên kết với nhau một
cách chặt chẽ, những rào cản đối với các luồng lưu chuyển hàng hóa, dịch
vụ… sẽ không còn nữa. Cả thế giới sẽ là một thị trường được điều tiết bởi hệ
thống những luật chơi thống nhất và bình đẳng. Và để đễn được cái đích đó,
toàn cầu hóa còn cần phải vượt qua cả một chặng đường dài với nhiều nỗ lực
của tất cả các quốc ga trên thế giới.
1.3. Tính hai mặt của toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay
1.3.1. Mặt tích cực của toàn cầu hóa.
Theo quan niệm của phép biện chứng, bất kì sự vật hiện tượng nào
cũng là một thể thống nhất của hai mặt đối lập và toàn cầu hóa cũng không
phải là hiện tượng ngoại lệ. Tính hai mặt của toàn cầu hóa không chỉ được
bộc lộ trong lĩnh vự kinh tế mà còn trong tất cả các lĩnh vực khác của đời
8


sống xã hội. Một hiện tượng nào đó của toàn cầu hóa có thể là thời cơ trong
lĩnh vực này nhưng lại là thách thưc trong lĩnh vực khác và ngược lại. Có hiện
tượng ở thời điểm này hoặc đối với nước này là thời cơ nhưng vào thời điểm
khác hoặc với nước khác thì lại là thách thức. Chính vì vậy phải vận dụng
quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan
điểm khách quan… của phép biện chứng duy vật để nhận thức tính hai mặt
của toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay.
1.3.1.1. Trong lĩnh vực kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế đem đến những cơ hội mà các nước có thể tận
dụng để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế.
thứ nhất: Toàn cầu hóa góp phần thúc đẩy lực lương sản xuất, khoa học
và công nghệ phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học và côn
nghệ là một trong những nhân tố khách quan cơ bản thúc đẩy toàn cầu hóa ra
đời và phát triển. Đến lượt nó, toàn cầu hóa với nội dung chủ yếu là tự do hóa
thương mại và đầu tư giữa tất cả các nước, tức là thực hiện mô hình kinh tế

thị trường trên phạm vi toàn thế giới, lại thúc đẩy lực lượng sản xuất, khoa
học và công nghệ phát triển. Sự vận động và phát triển của kinh tế thị trường
luôn bị tác động bởi các quy luật vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật
cung – cầu…chính vì vậy, để có thể đứng vững và giành được thắng lợi, hoặc
chí ít là giành được nhiều lợi ích hơn trong canh tranh trên thị trường khu vực
và quốc tế , đòi hỏi các nhà sản xuất phải tích cực, năng động sáng tạo trong
việc cải tiến công cụ lao động, tăng cường khả năng quản lý và nâng cao trình
độ, kĩ năng kĩ xảo của người lao động ….nhằm nâng cao năng xuất lao động,
hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng của sản phẩm. Kết quả của
những nỗ lực này sẽ làm cho lực lượng sản xuất của mỗi quốc gia nói riêng và
toàn thế giới nói chung phát triển nhanh chóng, những thành tựu của khoa
học, công nghệ được nghiên cứu,chuyển giao vận dụng vào quá trình sản xuất
ngày càng nhiều làm cho năng xuất lao động xã hội ngày càng tăng lên. Đây

9


chính là cơ hội để các nước có thể tận dụng nhằm chiếm ưu thế trong cạnh
tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thư hai: Toàn cầu hóa thúc đẩy thúc đẩy phân công lao động trên phạm
vi quốc tế, tạo điều kiện cho các nước có thể tận dụng được thế mạnh của
mình, đồng thời tranh thủ được tối đa những nguồn lực từ bên ngoài để tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Trong toàn cầu hóa, sự phân công lao động được
thể hiện không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà trong phạm vi toàn cầu,
điều này có nghĩa là mỗi nước trở thành một mắt khâu trong hệ thống sản xuất
toàn cầu, hay nói cách khác, nền kinh tế toàn cầu sẽ liên kết nền kinh tế của
các quốc gia trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hóa. Theo lý
thuyết cũng như trong nghiên cứu thực nghiệm, và nhất là trong thực tiễn đã
cho thấy: mỗi quốc gia trên thế giới đều có những điều kiện sản xuất khác
nhau do có các nguồn lực không giốn hệt như nhau (chẳng hạn như nguồn lực

