Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.72 KB, 44 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày
nay. Đối với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội
nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so
với các nước khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của
mình trong phân cơng lao động và hợp tác quốc tế. Như vậy vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam khơng cịn là “hội nhập” hay “khơng hội nhập” mà phải là hội
nhập như thế nào để tận dụng tốt cơ hội, giảm thách thức trong quá trình phát
triển của mình trong điều kiện thế giới có nhiều biến động khó có thể dự đốn
trước được.
Trước đây, tính chất xã hội hố của q trình sản xuất chủ yếu chỉ lan toả
trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các q trình sản xuất, kinh
doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm
xuất hiện phổ biến các loại hình cơng ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua
đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể, hình thành
nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô lớn cho sản xuất
kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. tình hình này địi hỏi sự tham gia ngày
càng lớn của chính phủ các quốc giacó nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, những
nước này là những nước có thế mạnh về vốn, cơng nghệ, trình độ quản lý…
Ngày nay, một mặt do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho
tính chất xã hội hố của nó vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả sang
các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác tự do thương mại cũng đang trở
thành xu hướng tất yếu và được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn
bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời
sống của mọi quốc gia. Vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới đều điều chỉnh
các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương
mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng
giữa các quốc gia.

1




Có thể nói sự hội nhập của nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa
lại những lợi ích kinh tế khác nhau cho các doanh nghiệp và người dân trong các
nước thành viên. Đặc biệt là Việt Nam thì mở cửa và hội nhập với các nước
trong khu vực và trên toàn thế giới đang là xu thế tất yếu. Chính sự hội nhập này
đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích đáng kể, song cũng khơng ít những thách
thức, khó khăn.
Trước bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu, những cơ hội
và thách thức mà nó mang lại, các vấn đề liên kết và phụ thuộc lẫn nhau nhiều
hơn giữa các nền kinh tế trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã phải đưa ra
những biện pháp, các chính sách về kinh tế vĩ mô, đầu tư, đối ngoại… để tận
dụng tốt những cơ hội, hạn chế và chống lại những tác động tiêu cực, những
thách thức mà tồn cầu hóa mang lại, nhằm giúp đất nước phát triển ổn định và
tăng trưởng.
Đề tài “Phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế” đã có một số cơng trình nghiên cứu trước đây, tuy
nhiên đây là một vấn đề còn thời sự và cần có sự nghiên cứu một cách liên tục,
tồn diện và có hệ thống, nhất là trong bối cảnh mới. Nhóm thực hiện sẽ đi sâu
phân tích đến những phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế khoảng thời gian gần đây.
2. Mục đích của đề tài.
- Khái quát chung về tình hình kinh tế thế giới và tình hình kinh tế Việt
Nam trong bối cảnh mới.
- Phân tích những nhóm chính sách mà Chính phủ Việt Nam đã đưa ra
trong thời gian qua, nhằm đáp ứng những u cầu của bối cảnh tồn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Qua đó nêu ra những kết quả đạt được, những hạn chế còn gặp phải
trong q trình thực hiện các chính sách.
- Từ đó, nhóm xin đưa ra các khuyến nghị và giải pháp nhằm hồn thiện

và nâng cao tính hiệu quả của các chính sách trong bối cảnh mới.
3. Đối tượng nghiên cứu.

2


- Những chính sách của Chính phủ Việt Nam đưa ra trong giai đoạn sau
hội nhập đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
- Phạm vi nghiên cứu: Bối cảnh tổng thể nền kinh tế Việt Nam trong q
trình hội nhập và tồn cầu hóa kinh tế
4. Phương pháp nghiên cứu.
Bài nghiên cứu sử dụng tổng hợp các phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp, phương pháp chuyên gia
trong đó có trích dẫn, kế thùa một số cơng trình nghiên cứu của các học giả
- Ngồi ra bài nghiên cứu cịn sử dụng phương pháp phân tích cả định
tính và định lượng.
5. Những đóng góp mới của bài nghiên cứu.
- Bằng kiến thức sẵn có, kế thừa từ những bài nghiên cứu của nhiều tác
giả,chuyên đề sẽ phân tích tổng thể nền kinh tế thế giới và Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập và tồn cầu hóa kinh tế (cụ thể là sau thời kì khủng hồng kinh tế
tồn cầu) nhằm rút ra những thành tựu, hạn chế. Giải đáp những yêu cầu mà hội
nhập đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Phân tích sâu những chính
sách mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng. Nêu ra những kết quả đạt được, hạn
chế đồng thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết.
6. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của đề tài được kết
cầu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam và thế
giới trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Phản ứng chính sách của Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu

hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Một số khuyến nghị và giải pháp cho chính sách của Việt
Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TỒN CẦU HĨA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

3


1.1. Tình hình kinh tế thế giới trong bối cảnh mới
Tình hình thế giới trong những năm đầu thế kỉ XXI đến nay biến động
khá phức tạp. Đó là sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế thế giới lên tới đỉnh cao
vào năm 2007 và sau đó lại rơi vào một cuộc đại suy thoái tồi tệ nhất kể từ sau
cuộc đại suy thoái giai đoạn 1929 – 1933. Việc nền kinh tế thế giới phát triển
nhanh nhưng không vững chắc cho tới trước năm 2007 chủ yếu là bắt nguồn từ
chính sách vĩ mơ nới lỏng thái q của chính phủ Mỹ, tình trạng kinh doanh
thua lỗ và sụp đổ hàng loạt dây chuyền của các tổ chức tài chính hàng đầu,
khủng hoảng niềm tin của người dân vào sự can thiệp của Chính phủ Mỹ vào
nền kinh tế. Sự phát triển bong bóng của thị trường tín dụng bất động sản và
chứng khốn hóa thái q của các chứng khốn tín dụng bất động sản cộng với
chủ nghĩa tự do trong điều hành kinh tế cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc
khủng hoảng. Những mất cân đối trong chính sách vĩ mơ là điều kiện cơ bản để
các dịng tài chính dịch chuyển với những khối lượng lớn chưa từng có trong
lịch sử, vượt qua tầm hiểu biết và kiểm sốt cảu giới chính sách, châm ngịi cho
cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và sau đó lan ra các nước phát triển; và cho
đến lượt nó kéo theo sự suy giảm về kinh tế trên toàn thế giới.
Kinh tế thế giới hiện nay đang phải đối mặt với ba rủi ro chính đó là : rủi
ro khủng hoảng nợ công, rủi ro trở lại vòng luẩn quẩn thất nghiệp cao- tiêu dùng

thấp – đầu tư ít – thất nghiệp cao; rủi ro giảm sút sự phối hợp chính sách phục
hồi kinh tế các quốc gia. Rủi ro lạm phát đã giảm hẳn và một số nước như Nhật
Bản cịn rơi vào tình trạng giảm phát.
Trong quá trình phục hồi nền kinh tế thế giới, những bất đồng giữa các
quốc gia về các vấn đề then chốt như : tỷ giá, cải cách hệ thống tài chính ngân
hàng… đã nảy sinh gây ra những lo ngại mới. Từ cuối năm 2009, Mỹ và EU gia
tăng trở lại sức ép đòi Trung Quốc tăng giá đồng Nhân Dân Tệ (NDT) đế cải
thiện mất cân bằng cán cân thương mại trong khi đó nước này vẫn tìm cách trì
hỗn điều chỉnh tỉ giá đồng tiền của mình. Sự bất đồng ý kiến của Anh, Mỹ với
Nhật Bản, Canada trong việc tăng thuế đánh vào các ngân hàng lớn. Mỹ, Anh ủng
hộ việc tăng thuế nhưng không đồng tình việc đánh thuế các giao dịch tài chính
của EU còn Nhật và Canada lại chống lại mọi giải pháp tăng thuế, trong khi đó
4


