Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.27 KB, 38 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá mà toàn Đảng toàn dân ta tiến
hành chỉ có thể thành công khi chúng ta thực sự khi chúng ta tạo cho mình một trình
độ sản xuất tiên tiến hiện đại. Để có một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại, trước
tiên chúng ta phải phát triển khoa học- công nghệ. Cùng với giáo dục- đào tạo, KHCN sẽ là quốc sách hàng đầu trong quá trình đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội nói
chung và công cuộc CNH- HĐH hiện nay nói riêng. Mặc dù nước ta còn nghèo,
nhưng trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự
nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ KH- CN trong cả nước, tiềm lực KH- CN đã
được tăng cường, KH- CN đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tếxã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh. Tuy nhiên trình độ KH- CN của nước ta hiện
nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực
sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự nghiệp CNH- HĐH đất
nước. KH- CN nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trước xu thế
phát triển mạnh mẽ của KH- CN và kinh tế tri thức thế giới. Điều này đòi hỏi KHCN phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển KT- XH của đất
nước. Để nâng cao trình độ KH- CN trong nước đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh
ứng dụng, chuyển giao công nghệ hiện đại tiên tiến vào Việt Nam, và ứng dụng
nhanh và có hiệu quả các kết quả nghiên cứu của chính chúng ta ở trong nước hay
nói cách khác là chúng ta phải nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ
ở Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng nhằm hiện đại hoá sản xuất và quản lý
kinh tế-xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững.
Đề án này đi vào nghiên cứu những lý luận chung nhất về công nghệ vag
CGCN trên cơ sở kết hợp phân tích đánh giá thực trạng về công nghệ và CGCN
cũng như các điều kiện thực tế của Việt Nam từ đó đi đến xây dựng một hệ thống
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN ở Việt Nam. Ngoài lời nói đầu và
kết luận đề án được chia làm 3 phần:
Phần I: Tổng quan về công nghệ và chuyển giao công nghệ
Phần II: Thực trạng CGCN ở Việt Nam.
Phần III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN ở Việt Nam



2

Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Lương Thu Hà, người đã tận
tình hướng dẫn em trong việc hoàn thành Đề án này.
***


3

Phần I/ Tổng quan về công nghệ và chuyển giao công nghệ

1.1.Công nghệ
1.1.1.Khái niệm công nghệ
Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ.
* CN theo cách hiểu củacác nhà khoa học thì công nghệ là hệ thống các giải
pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các tri thức khoa học để giải quyết một vấn đề
thực tiễn.
* Theo các nhà quản lý và các nhà kinh tế học nói một cách tổng quát công
nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chấthoặc chế biến
thông tin nhằm biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành các nguồn lực sử dụng.
* Theo tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc UNIDO (United
Nations Industrial Development Orgnization) công nghệ là việc áp dụng khoa học
vào công nghệ bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý có hệ thống và có
phương pháp.
* Theo Uỷ ban Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương (Economic and
Social Commission for Asia – Pacific - ESCAP) công nghệ bao gồm tất cả các kỹ
năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch
vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý, công nghệ luôn luôn gắn liền với quá trình sản
xuất trực tiếp. Định nghĩa này đã được mở rộng khái niệm ứng dụng của công nghệ

vào các lĩnh vực quản lý và dịch vụ. Định nghĩa này được áp dụng rộng rãi, đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử của quan niệm về công nghệ.
Mỗi định nghĩa đề cập đến công nghệ ở những phương diện khác nhau
nhưng có điểm thống nhất chung, công nghệ là tổng hợp các phương pháp, công cụ
và phương tiện dựa trên cơ sở vận dụng các tri thức khoa học vào sản xuất và đời
sống để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu vật chất- tinh thần của con
người.
Như chúng ta đã biết, khoa học và công nghệ khác nhau về bản chất mặc dù
có quan hệ ngày càng mật thiết. Khoa học nhằm đạt đến sự tiến bộ của nhận thức