về vốn, về khoa học và công nghệ, về kinh nghiệm quản lý, về số lượng và
chất lượng lao động, về tài nguyên thiên nhiên, thị trường… ).Do đó, nếu các
nước đều thực hiện chuyên môn hóa sản xuất, tức là chỉ tập trung nguồn lực
vào đẻ sản xất những mặt hàng mà nước mình có lợi thế so với các nước khác
và có thể sản xuất có hiệu quả nhất (kể cả lợi thế tuyệt đối và lợi thé tương
đối), sau đó, đem sản phẩm của mình ra trao đổi với nhau trên thị trường thế
giới thông qua hoạt động xuất khẩu, tức là thông qua hệ thống thương mạ
quốc tế, thì năng suất lao động và do đó, lượng sản phẩm của tất cả các mặt
hàng trên thế giới đều tăng lên và tất cả các quốc gia đều có lợi.
Như vậy, toàn cầu hóa đem lại nhiều cơ hội thúc đẩy tăng trưởng và
phát triến kinh tế cho tất cả các.Tuy nhiên, những cơ hội này là không hoàn
toàn như nhau đối với những nước có trình độ phát triển khác nhau.
Các nước công nghiệp phát triển nắm trong tay tuyêt đại đa số lực
lượng sản xuất ở trình độ cao, công nghệ hiện đại, có thực lực kinh tế mạnh,
cho nên toàn cầu hóa chính là điều kiện để các công ty khổng lồ của họ mở
toang cánh cửa của các nước khác trên thế giới và trụ lại ở đó, hình thành nên
10


các công ty xuyên quốc gia chi phối hoạt động sản xuât kinh doanh trên toàn
cầu. với phương châm “ lấy thế giới làm nhà máy, lấy quốc gia làm phân
xưởng” , thông qua phân công và hợp tác quốc tế, toàn cầu hóa tạo điều kiện
cho các công ty xuyên quốc gia của các nước phát triển có thể khai thác từ các
nước đang phát triển và chậm phát triển nguồn nhân công dồi dào, nguồn
nhiên liệu phong phú giá rẻ. thị trường tiêu thị rộng lớn….đem lại
lại nhiều thời cơ và vận hội lớn giúp các nước này có thể đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng, rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Các nước
này có thể nhận được vốn đầu tư khác nhau từ các nước đang phát triển, hoặc
tiếp nhận khoa học – kĩ thuật công nghệ cao, hiện đại để đẩy nhanh phát triển
lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực làm chủ nền kinh tế

1.3.1.2. Trong lĩnh vực văn hóa xã hội
Toàn cầu hóa gắn kết lợi ích giữa các quốc gia, dân tộc lại với nhau
trên cơ sở lợi ích kinh tế. Tuy không đồng nhất về lợi ích nhưng sự gắn kết đó
có xu hướng làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các
quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, sự phát triển của mạng lưới các công ty xuyên
quốc gia trên khắp thế giới đã và đang gắn kết chặt chẽ hơn nữa các nền kinh
tế quốc gia lại với nhau như những mắt xích của một hệ thống hoàn chỉnh.
Thực tế hiện nay cho thấy, không một nước nào có thể phát triển kinh tế mà
không cần đến thị trường, vốn, công nghệ…của các nước khác. Sự phát triển
và an ninh của tất cả các quốc gia này ngày càng phụ thuộc vào nhau. Khó có
thể có được sự phát triển bền vững và an ninh cho một hoặc một số quốc gia
trên sự lụi bại về kinh tế và mất an ninh của các quốc gia khác.
Trên thực tế, cùng với sự gia tăng của xu thế toàn cầu hóa, từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai trở lại đây, hòa bình và an ninh thế giới cơ bản được duy
trì. Mặc du trong suốt thời kì chiến tranh lạnh, có sự tồn tại mâu thuẫn và
xung đột lợi ích về hệ tư tưởng của hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa nhưng thế giới vẫn không xảy ra chiến tranh quy mô lớn trên thế
giới. Hiện nay, trên thế giới mặc dù vẫn còn những cuộc chiến tranh nhưng
11


mang tính cục bộ, tôn giáo…nguy cơ xảy ra chiến tranh quy mô lớn hay chiến
tranh thế giới là rất ít. Đảng ta nhận định “ trên thế giới. hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vẫn
đang được đẩy nhanh”1.
Toàn cầu hóa thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở phần lớn các
nước, làm tăng ngân sách chính phủ tạo điều kiện cho các chính phủ có thể
mở rộng hệ thống các dịch vụ công như giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội…do
đó toàn cầu hóa còn có xu hướng tác động tích cực đối với vấn đề phát triển
con người theo các hướng; nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của cá

nhân; cải thiện các điều kiện lao động của con người; nâng cao năng lực làm
việc của cá nhân. Theo báo cáo hàng năm của liên hợp quốc, nhìn chung đã
có những tiến bộ đáng kể trong sự phát triển con người ở các nước, kể cả
nhiều nước đang phát triển.
Ngoài ra, toàn cầu hóa còn liên kết các quốc gia trên thế giới nhằm giải
quyết có hiệu quả các vấn đề mang tính toàn cầu khác như: bùng nổ dân số,
bệnh tật hiểm nghèo, nghèo đói, chống khủng bố và tội phạm quốc tế…
Những thách thức này,xét đến cùng là xuất phát từ mâu thuẫn kinh tế cơ
bản trong quá trình toàn cầu hóa. Đó chính là mâu thuẫn giữa trình độ và tính
chất xã hội hóa rất cao của lực lượng sản xuất hiên nay với chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa là chủ yếu. gắn liền với mâu thuẫn cơ bản ấy là hàng loạt
những mâu thuânc phát sinh như: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản, giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, giữa các nước tư bản
với nhau,giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội… tất cả những mâu thuẫn
ấy đề được phản ánh trên cả lĩnh vực kinh tế, chính trị,xã hội…
1.3.1.3. Trong lĩnh vực kinh tế
Do sự thống trị của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, một khối
lượng tư liệu sản xuất khổng lồ đang nằm trong tay một số ít những nhà tư
bản điều đó làm cho mục đích của nền kinh tế trong toàn cầu hóa ở phạm vi
1