Pháp và Đức lại khơng có quan điểm rõ ràng về việc tăng vốn cho các ngân hàng
đồng thời xiết chặt các đòi hỏi về thanh khoản theo quan điểm của Mỹ.
Trong thời gian gần đây, nền kinh tế thế giới đã bước đầu có những dấu
hiệu hồi phục, tuy nhiên các quốc gia lại phải đối mặt với khủng hoảng nợ công
và các nền kinh tế chủ chốt tiếp tục kích thích kinh tế để vượt qua khủng hoảng
này. Nợ công trở nên nghiêm trọng từ cuối năm 2009 khi các gói kích thích kinh
tế với tổng số vốn hơn 2,2 nghìn tỷ đơla tương đương 4,7% GDP tồn cầu được
triển khai cấp tốc khiến thâm hụt ngân sách của chính phủ các nước tăng vọt.
Tại các nước Châu Âu, tình trạng nợ cơng đã có sự phân hóa mạnh trong
năm 2009: các nước Pháp, Đức và khu vực Bắc Âu kích thích tài khóa tương đối
thận trọng kết hợp với kiểm soát bội chi ngân sách, trong khi nhiều nước Nam
Ấu và Đông Âu phải vay nợ ồ ạt (Hy Lạp nợ nước ngoài 79%, Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha trên 70% GDP). Theo báo cáo kinh tế - tài chính năm 2011, Mỹ và
châu Âu tiếp tục thiệt hại nặng nề vì khủng hoảng nợ cơng. Ngày 2/8/2011, trần
nợ Mỹ được điều chỉnh tăng thêm 2,4 nghìn tỷ USD đê ngăn vỡ nợ, trái phiếu

Bộ Tài chính Mỹ có xếp hạng thấp hơn so với trái phiếu chính phủ Anh, Đức,
Pháp hay Canada. 5 chính phủ Châu Âu sụp đổ vì khủng hoảng nợ và bị hạ xếp
hạng tín dụng nhiều lần: Tây Ban Nha, Italya, Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha. Eu
không đạt được thỏa thuận đột phá để cải thiện tình hình.
Một sự kiện nổi bật trong những năm qua đó là Trung Quốc và Mỹ cạnh
tranh ngôi vị số 1 trong ngành sản xuất thế giới. Năm 2010, lĩnh vực sản xuất
Trung Quốc vượt qua Mỹ đứng đầu thế giới lần đầu tiên từ sau Chiến tranh thế
giới lần thứ hai. Đến cuối năm 2011, việc kinh tế toàn cầu đi xuống đã ảnh
hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên, cả
hai quốc gia này sẽ lại cạnh tranh nhau trong lĩnh vực sản xuất trong những năm
tiếp theo.
Bên cạnh đó, các vấn đề kinh tế tồn cầu trong q trình khơi phục lại
nền kinh tế như chính phủ nhiều nước trên thế giới đưa ra các gói kích thích
kinh tế, hạ giá đồng nội tệ… Thị trường hàng hóa diễn biến phức tạp với cơn sốt
giá vàng, biến động mạnh của một số giá chứng khốn chính trên thế giới;

5


những căng thẳng địa chính trị đẩy giá dầu lên cao; giá nhiều loại hàng hóa lập
đỉnh rồi lại đảo chiều lao dốc… làm đe dọa tăng trưởng kinh tế tồn cầu.
Sự lớn mạnh và đóng vai trị ngày càng quan trọng cảu các tập đoàn
xuyên quốc gia (TNCs). Hiện nay có khoảng hơn 82 nghìn TNCs với khoảng
hơn 800.000 chi nhánh trên tồn cầu. Các TNCs đang đóng vai trò ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế thế giới, góp phần định hinhd bộ mặt nền kinh tế
tồn cầu. Các hoạt động xuất khẩu của các TNCs chiếm tới hơn 1/3 tổng khối
lượng xuất khẩu của thế giới. Các nền kinh tế mới nổi đnag ngày càng giữ vị trí
quan trọng hơn trong nền kinh tế tồn cầu. Trong đó, mơ hình phát triển sức
mạnh kinh tế quốc gia dựa trên các tập đoàn xuyên quốc gia vẫn là một khuynh
hướng chủ đạo.

1.2. Tình hình kinh tế Việt Nam trong bối cảnh mới
Nền kinh tế nước ta trong thời gian qua cũng trải qua nhiều biến động
cùng với nền kinh tế thế giới. Kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng
tương đối khá cao, đưa nước ta thốt khỏi tình trạng nước kém phát triển, bước
vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Bước vào thế
kỉ XXI, nền kinh tế nước ta tiếp tục chịu sự tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực năm 1997, thì ngay sau đó, nước ta lại
chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn
cầu diễn ra từ năm 2008 đến nay. Mặc dù, nền kinh tế thế giới có sự sụt giảm
mạnh, song nước ta vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá, bình quân giai đoạn
2001- 2010, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,26%. Theo
phân loại hiện nay của Ngân hàng Thế giới về thu nhập tính theo tổng thu nhập
quốc gia (GNI), từ năm 2008 nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ
thu nhập thấp, bước vào nhóm nước và vùng lãnh thổ có thu nhập trung bình
thấp. Đây là một bước tiến mới cho sự phát triển kinh tế của nước ta.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta
hội nhập ngày càng đầy đủ hơn với kinh tế khu vực và thế giới. Phát huy kết quả
và kinh nghiệm mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế thu được trong 15 năm đổi
mới 1986 – 2000, từ đầu thế kỉ XXI, nước ta tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động
đối ngoại trên tất cả các mặt, các lĩnh vực: hợp tác song phương, đa phương; mở

6


rộng quan hệ thương mại, thu hút vốn đầu tư, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiểu
hối và tăng cường nhiều hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa”, đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với trên 200 nước, quan hệ
thương mại với hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ; triển khai các cam kết trong
Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản, Hiệp định đầu tư song phương