4

trong khi đó công nghệ áp dụng nhận thức nhằm tìm cách biến đổi thực tại. Khoa
học thường gắn với các khám phá, công nghệ gắn với các hàng hoá dịch vụ. Công
nghệ luôn là loại hàng hoá vô hình được mua bán trên thị trường thông qua hoạt
động chuyển giao công nghệ.
Công nghệ gồm 4 thành phần cơ bản, tác động đồng bộ qua lại với nhau để
tạo ra bất kỳ một sự biến đổi mong muốn nào:
•Công cụ, máy móc thiết bị, vật liệu.
•Thông tin, phương pháp, quy trình, bí quyết.
•Tổ chức, thể hiện trong thiết kế tổ chức, liên kết, phối hợp, quản lý các bộ
phận trong hệ thống.
•Con người được đào tạo chuyên môn, có kinh nghiệm và kỹ năng kỹ xảo
nghề nghiệp.
Bộ phận đầu được coi là “phần cứng”, ba bộ phận sau được gọi là “phần
mềm” của công nghệ.
1.1.2.Phân loại công nghệ
*Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ chia làm 3 loại công nghệ
chính:

• Công nghệ cao.
•Công nghệ thường.
•Công nghệ thấp.
Những tiêu chí đối với một công nghệ cao (CNC) là:
→ Tiêu hao một lượng lớn về chi phí (R&D) công nghệ.
→Áp dụng những giải pháp hoặc kiến thức khoa học mới nhất, sử dụng
nhiều phát minh sáng chế mới.
→ Trình độ tự động hoá cao.
→Vận dụng phức hợp nhiều giải pháp công nghệ.


5

→Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghệ khác.
Tuy nhiên, khái niệm CNC chỉ có ý nghĩa tương đối, khái niệm này biến đổi theo
thời gian, và được hiểu không giống nhau ở các nước có trình độ công nghệ khác
nhau.
*Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ : Chia ra
làm 3 loại công nghệ chính là:
- Công nghệ có hàm lượng lao động cao (Labour intensive): may mặc, dệt,
lắp ráp.
- Công nghệ có hàm lượng vốn cao (Capital intensive): đóng tàu cơ khí, khai
khoáng.
- Công nghệ có hàm lượng tri thức cao (Knowledge intensive): phần mềm,
công nghệ sinh học…
1.1.3.Xu hướng phát triển công nghệ thế giới hiện nay
Hiện nay, trên thế giới theo OECD, những ngành mũi nhọn CNC đang được
phát triển mạnh mẽ ở những nước công nghiệp như Mỹ, Nhật, EU và đặc biệt các
nước công nghiệp mới (NICs) ở châu Á; đó là những ngành công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong

chế tạo máy, tự động hoá, năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ,… Đây là
những ngành thể hiện những xu thế phát triển chủ yếu hiện nay của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ thế giới. Nhờ những thành tựu to lớn của KH&CN, đặc biệt là
công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v...,
xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang
thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế
dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá
trình CNH-HĐH.
Cuộc cách mạng KH&CN trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày
càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo
trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Khoa học
và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của
mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực KH&CN. Lợi thế về nguồn tài
nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của


6

nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa
quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế . Tổ chức hoạt động khoa học tính
sáng tạo sẽ là nền tảng của sự phát triển thịnh vượng và giàu có của mỗi quốc gia và
xã hội.
Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày
càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các
công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và KH&CN,
các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các
công nghệ tiên tiến. Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều
chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có
hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao

những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước
đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực
KH&CN trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất
là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng cách phát triển.
1.2.Nội dung và hình thức của chuyển giao công nghệ
1.2.1.Khái niệm chuyển giao công nghệ (CGCN)
CGCN là hoạt động nhằm đưa công nghệ tiên tiến, công nghệ hiện đại vào
sản xuất thông qua việc áp dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất hoặc có
thể là áp dụng một công nghệ đã hoàn thiện từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp
khác.
Thực chất của CGCN là sự mua bán công nghệ và là quá trình đào tạo, huấn
luyện để sử dụng công nghệ được tiếp nhận.
Theo pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ quốc hội ban hành ngày 10/12/1988
những hoạt động được coi là CGCN:
•Chuyển giao quyền sở hữu sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc các đối
tượng sở hữu công nghiệp khác.
•Chuyển giao các bí quyết hoặc tiêu thức kỹ thuật, chuyên môn dưới dạng
phương án công nghệ.