Đảng cộng sản việt Nam, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
2006, tr 183

12


quốc gia hay quốc tế đều không nằm ngoài lợi nhuận, hơn thế nữa là tối đa
hóa lợi nhuận cho một nhóm nhỏ người ở một số ít nước. Toàn cầu hóa hiện
nay có sự tham gia của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhưng giữa các

quốc gia đó lại có sự khác nhau rất xa về sức mạnh và tiềm năng kinh tế. Đó
là một bức tranh đa dạng, xét về quy mô dân số, lãnh thổ, về kết cấu kinh tế xã hội, giai câp, về sức mạnh kinh tế và chính trị, về vị thề quốc tế…
Sự bất bình đẳng và bất công lớn nhất hiện nay là giữa một nhóm nhỏ
các nước tư bản phát triển với đông đảo các nước đang phát triển, giữa trung
tâm với ngoại vi… các nước phát triển do Mĩ đứng đầu chính là lực lượng chủ
đạo, là động cơ thúc đẩy và là người thu lợi nhuận chủ yếu từ quá trình toàn
cầu hóa. Trong khi đó các nước đang phát triển lại đứng trước sự lựa chọn
khó khăn, có cả thách thức lẫn cơ may, nhưng nói chung thách thức lớn hơn
nhiều, có nước bị cuốn hút không cưỡng được dưới bánh xe toàn cầu hóa,
thậm chí có nước bị gạt ra rìa lịch sử. Như vậy, những thách thức trong toàn
cầu hóa không hề giống nhau đối với các nước, các nhóm nước có trình độ
phát triển khác nhau. Đối với các nước đang phát triển thì thách thức mạo
hiểm lại lớn hơn rất nhiều khi họ tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Thứ nhất: Toàn cầu hóa như một cơn lốc cuốn tất cả các nước vào vòng
xoáy của nó, bất kể nước đó có chuẩn bị về vật chất và tinh thần, đã sãn sàng
và chủ động hội nhập hay chưa. Vì vậy, đa số các nước đang phát triển đề bị
động trong việc gia nhập vào quá trình toàn cầu hóa. Những quy luật kinh tế
mà các cường quốc đang sử dụng ở nước họ và theo kiểu của họ, khi vận
dụng vào các nước đang phát triển, luôn có xu hướng hình thành một cơ cấu
kinh tế không phù hợp, làm cho nền kinh tế của các nước này gặp khó khăn,
lúng túng, thậm chí có thể bị rối loạn. Mặt khác, hội nhập toàn cầu hóa theo
hướng mở cửa hoàn toàn có thể khiến các nước đang phát triển phải chịu
những tác động xấu về kinh tế có thể xảy ra và rất khó chống đỡ. Đồng thời
với những tác động tiêu cực ấy là sự xuất khẩu quá mức có thể xảy ra gây mất
cân bằng trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, chẳng hạn như xuất
13


khẩu quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động tạo nguy cơ
phát triển thiếu bền vững.

Thứ hai: Sự bất bình đẳng trong cạnh tranh là một trong những cản trở
lớn đồi với các nước đang phát triển. trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, lợi
thế cạnh tranh đang thuộc về những nước phát triển, các công ty xuyên quốc
gia bởi họ đang chiếm ưu thế về vốn, kinh nghiệm quản lý, thị trường và có
đủ thực lực chi phối thị trường thế giới. hơn nữa, các đối thủ đã mạnh lại
thường “ chơi không đẹp” và thường “ xử ép” những đối thủ yếu hơn mình.
Tệ hại hơn là hơn nữa là họ sử dụng những thứ vũ khí lợi hại để đánh bại
những kẻ vốn yếu hơn mình rất nhiều. Những vũ khí đó chính là những thiết
chế tuy mang tính quốc tế nhưng lại do các nước tư bản phát triển tạo ra và vì
vậy, đương nhiên, các nước phát triển vẫn là những kẻ được lợi nhiều nhất và
là người thao túng, sử dụng các thiết chế đó. Trong các thiết chế đó phải kể
đến những thiết chế quan trọng, nhất là Tổ chức thương mại thể giới (WTO),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), và Ngân hàng thế giới (WB)…
Thứ ba: toàn cầu hóa chứa đựng nguy cơ khủng hoảng kinh tế trên
phạm vi toàn cầu. Nếu như toàn cầu hóa liên kết lợi ích của tất cả các quốc
gia lại với nhau, thì chính điều đó lại tiềm ẩn một nguy cơ lớn, đó là khủng
hoảng kinh tế ở mức độ toàn cầu. nguyên nhân xâu xa của vấn đề này là mâu
thuẫn kinh tế, chủ yếu là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa rất cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đang phổ biến
hiện nay trên toàn cầu. Chính vì vậy, thực chất của các cuộc khủng hoảng
hiện nay ở các nước tư bản vẫn không có gì thay đổi so với trước đây, đó chủ
yếu vẫn là cuộc khủng hoảng “ thừa” , tức là “ cung” vượt quá “cầu”.
Như vậy, toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nước đang phát triển về mọi
nguồn lực. đó là tiềm lực vô cùng to lớn để phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có một số
nước đang phát triển tranh thủ được cơ hội này để đưa đất nước ra khỏi tình
trạng lạc hậu và đói nghèo. Và nếu cứ tiếp tục theo xu hướng này, toàn cầu
14