Hoa Kì (BIT)…
Đặc biệt, ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây thực sự là một dấu mốc cực
kì quan trọng để nước ta gia nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế toàn cầu
Tuy nhiên, những xáo động lớn của mơi trường kinh tế tồn cầu, kinh tế
Việt Nam hiện cũng đang phải đối mặt với một số vấn đề như sức kéo về tỉ giá
và lạm phát, thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách của nước ta vẫn còn ở
mức cao. Kinh tế Việt Nam đạt được hầu hết các chỉ tiêu đề ra của năm 2010
(17/21 chỉ tiêu) đã tạo đà tăng trưởng cho những tháng đầu năm 2011 (xuất khẩu
những tháng đầu năm tăng 33%, cao gấp ba lần kế hoạch đề ra, hoạt động sản
xuất tiếp tục phục hồi với giá trị sản xuất công nghiệp tăng hơn 14%...). Tuy
nhiên, những biến động tiêu cực của kinh tế thế giới những tháng đầu năm đã
tác động trực tiếp đến kinh tế Việt Nam: Lạm phát trở thành nguy cơ lớn nhất
đối với nền kinh tế (chỉ số giá tiêu dùng quý I tăng 6,12%, mức tăng cao nhất so
cùng kỳ ba năm trở lại đây) do nguyên nhân 'nhập khẩu lạm phát' từ thế giới, ở
trong nước giá lương thực, thực phẩm tăng liên tục vì mất mùa do tình hình thời
tiết phức tạp và nhất là quá trình tăng trưởng thời gian qua của nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào việc bơm vốn; Cán cân thương mại thâm hụt ở mức cao (trung
bình nhập siêu mỗi tháng một tỷ USD) do giá các nguyên, nhiên liệu nhập khẩu
tăng mạnh, trong khi xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, do nhu cầu tiêu dùng thế
giới phục hồi chậm. Vấn đề nhập siêu đang gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc
gia, tác động tới tỷ giá USD/VND, đồng thời gián tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm
phát đối với nền kinh tế; Hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là các doanh
nghiệp nhập khẩu gặp khó khăn do chi phí nhập khẩu tăng; một số ngành sản

7


xuất đang có sự liên thơng với chuỗi cung ứng tồn cầu, như ngành lắp ráp ơ-tơ,
máy tính, điện tử... sẽ bị tác động do sự đình đốn của các hãng sản xuất Nhật

Bản sau thảm họa động đất sóng thần; Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi, Trung
Ðơng đã tác động đến quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước khu vực này,
nhất là lĩnh vực thương mại, du lịch và xuẩt khẩu lao động. Chỉ riêng việc hơn
10.000 lao động Việt Nam từ Li-bi về nước cùng một thời điểm cũng là một bài
toán đặt ra đối với thị trường lao động và việc bảo đảm an sinh xã hội ở khu vực
nông thôn; Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA mặc dù chưa có tín
hiệu chịu tác động rõ nét, nhưng về lâu dài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do nhiều
nước phải thực hiện các biện pháp thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư, nhất là việc
Nhật Bản phải tập trung tài chính để tái thiết đất nước sau thảm họa thiên tai.
Những biến động của tình hình chính trị và kinh tế thế giới kết hợp với
những khó khăn nội tại của kinh tế Việt Nam đã tác động trực tiếp tới công tác
bảo đảm an ninh trật tự, thể hiện trên một số mặt: Lạm phát tăng cao và tình
hình thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp đã tác động xấu đến kinh tế và đời
sống của nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo đảm an sinh xã hội, nhất là
khu vực nông thôn; Các thế lực thù địch sẽ lợi dụng hiệu ứng từ các biến cố
chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðơng, những khó khăn về kinh tế - xã hội ở trong
nước để đẩy mạnh thực hiện âm mưu 'diễn biến hòa bình'; Trên thị trường tài
chính, lãi suất thị trường duy trì ở mức cao so với khả năng hấp thụ vốn của nền
kinh tế đã khiến cho dòng tiền thu hẹp và gia tăng rủi ro thanh khoản của hệ
thống ngân hàng thương mại, đồng thời gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp
(nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ) dẫn đến thất nghiệp và ảnh hưởng đến những
vấn đề an sinh xã hội và an ninh khu vực nông thôn; Sự thiếu minh bạch và việc
tồn tại hai lãi suất trong hoạt động ngân hàng (lãi suất niêm yết và lãi suất thỏa
thuận) đã tạo điều kiện cho những giao dịch 'chui', các hành vi móc ngoặc, là
điều kiện để tội phạm tham nhũng thể hiện; Trong lĩnh vực tiền tệ, áp lực tỷ giá
gia tăng do tác động của lạm phát, nhập siêu và nhất là sự tồn tại của thị trường
tự do mua bán ngoại tệ và vàng đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động quản

8



lý Nhà nước về ngoại hối, gây ra tình trạng đầu cơ làm giá trục lợi, làm méo mó
thị trường.

9


CHƯƠNG 2
PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TỒN
CẦU HĨA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Các phản ứng chính sách của Việt Nam
2.1.1. Chính sách tài chính – tiền tệ
Sau khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế và thoát khỏi cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng. Mục
tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 là tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ đầu năm 2008 đã làm cho nền kinh tế các
nước trong đó có Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề. Có thể nói, từ năm 2006
đến nay là giai đoạn chứng kiến nhiều diễn biến phức tạp của nền kinh tế Việt
Nam. Từ giai đoạn tăng trưởng nhanh 2006 – 2007, đến giai đoạn rơi vào suy
thoái cuối 2007 – đầu 2009 và bắt đầu chứng kiến sự phục hồi từ quý II/2009
đến nay. Song song với những thay đổi phức tạp của nền kinh tế thì hàng loạt
chính sách vĩ mơ được đưa ra, trong đó có kể đến chính sách tài khóa đã được
đưa vào thực hiện nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Luật Ngân hàng Nhà nước (1997, bổ sung và sửa đổi 2003, 2010) và Luật
Ngân sách Nhà nước (2002) đã đặt cơ sở pháp lý chính thức cho sự phối hợp
chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa ở Việt Nam thơng qua xây
dựng mục tiêu chính sách, lập và thực hiện chính sách. Các thơng tư liên bộ giữa
Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hàng năm, đặc biệt “Quy chế về
phối hợp công tác và trao đổi thông tin” đã được ký kết vào ngày 29/2/2012
giữa hai Bộ cũng đề cập tới cả cơ chế phối hợp trong điều hành chính sách

thường xuyên1. Tính tất yếu của sự phối hợp giữa hai chính sách quan trọng đã
được thống nhất và văn bản hóa bởi các nhà làm chính sách.
Có sự nhất quán trong điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm mục
tiêu duy trì đà tăng trưởng. Mặc dù mục tiêu ổn định giá cả được tuyên bố là
mục tiêu ưu tiên trong luật NHNN nhưng lựa chọn cuối cùng ln là vấn đề tăng
trưởng. Có thể nhìn thấy điều này cả trong giai đoạn kiềm chế lạm phát năm
10