hóa có thể đưa những nươc đang phát triển bờ vực của sự thất bại, khung
hoảng, nghèo đói và tụt hậu nếu không có một lộ trình hội nhập tối ưu và
những biện pháp đấu tranh thích hợp. mặt khác, các nước tư bản phát triển
cũng phải có những điều chỉnh nhất định nếu không muốn “ tự đào hố chôn
mình”, bởi lẽ làm sao có thể duy trì một ốc đảo phồn vinh trong một đai
dương toàn cầu hóa đang trong cơn bãn tố
1.3.1.4.Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
Quả thật là toàn cầu hóa hiện nay đang mang nặng dấu ấn tư bản chủ
nghĩa và thế mạnh đang thuộc về các nước phát triển. Vì vậy, đằng sau những
mâu thuẫn về kinh tế là những mâu thuẫn về chính trị trên phạm vi toàn cầu.
Mâu thuẫn chủ yếu về mặt chính trị trên thế giới hiện nay là mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa bá quyền, hiếu chiến một bên, với một bên là tất cả các lực lượng
đấu tranh chống chủ nghĩa bá quyền, hiếu chiến vì chủ quyền quốc gia, độc
lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, tiến bộ, công bằng xã hội và phẩm giá con
người. kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới đã có thay đổi đáng
kể, thế giới chuyển từ “ lưỡng cực” sang thế “ đa cực” với sự thao túng của ba
trung tâm kinh tế lớn là Mỹ - Nhật bản – EU, đặc biệt là vai trò của Mỹ. từ
chỗ chi phối về kinh tế dẫn đến thao túng về chính trị là một điều dễ hiểu và
ranh giới giữa chúng là rất mong mạnh.
Thậm chí, cũng từ sức ép về kinh tế, các quốc gia đàg phát triển phải
chấp nhận thay đổi luật pháp có lợi cho các công ty tư bản, các công ty xuyên
quốc gia, dần dần chấp nhận pháp luật nước ngoài với các nội dung hạn chế
khả năng phát triển của đất nước họ. Các nước tư bản phát triển không chỉ can
thiệp trực tiếp vào việc đề ra các đường lối, chính sách kinh tế, chính trị, xã
hội của các nhà nước làm mất đi tính độc lập, tự chủ của nhà nước đó, mà còn
trắng trợn gây sức ép bằng vũ lực làm cho nhiều nước mất tự chủ kinh tế, rối
loạn về chính trị.
Toàn cầu hóa còn chứa đựng nguy cơ bùng nổ vấn đề dân tộc và tôn
giáo trên phạm vi thế giới. Đây vốn là vấn đề âm ỉ ở không ít nước, có nguồn
15



gốc từ những bất bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ chức quản
lý sản xuất và trong phân phối sản phẩm. Đến nay, toàn cầu hóa đã mở rộng
những mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo và đẩy nó đến tình trạng nóng bỏng. ác
cuộc khủng hoảng chính trị - xã hội, thậm chí, sự phát sinh các cuộc khủng bố
lớn, đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến vấn đề này.Mặc dù toàn cầu hóa
làm cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, có quan hệ chặt chẽ với
nhau hơn nhưng mỗi dân tộc lại có điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa dân tộc
và ảnh hưởng tôn giáo cũng như xuất phát điểm khác nhau nên không thể có
chung lợi ích,lọ trình và giải pháp về toàn cầu hóa trên mọi phương diện.
Điều đó chứa đựng những nguy cơ bất ổn về an ninh, chính trị mang màu sắc
sắc tộc, tôn giáo có thể bộc phát bất kì lúc nào.
Toàn cầu hóa còn chứa đựng khả năng làm gia tăng các tệ nạn xã hội,
bệnh tật hiểm nghèo và tội phạm quốc tế. Với toàn cầu hóa nền kinh tế thị
trường thống trị trên toàn cầu, vì vậy mà những mặt trái của kinh tế thị trường
cũng được toàn cầu hóa. Nhờ có những phương tiện giao thông và thông tin
liên lạc hiện đại cùng với chính sách mở của các chính phủ, các đường dây
buôn lậu, ma túy, mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em…đã được hình thành
ngày càng nhiều và hoạt động với quy mô ngày càng lớn vượt qua mọi biên
giới quốc gia và ngày càng khó kiểm soát. Những đường dây tội phạm quốc tế
có tổ chức cũng lợi dụng toàn cầu hóa mà hoạt động mạnh mẽ. Chúng có thể
gây án ở quôc gia này rồi chạy sang quốc gia khác ẩn náu, làm cho việc truy
bắt gặp nhiều khó khăn, dòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ của các lực lượng
chống tội phạm toàn cầu.
Như vậy có thể nói, toàn cầu hóa đãng được vận hành như hiện nay vừa
đem lại những vận hội lớn, vừa đặt ra thách thức không nhỏ, đặc biệt là đối
với các nước đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực. và cũng phải nói rằng,
đối với các các nước đang phát triển thì toàn cầu hóa hiện nay mang lại nhiều
thách thức hơn là thời cơ. Và như nhà nghiên cứu nào đó đã từng nói: toàn