2008, giai đoạn kích cầu năm 2009 - 2010 và cả giai đoạn thực hiện Nghị quyết
11 tập trung ổn định vĩ mơ năm 2011. Xét ở khía cạnh này, cả hai chính sách đã
có sự phối hợp khá rõ nét.
Năm 1997, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa đã được sử dụng để khôi phục đà tăng trưởng kinh tế, hạn
chế tình trạng giảm phát thơng qua chính sách kích cầu kéo dài từ năm 1997 đến
2003. Kết quả là Việt Nam đạt được mức tăng trưởng ở mức cao (7,7; 8,4; 8,17;
8,5%/năm của các năm 2004, 2005, 2006 và 2007 tương ứng) kèm theo tỷ lệ
lạm phát có lúc ở mức 2 con số giai đoạn 2004 – 2007.
Giai đoạn lạm phát bùng nổ vào năm 2008 như là kết quả tất yếu của
chính sách nới rộng tổng cầu trước đó địi hỏi các chính sách kiềm chế tổng cầu
quyết liệt và nhất quán song song với cải thiện các khía cạnh của cấu trúc kinh
tế và hiệu quả đầu tư. Song trong thực tế, Chính phủ đã 4 lần thay đổi mục tiêu
ưu tiên và bằng cách đó, các điều chỉnh chính sách ln có thiên hướng duy trì
tốc độ tăng trưởng (đặc biệt là chính sách tài khóa).
- Từ thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát (năm 2008) sang
kích cầu đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng (năm 2009) (Công văn số
75/TTg-KTTH ngày 15/01/2008 về biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm sốt tăng
giá năm 2008; Cơng văn số 319/TTg-KTTH ngày 03/3/2008 về tăng cường các
biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008; Nghị quyết 10/2008/NQ-CP ngày
17/4/2008 về 8 giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát; Nghị quyết

30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội).
- Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng (năm 2010) (Nghị quyết
số 18/ NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 về những giải pháp bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010).
- Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mơ và kiểm sốt lạm phát (2011) (Nghị
quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về các giải pháp chủ yếu nhằm tập trung kìm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2011).
11


- Năm 2012 tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
(Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012).
Có thể nhận thấy, cho tới 2010 và nửa đầu 2011, mục tiêu tăng trưởng vẫn
là mục tiêu ưu tiên, mặc dù lạm phát không còn là dấu hiệu mà đã thực sự bùng
phát cộng với những ảnh hưởng bởi độ trễ của chính sách kích cầu năm 2009. Chỉ
tới nửa cuối năm 2011 cho tới nay, ưu tiên kiềm chế lạm phát mới thực sự được
thể hiện trong các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và trở thành hành động của hai
Bộ Tài chính và NHNN. Tuy nhiên, trong thực tế, CSTT và chính sách tài khóa
được sử dụng để hướng tới các mục tiêu kinh tế với các mức độ khác nhau. Trong
đó, CSTT ln được sử dụng như là cơng cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế vĩ mô,
đặc biệt trong giai đoạn giảm tổng cầu, kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô sau khủng hoảng
Từ đầu năm 2008, NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo
hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng
diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn; Phát hành bắt buộc 20.300
tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín phiếu NHNN không được sử dụng
để vay tái cấp vốn tại NHNN; Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12 rồi
14%. Hệ thống lãi suất điều hành gồm cặp lãi suất tái cấp vốn cũng được điều

chỉnh tăng lên 15% và 13%; Khống chế hạn mức tín dụng và u cầu kiểm sốt
chặt những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh
chứng khoán và bất động sản...Ðến tháng 5/2008 tổng phương tiện thanh toán
tăng 3,73% so với cuối năm 2007, thấp hơn so với mức tăng 17,57% của cùng
kỳ năm trước. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng tăng 18,42%, tuy cao so với tốc độ
tăng 13,36% của cùng kỳ năm trước, nhưng có xu hướng giảm dần (tháng
1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%, tháng 3/2008 là 3,78%, tháng 4/2008 là
3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%). So với năm 2007, tốc độ tăng M2 cả năm
2008 là 19,5%; dư nợ tín dụng tăng 25,4% thấp hơn nhiều so với năm 2007 với
39% và 56% tương ứng (Hình 1).

12


Hình 1: Tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán
2000-2011

Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Cùng với CSTT, chính sách cắt giảm chi tiêu cơng cũng được đặt ra
thơng qua chủ trương rà sốt, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự
cấp bách, các dự án có khả năng hồn thành và đưa vào sử dụng trong năm
2008, thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xun. Số các dự án, cơng trình
đầu tư bị bị dừng lại hoặc giãn tiến độ khoảng hơn 3000 dự án với tổng số vốn
là 37.000 tỷ đồng, tập trung phân bổ cho các dự án cấp thiết có khả năng hồn
thành đưa vào sử dụng trong năm 2008 (nhưng trên thực tế, việc cắt giảm không
được bao nhiêu). Chính phủ cũng đã giảm 25% kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn
trái phiếu Chính phủ, riêng trái phiếu giáo dục điều chỉnh giảm 5,6% so với mức
Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, các biện pháp đề ra chưa thực sự quyết liệt. Kết
quả là: tổng chi tiêu Chính phủ thực hiện trong năm 2008 vẫn vượt 19% so với
dự toán, tăng hơn 22% so với thực hiện năm 2007 và chiếm 31,75% GDP. Chi

đầu tư phát triển đã được cắt giảm đáng kể nhưng vẫn chiếm đến 7,9% GDP,
vượt dự toán 18% và tăng 5% so với năm 2007. Kết quả thâm hụt ngân sách
nhà nước năm 2008 vẫn xấp xỉ 5% GDP. Ðến ngày 31/12/2008, nợ công
chiếm 42% GDP, dư nợ ngoài nước của quốc gia bằng 27,2% GDP.
Giai đoạn kích cầu năm 2009
Từ nửa cuối năm 2008, CSTT lại hướng vào việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhằm đối phó với suy thối kinh tế trong nước và khủng hoảng kinh tế
thế giới thông qua một loạt các công cụ: Triển khai thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi

13


suất mà thực chất là mở rộng cung tiền; Hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5%
và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn xuống 7,5% và 9,5%; Giảm tỷ lệ dữ trữ
bắt buộc đối với tiền đồng xuống cịn 5%;Thực hiện thanh tốn trước hạn
20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là mua giấy
tờ có giá để cung ứng thêm tiền; Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong gần
suốt năm 2009, tăng lên 8% vào tháng 11/2009. Kết quả là tốc độ tăng trưởng
tín dụng lên tới mức kỷ lục gần 40% vào năm 2009 và lạm phát tạm thời ở mức
6,9% - tỷ lệ cao nhất trong khu vực vào thời gian đó.
Ðóng góp vào thành tích này là nỗ lực mở rộng chi tiêu của chính sách tài
khóa. Trước hết là gói kích cầu tới 160.000 tỷ (gồm cả 17.000 tỷ hỗ trợ lãi suất)
chiếm 10% GDP vào năm 2009 (mức hỗ trợ vào loại cao nhất thế giới xét ở tỷ lệ
phần trăm so với GDP. Ở các nước G20 khối lượng kích cầu chỉ chiếm khoảng
2%/GDP mà đã đem lại mức bội chi ngân sách trên 10%) để đầu tư và trợ cấp
cho các khu vực bị tổn thương. Cùng với nó là các giải pháp mở rộng chi tiêu và
đầu tư (các thành quả của năm 2008 về cắt giảm chi tiêu công, hoãn và phân bổ
lại vốn cho các dự án hầu như bị xóa bỏ), chính sách giãn thuế, giảm thuế đã
được đưa ra để kích cầu đầu tư và tiêu dùng (19 nhóm hàng hóa, dịch vụ được
giảm 50% thuế VAT; 6 ngành nghề được giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp

9 tháng; thuế thu nhập cá nhân được miễn cho hộ nghèo 6 tháng đầu năm
2009…) có tác dụng điều tiết hiệu ứng phân phối lại của lãi suất cho cá nhân và
doanh nghiệp, hỗ trợ phần nào mục tiêu kích thích kinh tế trong năm 2009 2. Nỗ
lực này khiến Việt Nam duy trì được mức tăng trưởng 5,3% - mức tăng trưởng
dương hiếm hoi sau khủng hoảng. Nền kinh tế đã khơng rơi vào tình trạng đổ vỡ
hàng loạt do ảnh hưởng của khủng hoảng.
Giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mơ thận trọng nhằm ổn định và duy trì
mục tiêu tăng trưởng năm 2010
Nghị quyết số 18/NQ-CP 4/2010 xác định cả hai mục tiêu cho năm 2010:
kiềm chế mức lạm phát khoảng 7% (tương tự như 2009) và theo đuổi mục tiêu
tăng trưởng khoảng 6,5%. Trong thực tế, khoảng nửa đầu năm 2010, CSTT tuân
thủ định hướng hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng (mục tiêu tăng trưởng
14


dư nợ tín dụng là 25% và M2 là 20%), kiểm sốt rủi ro, cải thiện chất lượng tín
dụng và cơ cấu dư nợ. Các giải pháp này là khá tương thích theo nghĩa: yêu cầu
chất lượng tín dụng cao sẽ làm giảm nhu cầu tín dụng ảo và hạn chế tình trạng
rủi ro do lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Bên cạnh đó, việc xem xét lại và
nâng cao tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng theo Thơng tư 13 và
Thơng tư 19/2010/NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an tồn trong hoạt động
của các TCTD (mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều vào thời điểm ban hành) đã
thể hiện một động thái tích cực của NHNN nhằm hạn chế việc cung ứng tín
dụng q năng lực dự phịng rủi ro và đảm bảo an toàn của từng ngân hàng và cả
hệ thống. Với cố gắng này, NHNN có kỳ vọng vốn tín dụng sẽ tới được với
những đối tượng sử dụng vốn có hiệu quả và bằng cách đó, kiểm sốt được lạm
phát mà vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng. Cho đến nửa đầu năm 2010, tốc
độ tăng trưởng dư nợ tín dung chỉ có hơn 10% và bị chỉ trích là CSTT quá chặt
chẽ, kiềm chế tăng trưởng. Thời điểm này, hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng
căng thẳng thanh khoản hệ thống, các ngân hàng thiếu nguồn nội tệ cho nhu cầu

vay, tỷ lệ sử dụng vốn ở thị trường II lớn (đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, cơ sở
khách hàng yếu). CSTT bị đặt trong tình thế lựa chọn: tiếp tục duy trì chính sách
tiền tệ thận trọng từ đầu năm (lựa chọn này thích ứng với u cầu kiểm sốt lạm
phát, giúp kiểm soát được trạng thái thanh khoản của hệ thống) và chấp nhận lãi
suất tăng lên hay quay lại duy trì tốc độ tăng trưởng, nới rộng tín dụng, hạ lãi
suất và rơi vào vịng xốy của rủi ro thanh khoản. Trong thực tế CSTT đã rơi
vào điểm bẫy vĩ mơ khi vừa chống đỡ tình trạng thiếu vốn vừa phải khống chế
lãi suất huy động vốn nhằm giảm lãi suất cho vay vì mục tiêu tăng trưởng và
chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp 3. Với các giải pháp nới rộng cung tiền, chỉ
trong 6 tháng cuối năm, dư nợ tín dụng đã tăng tới 18% và đưa tổng mức dư nợ
tín dụng tăng tới gần 28% so với năm 2009 (vượt 12% so với cam kết). Kết quả
là cả hai mục tiêu đều vượt chỉ tiêu của Quốc hội: tốc độ tăng trưởng vượt 104%
và tỷ lệ lạm phát vượt 168%!
Chính sách tài khóa cũng theo đuổi mục tiêu nới rộng tổng cầu trong suốt
năm 2010 nhằm kích thích tăng trưởng. Nếu như năm 2008, một số dự án bị
15


ngừng hoặc dãn tiến độ và khu vực xây dựng cơ bản khơng tăng so với 2007 thì
đến 2010, giá trị sản xuất xây dựng tăng 23,1% so với 2009 (năm được đầu tư
mạnh bởi các gói kích cầu), vốn đầu tư khu vực nhà nước tăng 10% so với 2009
(Chú ý rằng vốn đầu tư khu vực nhà nước năm 2009 tăng tới hơn 40% so với
2008). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế tăng
17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP, trong đó một tỷ lệ lớn nguồn vốn
trái phiếu Chính phủ ứng trước để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ một số dự án
hoàn thành trong năm 2010. Bội chi ngân sách lên tới hơn 6% GDP, tỷ lệ nợ
cơng là 56,6% (theo cách tính của Luật Nợ công Việt Nam).
Giai đoạn ưu tiên ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát (2011 - 2012)
Lần đầu tiên, tuyên bố mục tiêu vĩ mô và cam kết thực hiện mục tiêu
kiểm soát lạm phát thể hiện sự nhất quán cao trong tư tưởng chỉ đạo của Chính

phủ theo Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011. Theo đó, cả CSTT và chính
sách tài khóa đều được u cầu sử dụng triệt để các cơng cụ chính sách nhằm ưu
tiên kiềm chế lạm phát. CSTT một lần nữa quay lại thực hiện thắt chặt với mục
tiêu trung gian gồm dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới 16%, M2 tăng dưới 20%.
NHNN đã triển khai các chính sách cụ thể nhằm đạt mục tiêu này, gồm: Yêu
cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với mục tiêu
tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản
xuất kinh doanh, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất
trong tổng dư nợ xuống mức 22% đến 30/06/2011 và 16% đến 31/12/2011; Lãi
suất chiết khấu tăng từ 7%/năm lên 12->13%/năm, lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 1016%/năm;Nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần
lớn thời gian của năm 2011 (tính đến cuối tháng 6/2011, Tuân thủ nghiêm ngặt
giới hạn tín dụng trong tồn hệ thống ngân hàng với các chế tài xử phạt nghiêm
khắc của nội bộ từng ngân hàng; Xây dựng và triển khai chiến lược cấu trúc lại
hệ thống ngân hàng từng bước nhằm nâng cao tính hiệu quả, giảm mức độ rủi ro
và cải thiện sức mạnh cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chủ trương này cũng
nhằm giải quyết tận gốc căn nguyên của tình trạng mặt bằng lãi suất cao hiện
16