cầu hóa và thế giới không biên giới có những mặt tốt và những mặt xấu,
16


chúng không phải là phương thuốc thập toàn chữa tất cả những bệnh kinht tế,
chúng có thể làm cho người nghèo giàu lên nhưng cũng có thể làm bần cùng
hóa, thậm chí làm hủy hoại nền kinh tế của các quốc gia và khu vực.

17


Chương 2: GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY MỘT SỐ GÍA TRỊ TRUYỀN
THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HÓA HIỆN NAY
2.1 Giá trị và giá trị truyền thống
2.1.1 Giá trị
Khái niệm giá trị đã xuất hiện từ rất sơm trong lịch sử của nhân loại.
hiện nay, khái niệm giá trị đang được sử dụng rộng rãi trong nhiều nhàng
khoa học khác nhau như: kinh tế chính trị học, tâm lý học, đạo đức học, mỹ
học..trong mỗi môn cụ thể, khái niệm giá trị được hiểu theo những nôi dung
rộng, hẹp khác nhau.
Nhìn từ góc độ chính trị học, giá trị là giá trị của hàng hóa, nó là một
trong hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa, là lực lượng lao động xã hội kết tinh
trong hàng hóa. Do vậy, những hàng hóa nào có lượng hao phí lao động xã
hội kết tinh càng lớn thì giá trị của nó càng cao và ngược lại. Giá trị được biểu
hiện bằng giá cả khi hàng hóa được đem trao đổi, mua bán trên thị trường.
Điều đó có nghĩa là, khi việc trao đổi được tiến hành ngang giá, thì hàng hóa
nào có giá cả cao, giá trị của nó sẽ càng lớn và ngược lại. Như vậy, trong kinh
tế chính trị học, giá trị là giá trị vật chất, nó là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn
tại trong nền sản xuất hàng hóa mà thôi.

Nhìn từ góc độ đạo đức học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời
sống của con người. Giá trị đạo đức chính là những thái độ, hành vi được con
người lựa chọn, được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội,
được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương, phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức của xã hội trong từng thời kì nhất định, hướng con người đến
với cái thiện.
Nhìn từ góc độ mỹ học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống
thẩm mỹ cùng các quan hệ thẩm mỹ của con người. Giá trị thẩm mỹ đó là
những chuẩn mực thẩm mỹ được nhận thức thông qua các khách thể thẩm mỹ
18


( cái đẹp, cai bi, cái hài, cái cao cả…) trong cuộc sống và trong nghệ thuật,
phù hợp với những nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ tích cực lành mạnh của con
người, giúp con người đạt được những khoái cảm thẩm mỹ tích cực trong
sáng tạo, đánh giá và thưởng thức thẩm mỹ. Trong đó, cái đẹp được xem xét
là một giá trị trung tânm và cơ bản, nói cách khác, giá trị thẩm mỹ hướng con
người ta đến “ cái mỹ”.
Dưới góc độ triết học thì “ giá trị là những phạm trù triết học dùng để
chỉ ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tượng, quá trình, quan hệ….( cả vật
chất lân tinh thần) đối với một cá nhân, một cộng đồng, một giai cấp,một xã
hội hay toàn thể nhân loại trong điều kiên lịc sử cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa
là, các sự vật, hiện tượng, quá trình, quan hệ…có thể được coi là giá trị khi
chúng có khả năng làm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần mang
tính tích cực,lành mạnh của con người”1.
Như vậy chúng ta cần phân biệt bản thân sự vật với ý nghĩa của sự vật
đó đối với việc thỏa mãn những nhu cầu nào đó của con người. Cùng một sự
vật nó có thể có giá trị đối với cá nhân, cộng đồng này mà lại không có giá trị
đối với cá nhân, cộng đồng khác, hoặc có giá trị trong một điều kiện lịch sử
cụ thể này mà không có giá trị trị trong một điều kiện lịch sử cụ thể khác. Vì

thế cần nhấn mạnh rằng, giá trị là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng chứ không
phải là bản thân sự vật, hiện tượng và chỉ có thể là sự vật, hiện tượng mang
giá trị mà thôi “ trong đời sống xã hội, toàn bộ thế giới khách quan khi nó
được đặt trong quan hệ với con người, có thể và nên được nhìn nhận như là
thế giới của các giá trị , chứ không phải là thế giới của các đồ vật…người ta
khó hình dung có hành vi nào hay sự biến cố nào xảy ra trong đời sống xã hội
mà lại không mang một đơn vị giá trị đối với con người. Bất cứ cái gì cũng có
thể và cần được thẩm định về mặt giá trị”2
2.1.2 truyên thống
1

Mai thị Quý - Toàn cầu hóa và những vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 2009, tr 75
2
Nguyễn trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (đồng chủ biên), tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống
trong quá trinh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 11, 12.

19


Truyền thống là một từ Hán – Việt và hiện nay đang được sử dụng phổ
biến trong tiếng việt. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này.
Tuy nhiên, nói đến truyền thống là người ta nghĩ đến ngay những thói quen
được lặp đi lặp lại nhiều lần và được truyền đi qua nhiều thế hệ - đó là nghĩa
thông dụng nhất của từ truyền thống. trong từ điển tiếng việt, truyền thống
được định nghĩa là “ thói quen hình thành lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ,
được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác”1
Theo quan điểm của các nhà triết học thì “ truyền thống là một khái
niệm chỉ sự phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tạp quán, thói quen,lối sống,
phong tục…. của một cộng đồng người được hình thành trong những điều

kiện lịch sử nhất định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính di
tồn, tính ổn định, và tính cộng đồng là đặc trưng, thuộc tính cơ bản của truyền
thống”2.
Như vậy, truyền thống của dân tộc không phải tự nhiên mà có, cũng
không phải là do con người tự lựa chọn cho mình, mà nó được hình thành,
được quy định bởi chính những điều kiện lịch sử,, kinh tế, xã hội mà dân
tộc đó đã trải qua. Con người ta, ngay từ buổi đầu sơ khi trong quan hệ với
thiên nhiên và xã hội đã dần dần tích lũy những kinh nghiệm trong sản
xuất, chiến đấu, sinh hoạt hàng ngày nhằm phục vụ đời sống của mình. toàn
thể giai cấp tạo ra và hình thành nên tất cả những cái đó trên cơ sở những điều
kiện vật chất của mình và trên những quan hệ xã hội tương ứng, một cá nhân,
qua truyền thống hoặc do giáo dục mà tiếp thu được những quan điểm tình
cảm ấy”3.
Do điều kiện lịch sử - xã hội luôn vận động, biến đổi nên những truyền
thống được hình thành trên đó cũng không thể nhất thành, bất biến. Mỗi khi
hoàn cảnh lịch sử, cơ sở kinh tế - xã hội thay đổi thì truyền thống cũng có
những biến đổi, vừa kế thừa và phát triển, có mặt đào thải và loại bỏ, vừa hình
1

Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 2004, Tr 1035.
Mai thị Quý - Toàn cầu hóa và những vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 2009, tr 81
3
Mác và Engghen toàn tập, tập 8, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 179 – 180.
2

20


thành những truyền thống mới. Tuy nhiên, nếu truyền thống luôn biến đổi thì

nó không còn được gọi là truyền thống nữa mà trong quá trình vận động,
truyền thống vẫn giữ lại những yếu tố cốt lõi bên trong của nó. Vì vậy, việc
thừa nhận và đánh giá truyền thống cần phải đứng trên lạp trường quan điêm
phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể. Thái đọ tuyệt đối hóa truyền thống hoặc
đoạn tuyệt với truyền thống dề rơi vào siêu hình và đương nhiên sẽ dẫn tới
những sai lầm đáng tiếc.
2.1.3 Giá trị truyền thống
Giá trị truyền thống là một khái niệm tổng hợp của hai khái niệm đơn là
giá trị và truyền thống, theo giáo sư Trần Văn Giàu thì truyền thống có cái tốt
và có cái xấu, nhưng khi nói đến giá trị truyền thống thì chỉ có cái tôt mà thôi,
bởi vì chỉ có những cái tốt đề được gọi là giá trị, mà phải là cái tốt phổ biến,
cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có tác dụng hướng
dẫn sự hành động thì mới được mang danh là giá trị truyền thống.
Nói cách khác, khi nói đến giá trị truyền thống là nói đến truyền thống
nào đã được khẳng định nghiêm nghặt bởi thời gian, đã có sự chọn lọc, sự
phân định và khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với xã hội trong
những giai đoạn lịch sử nhất định. Điều đó có nghĩa là, không nên đông nhất
giá trị, hoặc truyền thống với giá trị truyền thống.
Giá trị truyền thống trước hết đó là những truyền thống, nhưng không
phải là mọi truyền thống đều có giá trị và đều là giá trị truyền thống. Mặt
khác, một giá trị khi đã trở thành giá trị truyền thống thì đã bao hàm trong nó
cả ý nghĩa lâu dài, hoặc cũng có thể nói; một giá trị xét về mặt thời gian là
bền vững thì tự thân nó đã mang ý nghĩa giá trị truyền thống. từ đó, cần phân
biệt các giá trị truyền thống với những giá trị nhất thời, có phạm vi ảnh hưởng
hạn hẹp với các giá trị đang mờ nhạt dần hoặc thực sự đac lỗi thời, với các giá
trị đang hình thành mà chưa đoán định được chắc chắn ý nghĩa của chúng.
Như vậy, “ giá trị truyền thống là những truyền thống có giá trị vững
bền, những truyền thống tốt đẹp,tích cực, tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân
21