nay (về phía ngân hàng); Triển khai đồng bộ các giải pháp đối với thị trường
ngoại tệ, thị trường vàng nhằm mục tiêu giảm sự di chuyển vốn lòng vòng giữa
tài sản được coi như tiền (money likes) - một trong các yếu tố gây áp lực lên lãi
suất nội tệ, triệt tiêu tác động của CSTT. Kết quả là mức tăng M2 và tín dụng
của cả năm 2011 đạt dưới 10% và trên 12% (số liệu ước tính theo công bố của
NHNN đầu năm 2012), thấp hơn nhiều so với mức tăng trung bình của các năm
trước. Ðây là mức thắt chặt thấp hơn đáng kể so với mức tăng định hướng đã
nêu trong Nghị quyết 11 nhằm hướng tới giảm tổng cầu. Tuy vậy, sự quyết liệt
trong giảm tổng cầu từ phía CSTT đã khơng đạt được kết quả mong muốn.
Trong khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 5,89% thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục tăng

tới mức kỷ lục gần 19% (mức tăng cao so với mục tiêu đã được điều chỉnh
là 15% cho năm 2011).
Nguyên nhân có thể nhìn một phần ở thực trạng thực hiện chính sách tài
khóa thắt chặt năm 2011. Các giải pháp cắt giảm chi tiêu công được đưa ra khá
quyết liệt: Không kéo dài thời gian giải ngân, không ứng trước kế hoạch năm
2012 vốn ngân sách và trái phiếu chính phủ, giảm 32% vốn trái phiếu chính phủ,
giảm 10% tín dụng đầu tư của nhà nước. Yêu cầu cắt giảm đầu tư công theo tinh
thần Nghị quyết 11 được coi là giải pháp quyết liệt và cần thiết để kiềm chế lạm
phát. Mục tiêu của chủ trương này gắn liền với chiến lược tái cấu trúc đầu tư
công, thúc đẩy tiến độ, đầu tư trọng điểm vào các dự án cần thiết và phân bổ lại
tổng nguồn vốn đầu tư xã hội nhằm đảm bảo tính hiệu quả của vốn đầu tư. Bằng
cách đó mà kiểm sốt tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư, giảm áp lực lên mặt
bằng giá cả. Dự kiến trong năm 2011, số vốn cắt giảm chiếm khoảng 10% GDP
(tương đương 97.000 tỷ đồng), trong đó tới 50.000 tỷ đồng giảm do khâu kế
hoạch chi đầu tư công 2011 giảm so với thực hiện năm 2010. Số vốn cắt giảm do
thực hiện các giải pháp quy định tại Nghị quyết số 11 là 46.888,3 tỷ đồng, trong
đó riêng vốn ngân sách nhà nước cắt giảm là 5.128 tỷ đồng, vốn trái phiếu chính
phủ là 2.547,5 tỷ đồng; các tập đồn kinh tế, Tổng Cơng ty nhà nước cắt giảm
39.212,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo số liệu đến tháng 8/2011, tổng số dự án
ngừng khởi công mới, cắt giảm và điều chuyển là 2.103 dự án với tổng số vốn là
17


6.532,7 tỷ đồng, trong đó ngừng khởi cơng mới 1.206 dự án với số vốn cắt giảm
3.768,5 tỷ đồng; cắt giảm, điều chuyển vốn của 897 dự án với số vốn 2.764,2 tỷ
đồng. Bên cạnh đó, một số lượng khơng nhỏ các dự án mới không thuộc đối
tượng đầu tư của vốn trái phiếu chính phủ hoặc khơng phải dự án được đầu tư
năm 2011 lại được đưa thêm vào danh mục đầu tư năm 2011. Có thể nhận thấy,
kết quả rịng của chủ trương giảm đầu tư cơng năm 2011 là rất khiêm tốn, không
đem lại hiệu ứng mong muốn. Tuy vậy, mức thu ngân sách tăng 20% so với năm

2010 và bội chi giảm nhẹ ở mức 4,9% thấp so với mức mục tiêu 5,3% (Hình 2).
Hình 2: Thu, chi và bội chi ngân sách Nhà nước 2001-2011 (%/GDP)

Nguồn: Bộ Tài chính, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Những dấu hiệu đình đốn kinh tế từ cuối năm 2011
Có một thực tế cần quan tâm là, ngay từ năm 2011, những dấu hiệu đình
đốn đã xuất hiện. Mặc dù NHNN khống chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín ở mức
20%, nhưng mức tăng thực tế chỉ là 12%. Thậm chí, NHNN bắt đầu thể hiện
dấu hiệu nới lỏng từ quý IV năm 2011 nhưng nhu cầu tín dụng vẫn rất thấp, báo
hiệu tình trạng đình đốn của khu vực sản xuất, giảm nhu cầu tín dụng, chỉ số giá
đã bắt đầu giảm từ tháng 8/2011. Tính đến quý I/2012, dấu hiệu đình đốn sản
xuất rõ nét với tỷ lệ tăng sản xuất công nghiệp là 4,1% (so với 9,3% cùng kỳ
năm 2011), mức bán lẻ chỉ là 5% (thấp xa so với số liệu cùng kỳ từ 2006), tốc
độ tăng trưởng kinh tế là 4% (thấp nhất từ 2007 đến nay) (Hình 3)

18


Hình 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát 2000-2012

Nguồn: Tổng cục thống kê
Thực trạng này dẫn tới lượt chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát
sang thúc đẩy phục hồi kinh tế, sử dụng CSTT cho năm 2012.
Có thể nhìn thấy các động thái này qua ba lần cắt giảm lãi suất 300 điểm
liên tiếp, đưa mức trần lãi suất xuống 11% từ 25/5/2012, liên tiếp hạ lãi suất chỉ
đạo, áp trần lãi suất 15%/năm rồi giảm xuống 14%/năm cho 4 khu vực ưu tiên:
nông nghiệp, nông thôn; doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Cơ cấu lại nợ (thời hạn trả nợ,
lãi suất, cho vay mới trả nợ cũ,...) và các giải pháp khác cần thiết, phù hợp với
từng loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh

nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc quy định nới rộng tín
dụng cho khu vực bất động sản với mục đích thúc đẩy sản xuất các ngành vật
liệu xây dựng và giải phóng các khoản nợ đọng của ngân hàng trong tài sản
đảm bảo là bất động sản.
Các đợt giảm và hoãn thuế cũng được sử dụng từ 2011, tiếp tục được sử
dụng cho hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2012 với quy mô khoảng 29.000 tỷ
đồng5 nhằm: i/ Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh
nghiệp (TNDN) đối với một số doanh nghiệp; ii/ Giảm tiền thuê đất, miễn thuế
môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối… Tuy vậy,