tộc, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc đó trong suốt
chiều dài lịch sử. hoặc cũng có thể nói, giá trị truyền thống là những giá trị
nội sinh, cao đẹp và bền vững, tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc, có tác
động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc đótrong suốt chiều dài lịch sử
và được giữ gìn , kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác”1.
Như vậy có thể nói, giá trị truyền thống của dân tộc là sự kết tinh toàn
bộ tinh hoa được chắt lọc, cô đúc nên từ tất cả các di sản truyền thống trong
suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc. Toàn bộ giá trị
truyền thống của dân tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét
nhất bản săc dân tộc. Chính vì vậy, không thể đồng nhất cũng như không thể
tách rời giá trị truyền thống với văn hóa dân tộc mà giá trị truyền thống là một
bộ phận của văn hóa, hơn nữa là bộ phận cốt lõi nhất làm nên sức mạnh nội
sinh của nền văn hóa.
2.2 Giá trị truyền thống trước tác động của toàn cầu hóa
Trong toàn cầu hóa, các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội một mặt,
chịu sự quyết định cửa kinh tế; mặt khác, lại có tính độc lập tương đối và tác
động trở lạ đối với kinh tế. Vì vậy, trong toàn cầu hóa, văn hóa nói chung và
các giá trị truyền thống dân tộc nói riêng, cùng một lúc chịu sự tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp của nhiều yếu tố, mà trước hết là kinh tế. Kinh tế có thể là
trực tếp hoặc thông qua chính trị mà tác động đến các giá tri truyền thống.
Mặt khác, bản thân văn hóa lại có những qui luật vận động nội tại riêng làm
cho giá trị truyền thống của tất cả các dân tộc trên thế giới tác động lẫn nhau
thông qua giao lưu văn hóa chín thức và không chính thức dưới nhiều hình
thức và bằng nhiều con đường khác nhau, bởi lẽ, văn hóa bao giờ cũng mang
tính lịch sử - cụ thể, một mặt, là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội,
và mặt khác, luôn chịu sự tác động của chính bản thân văn hóa.
Do chịu sự tác động của nhiều yếu tố như vậy nên trong quá trình toàn
cầu hóa, giá trị truyền thống của mỗi dân tộc không tránh khỏi sự biến động.
1


Mai thị Quý - Toàn cầu hóa và những vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội 2009, tr 85

22


Sự biến động này diễn ra khá phức tạp theo hai chiều hướng chủ yếu, vừa tích
cực vừa tiêu cực.
Có thể nói, thông qua toàn cầu hóa các nền văn hóa của các dân tộc có
cơ hội xích lại gần nhau, tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, thông hiểu
nhau hơn. Thông qua đó, mọi dân tộc có thể “cho” và “nhận”, có nghĩa là họ
có thể học tập, tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhau làm phong phú cho hệ
giá trị truyền thống của chính dân tộc mình. Không những thế, thông qua giao
lưu văn hóa như vậy, mỗi dấn tộc có thể nhận thấy những yếu tố hạn chế, lỗi
thời, lạc hậu trong truyền thống của dân tộc so với các dân tộc khác, từ đó cần
phải mạnh dạn phá bỏ, bổ sung hoặc hiện đại hóa để có thể phù hợp với sự
phát triển trong xu thế mới - xu thế toàn cấu hóa. Đây cũng chính là quá trình
đấu tranh giữa những hệ giá trị thống của các dân tộc riêng biệt để hình thành
nên những chuẩn giá trị phổ biến phù hợp vứi yêu cầu của thời đại. Đến lượt
mình, các giá trị mới được hình thành và được chấp nhận, sẽ kết hợp với các
giá trị truyền thống, bổ sung và làm phong phú thêm cho giá trị truyền thống,
thậm chí, cò cải tạo cả những yếu tố không còn phù hợp của giá trị truyền
thống làm cho giá trị truyền thống phát triển theo hướng tích cực.
Xu thế toàn cầu hóa đã buộc các nền kinh tế phải mở cửa và hướng
ngoại. Trong điều kiện đó, các gía trị vật chất và tinh thần của các dân tộc
khác nhau có thể thâm nhập lẫn nhau tạo nên một bức tranh văn hóa thế giới
với nhiều màu sắc đa dạng, phong phú đan xen lẫ nhau. Đây cũng là một cơ
hội để các giá trị truyền thống của mỗi dân tộc được cọ sát, bổ sung, đổi mới
và tiếp cận dược với những giá trị hiện đại của nhân loại. Vấn đề đặt ra ở đây