19


hiệu ứng hỗ trợ của chính sách thuế sẽ rất khiêm tốn bởi: Một số doanh nghiệp
đang ở trong diện gia hạn nộp thuế từ đợt gia hạn năm 2011, kỳ gia hạn này chỉ
kéo dài hơn thời hạn chứ không tạo nên sự hỗ trợ vật chất thực sự; Một bộ phận
doanh nghiệp không nhỏ đang trong giai đoạn cầm cự và tồn tại. Với tỷ lệ tồn kho
cho đến tháng 5/2012 khoảng 30 - 40% bình quân thì khả năng có nguồn nộp thuế
để hưởng chính sách giảm thuế là không khả thi trong một vài tháng tới; iii/ Gói
hỗ trợ được dự tính ảnh hưởng khoảng 9% thu ngân sách sẽ gây áp lực lên mức
bội chi ngân sách vốn đã rất nặng nề có thể sẽ có những hệ lụy khác.
Chính sách tiền tệ đã được thực hiện theo hướng thắt chặt, thể hiện ở việc
giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng xuống dưới 20%, áp dụng với tất cả các ngân
hàng (so với mức 23% của kế hoạch đầu năm) và tổng phương tiện thanh toán
dưới 16%.
Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại điều chỉnh lại
kế hoạch kinh doanh về tăng trưởng tín dụng và tài sản có để đảm bảo đúng các
quy định về tỷ lệ an toàn và tăng trưởng tín dụng dưới 20%; yêu cầu sử dụng và
điều hành linh hoạt các cơng cụ chính sách tiền tệ mà tập trung ở 4 cơng cụ
chính là lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc để điều

tiết lượng tiền cung ứng và thanh khoản để đảm bảo tốc độ tăng tổng phương
tiện thanh toán khoảng 15 – 16%; kiểm soát lãi suất ở mức hợp lý.
Để thực hiện được giải pháp chính sách này, ngày 3/3/2011, Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ấn định lãi suất huy
động vốn bằng tiền đồng Việt Nam là 14% và ngày 29/4/2011, Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn
giữ nguyên mức 14,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu 13,0%/năm; lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng 14,0%/năm. Tiếp tục
thắt chặt chính sách tiền tệ, ngày 17/5/2011, Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất
trên thị trường mở thêm 100 điểm cơ bản (1%) lên 15%/ năm từ mức 14%.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối
linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường; tăng cường quản lý ngoại hối, thực
20


hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân, trước hết là các tập đoàn
kinh tế, tổng cơng ty bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua
khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn giá, đáp ứng yêu
cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh.
Trước đó, để thu hẹp sự chênh lệch với tỷ giá trên thị trường tự do, ngày
11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng đồng đô la
Mỹ (USD) tăng 9,3%, mức cao nhất kể từ năm 1993 đến nay. Song song với đó,
NHNN đã tích cực thanh tra, kiểm tra, xử lý các giao dịch không hợp pháp trên
thị trường tự do, qua đó ra tín hiệu về việc kiên quyết xử lý các giao dịch này.
Cơ bản hơn, NHNN đã ban hành một số chính sách về đối tượng vay ngoại tệ 3,
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định trần lãi suất huy động đối với USD đối với
cá nhân là 3%,… qua đó khơi thơng dịng vốn USD vào ngân hàng và khả năng
thanh khoản ngoại tế.
Nỗ lực thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư cơng,

giảm bội chi NSNN: Với mục tiêu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011
xuống dưới 5% GDP, thực hiện cắt giảm đầu tư công, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tập đồn, tổng cơng ty nhà
nước tiến hành rà sốt kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011 nguồn vốn NSNN,
vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn nhà nước khác. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đã tổ chức 8 đoàn kiểm tra các địa phương, 2 đoàn kiểm tra các tập đồn kinh
tế và tổng cơng ty nhà nước và các đoàn kiểm tra tại các bộ, ngành, cơ quan ở
Trung ương. Kết quả cho thấy, hầu hết các bộ ngành, địa phương đã tiến hành rà
soát, cắt giảm và điều chuyển vốn đầu tư phát triển bằng nguồn NSNN. Theo
đó, các Bộ, ngành Trung ương đã cắt giảm 172 dự án khởi công mới, 53 dự án
chuyển tiếp với tổng số vốn cắt giảm là 899,4 tỷ đồng. Đồng thời các Bộ, ngành,
cơ quan trực thuộc trung ương đã tiến hành điều chuyển vốn cho 280 dự án. Các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng cắt giảm 880 dự án khởi công mới
và 604 dự án chuyển tiếp với tổng số vốn hơn 4.229 tỷ đồng. Các tập đồn kinh
tế, tổng cơng ty nhà nước cũng đã tiến hành rà sốt, đình hỗn, giãn tiến độ 907
dự án với tổng số vốn trên 39.212 tỷ đồng.
21


2.1.2. Chính sách thu hút đầu tư nước ngồi
Nước ta bắt đầu ban hành Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm
1987, cho thất hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi đã chiếm một vị trí quan
trọng trong hoạt động đầu tư phát triển của nước ta. Đầu tư nước ngồi đã đóng
góp đáng kể cho ngân sách, giải quyết công an việc làm và đặc biệt chuyển giao
cho nước ta những công nghệ hiện đại của thế giới. Đây cũng là khu vực kinh tế
năng động của nền kinh tế nước ta, chiếm tỉ trọng đáng kể trong GDP, nó cùng
với các thành phần kinh tế khác đã tạo động lực cho nền kinh tế phát triển.
Ngày 27/11/2001, Bộ chính trị đã đưa ra Nghị quyết về hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm cụ thể hóa chủ trương lớn của Đại hội Đảng lần thứ IX là ”Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,

nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, bảo vệ môi trường”. Trong văn kiện Đại hội
Đảng IX nêu rõ ”Tạo điều kiện để kinh tế có vốn FDI phát triển thuận lợi,
hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút
công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý
để thu hút mạnh vốn FDI”.
Để phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn, Luật khuyến khích đầu tư nước
ngồi của nước ta đã được điều chỉnh, đổi mới thành Luật đầu tư vào năm 2005.
Luật đầu tư (2005) đã đưa vào thêm nhiều nội dung mới, trong đó liên quan đến
đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước và đầu tư ra nước ngoài. Hai nội dung quan
trọng của hai Luật đầu tư trước đây là đảm bảo đầu tư và hỗ trợ, ưu đãi đầu tư
lần này được hoàn chỉnh cho phù hợp hơn với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc
tế. Đó là: quyền tự do đầu tư được mở rộng hơn; các hình thức đầu tư cho nhà
đầu tư nước ngoài được mở rộng; nhà đầu tư được bảo hộ trong trường hợp
trưng thu, trung dụng, quốc hữu hóa; nhưng phải vì mục đích cơng và phải được
đảm bảo bồi thường, bồi hoàn theo giá trị thị trường; về giải quyết tranh chấp,
theo quy định của Luật đầu tư, nhà đầu tư nước ngồi có quyền đưa các tranh
chấp ra giải quyết tại các tổ chức nước ngoài; luật đưa ra khuyến khích ưu đãi
đầu tư áp dụng thống nhất cho cả nhà đầu tư nước ngoài và cả nhà đầu tư trong
22


nước; luật cũng đã hủy bỏ các ưu đãi cũng như các ngăn cấm vi phạm Hiệp định
về trợ cấp chính phủ phù hợp với cam kết quốc tế.
Lấy số liệu cụ thể từ đầu năm 2012 đến tháng 8/2012, dựa trên báo cáo
của các địa phương và số liệu thu thập được, Cục Đầu tư nước ngoài báo cáo sơ
bộ tình hình đầu tư trực tiếp nước ngồi 8 tháng đầu năm 2012 như sau: Vốn
thực hiện ước tính các dự án trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 7,28 tỷ
USD, bằng 99,7% so với cùng kì năm 2011. Tính đến ngày 20/8/2012, cả nước
có 672 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng kí 5,52 tỷ

USD, bằng 56,5% so với cùng kì năm 2011. Cũng tình từ đầu năm 2012 đến
cuối tháng 8/2012, đã có 52 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt
Nam. Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng kí cấp mới và tăng thêm 4,33
tỷ USD, chiếm 51,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Samoa đứng vị trí thứ hai
với tổng số vốn đăng kí cấp mới và tăng thêm là 889,8 triệu USD, chiếm 10,5%
tổng vốn đầu tư...
Để phù hợp hơn với bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
nước ta trong thời gian qua cũng đã kí kết tham gia các điều ước chung quốc tế
thuộc lĩnh vực hội nhập quốc tế về đầu tư. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đã có các kí kết thương mại trên 190
quốc gia trên thế giới; đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ với trên 100 quốc
gia đầu tư vào Việt Nam; gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54
Hiệp định chống đánh thuế hai lần đã được kí kết vào năm 2010. Mục tiêu của
việc kí kết và thực hiện các hiệp định này nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp
dẫn, an toàn hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Theo hiệp định
này, Việt Nam cam kết tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của bên kí
kết trên ngun tắc cơng bằng, thỏa đáng, không gây phương hại bằng biện pháp
bất hợp lý và phân biệt đối xử. Thực hiện các biện pháp bảo hộ đầu tư bằng việc
cam kết không trưng thu, trưng dụng các tài sản của nhà đầu tư trừ trường hợp
vì mục đích cơng, thực hiện theo phương thức không phân biệt đối xử và bồi
thường nhanh chóng, đầy đủ, có hiệu quả theo đúng giá thị trường và phù hợp
với luật định.
23


Ngày 30/7/1998, tại Manila – Philipin, đại diện có thẩm quyền của các
nước ASEAN đã ký Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Hiệp
định đã chính thức có hiệu lực từ ngày 30/6/1999 sau khi tất cả các thành viên
đã phê chuẩn Hiệp định. Nguyên tắc quan trọng nhất của Hiệp định là thực hiện
chế độ đối xử quốc gia và mở cửa các ngành nghệ cho các nhà đầu tư theo một

lộ trình và với những ngoại lệ trong một số khu vực và vấn đề nhất định. Như
vậy, để thực hiện cam kết mở cửa thị trường, Việt Nam phải xây dựng lộ trình
loại bỏ dần những ngành mà hiện nay cịn đang có những hạn chế đối với các
nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nói chung. Đồng thời, các quốc
gia thành viên phải cùng cam kết xây dựng và thực hiện các chương trình và kế
hoạch hành động: hợp tác và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, xúc tiến đầu tư,
tự do hóa đầu tư.
Hội nhập về đầu tư trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương (APEC). Mục tiêu chung của APEC là tiến tới tự do hóa
thương mại và đầu tư vào năm 2010 đối với những nước phát triển và năm 2020
đối với những nước đang phát triển. Để thực hiện được mục tiêu đó, các nước
APEC sẽ phải giảm hoặc hạn chế đối với FDI. Tháng 11/1995, ”Chương trình
hành động OSAKA” với mục đích giảm bớt hoặc loại bỏ những hạn chế đối với
đầu tư, thực hiện các quy định của WTO, các nguyên tắc đầu tư không ràng
buộc của APEC, đã được các nước thành viên thông qua và cùng nhau thực
hiện. Ngay sau khi gia nhập APEC vào tháng 11/1998, Việt Nam đã tham gia
các hoạt động đầu tư của APEC như: xây dựng kế hoạch hành động về đầu tư
(AIP) của Việt Nam; tham gia xây dựng Danh mục lựa chọn tự do hóa và thuậ
lợi hóa đầu tư; biên soạn sách hướng dẫn đầu tư chung của các nước thành viên
APEC...
Hội nhập về đầu tư trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM).
Một trong những ưu tiên hàng đầu của ASEM là tăng cường hợp tác giữa các
doanh nghiệp và cải thiện các điều kiện thương mại, đầu tư thông qua việc triển
khai hai chương trình hợp tác bao gồm: Chương trình thuận lợi hóa thương mại
(TFAP) và Chương trình hành động về xúc tiến đầu tư (IPAP). Mục tiêu của
24


IPAP là nhằm hồn thiện luật pháp chính sách ở mỗi nước theo hướng tạo môi
trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ở cả hai khu vực. Nước ta đã tích

cực tham gia các hoạt động trên ngay từ giai đoạn đầu thực hiện IPAP, trong đó
có việc triển khai ”Những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thu hút FDI” như một
sáng kiến nhằm phục hồi hoạt động FDI ở khu vực sau khủng hoảng kinh tế.
Phát triển quan hệ đầu tư trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Những
cam kết trong hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được hai bên thỏa thuận với
mục tiêu tổng thể là tạo môi trường đầu tư, mơi trường kinh doanh thơng
thống, thuận lợi hơn nữa cho hoạt động FDI tại Việt Nam. Theo đó, mỗi bên
dành cho nhà đầu tư của bên kia theo nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc
gia trong toàn bộ q trình thành lập, mua lại, mở rộng quản lí, điều hành, bán
và giải thể đầu tư... Ngoài một số lĩnh vực và vấn đề thực hiện nguyên tắc đối
xử trên, Việt Nam cịn cam kết tạo dựng mơi trường đầu tư, môi trường kinh
doanh thuận lợi, minh bạch cho hoạt động đầu tư của Mỹ tại Việt Nam với
những nội dung cụ thể: xóa bỏ những hạn chế về chuyển giao cơng nghệ, cho
phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư Hoa Kỳ được trực tiếp tuyển nhân việc
quản lý chủ chốt nước ngoài phù hợp với pháp luật về xuất, nhập cảnh; được lựa
chọn cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư phù hợp với thông lệ quốc tế...
2.1.3. Chính sách thương mại
a. Chính sách thuế quan.
Tháng 12/1946, trong bức thư gửi Liên Hợp Quốc, Hồ Chí Minh có nói ”
Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tư bản nước ngồi đầu tư vào
cơng nghệ; sẵn sàng mở rộng đường sá, sân bay cho quốc tế; Việt Nam sẵn sàng
gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế”. Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã
tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế với phương châm "đa
dạng hóa, đa phương hóa”. Trong những năm qua, chính sách thương mại của
Việt Nam đã từng bước được đổi mới để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nhà nước.với mốc
son la đại hội VI của Đảng năm 1986. Nền kinh tế Việt Nam bước sang một thời
kì phát triển mới. Với phương châm ” việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất c ả các
25



×