là, mỗi dân tộc cần phải nhận thức đúng về những giá trị truyền thống của
mình, chủ động giao lưu với những giá trị truyền thống của những dân tộc
khác, tìm ra được những yếu tố tiến bộ, phù hợp trong đó để chủ động tiếp
thu, học hỏi làm cho hệ giá trị truyền thống của dân tộc mình ngày càn phong
phú và tiếp cận được với nhưng giá trị hiện đại phù hộ với yêu cầu của xu thế
toàn cầu hóa.
23


Giao lưu văn hóa là một cơ hội làm phong phú thêm cho hệ giá trị
truyền thống dân tộc. Tuy nhiên, đối với bất cứ quốc gia nào cũng vậy, trong
số những sản phẩm văn hóa từ nước ngoài tràn vào, có những sản phẩm phù
hợp, có giá trị cần tiếp thu, nhưng cũng có không ít những sản phẩm không
phù hợp, thậm chí là phản giá trị và vì thế mà không nên tiếp thu. Nếu cứ tếp
nhận tràn lan và không kiểm soát tất cả những cái “ngoại sinh” thì ắt sẽ có
ngày chúng ta lấn át những giá trị “nội sinh” của chính dân tộc mình. Chúng
ta đều biết, giá trị truyền thống của mỗi dân tộc phải được hình thành trên cơ
sở những điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử của chính dân tộc đó. Vì thế,
việc tiếp thu một cách may móc các giá trị truyền thống của dân tộc khác là
không có cơ sở và sẽ dẫn đến sai lầm.
Rõ ràng, sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại thông qua quá trình
hội nhập là điều vô cùng đáng quí để làm giàu thêm cho vốn văn hóa truyền
thống của dân tộc. Nhưng có một thực tế khó phủ nhận là, khi nền kinh tế mở
cửa để hội nhập với quốc tế thì nó không chỉ đón những làn gió mát trong
lành mà nó còn phải đương đầu với những cơn gió độc. Trong quá trình giao
lưu văn hóa, ưu thế đang thuộc về các nước phát triển, bởi nền văn hóa của
các nước này đang được hậu thuẫn bởi một sức mạnh vật chất to lớn. Chính vì
vậy, những giá trị truyền thống của các nước chậm phát triển rất dễ bị lấn át
bởi những động từ bên ngoài dễ bị mất đi bản sắc riêng.
Toàn cầu hóa là cơ hội để các giá trị truyền thống của các dân tộc khác

nhau trên thế giới đối thoại, giao lưu với nhau nhưng vấn đề là ở chỗ, sự giao
lưu này không diễn ra một cách êm đềm, mà trong quá trình giao lưu đó, có kẻ
mạnh, kẻ yếu và tất sẽ có kẻ được, người thua hoặc cái được, cái mất là không
ngang bằng nhau giữa các dân tộc. Không dừng lại ở sự thống trị kinh tế, các
nước tư bản phát triển, đặc biệt là Mỹ, còn mưu toan dùng sức mạnh kinh tế để
mở toang cánh cửa văn hóa của các dân tộc và tàn phá giá trị truyền thống của
các dân tộc khác, từ đó áp đặt một nền văn hóa xa lạ được nhào nặn theo hình
ảnh của văn hóa phương Tây, văn hóa Mỹ, những sản phẩm tiêu dùng chất
24


lượng cao, những thành tựu công nghệ hiện dại là kết quả sáng tạo cảu cả nhân
loại, nhưng trong giai đoạn hiện nay, chúng lại đang được các thế lực tư bản sử
dụng như một công cụ thống trị thế giới cả về vật chất lẫn tinh thần.
Việt Nam cũng như tất cả các nước khác trên thế giới không thể đứng
ngoài xu thế hội nhập toàn cầu vì sợ phát triển của các nước. hơn nữa, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, nền kinh tế của nước ta vẫn còn rất lạc hậu và
kém phát triển. Khoảng cách chênh lệch về khoa học, kỹ thuật, về năng suất
lao động, về thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người là rất xa so vứi
các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, toàn cầu hóa là một cơ
hội lớn để Việt Nam rút ngắn được khoảng cách này. Không bỏ lỡ cơ hội đó,
trong quan hệ đối ngoại, Đảng ta đã thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, hội
nhập với khu vực và quốc tế với phương châm: “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các trong cộng đồn quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển” và “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy nội lực, nâng co hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”2.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, Đảng ta cũng đã xác định rất rõ
ràng: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao

trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hpj tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và
tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa
phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa và bảo
vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch

2

. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc Gia,
Hà Nội, tr43

25


×