7

•Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tư vấn công nghệ, kể cả đào tạo và thông tin
sau khi chuyển giao.
Trong nền kinh tế thị trường, công nghệ luôn được coi là hàng hoá, mà đã là
hàng hoá thì tất yếu sẽ có mua và bán, trao đổi và có thị trường tiêu thụ hàng hoá
đó. Việc mua và bán đó được gọi chung bằng thuật ngữ CGCN, như vậy 4 yếu tố
cấu thành CGCN chính là máy móc (machine), thị trường (market), quản lý
(management), tiền (money) gọi tắt là 4 M. CGCN được hiểu đơn giản là mang kiến
thức kỹ thuật vượt qua một giới hạn trong hay ngoài nước. Thực ra CGCN là việc

tiếp nhận công nghệ nước ngoài và là quá trình vật lý, trí tuệ, một quá trình đi tìm
kiếm với việc huấn luyện toàn diện của một bên về sự hiểu biết học hỏi của một bên
khác.
Bên bán là:” bên giao công nghệ” là một bên gồm một hay nhiều tổ chức
kinh tế, khoa học, công nghệ và tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân ở nước
ngoài có công nghệ chuyển giao vào nước khác. Do xuất phát từ nhu cầu đổi mới và
cải tiến công nghệ của các nước chủ công nghệ, các nước thường xuyên chuyển
giao công nghệ và thiết bị đã bắt đầu bão hoà trên thị trường chứ không phải chuyển
giao công nghệ mới nhất.
“Bên nhận công nghệ” là một hay nhiều tổ chức kinh tế, khoa học, công nghệ
khác nhau có tư cách pháp nhân hay cá nhân tiếp nhận công nghệ. Bên mua công
nghệ phải có thông tin, có hiểu biết, có nghiệp vụ kỹ năng cần thiết, mặt khác cũng
cần định hướng, hỗ trợ của các cấp quản lý và sự phối hợp của các doanh nghiệp
cùng ngành nghề. Trong xu thế thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như
vũ bão, công nghệ liên tục được cải tiến và đổi mới. Do đó, CGCN góp vốn bằng
công nghệ thực chất là một cuộc mua bán, xuất nhập hàng hoá đặc biệt, có những
yếu tố lượng hoá được, có những yếu tố không thể lượng hoá được, có những ảnh
hưởng trực tiếp của tương lai. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, hai bên “mua” và
“bán” công nghệ bị ràng buộc lẫn nhau bằng hợp đồng CGCN. Trong hợp đồng
CGCN, việc xác định giá cả và phương thức thanh toán hết sức quan trọng. Cần
được xem xét và tiếp nhận một cách có hệ thống. Việc nhận dạng đánh giá và phân
tích công nghệ phải được đặt trong tổng thể: Phân tích thị trường, phân tích tài
chính và kinh tế của dự án. Chỉ có như vậy mới đánh giá được công nghệ một cách
hợp lý, bảo đảm tính cạnh tranh và lợi nhuận cho dự án.


8

1.2.2.Nội dung của CGCN và quá trình CGCN
CGCN bao gồm 5 nội dung sau:

Chuyển giao phần cứng sản xuất: bao hàm toàn bộ kiến thức được dùng
trong sản xuất, thông thường gồm các vật liệu, sản phẩm hay máy móc thiết bị.
Chuyển giao phần cứng tổ chức: gồm các thiết bị và phương tiện được dùng
trong các hoạt động phi sản xuất ở trong và ngoài xí nghiệp.
Chuyển giao tài liệu sản xuất: thường gồm 4 loại là: Patent, các bí quyết
thiết kế, kế hoạch, các cẩm nang vận hành, các tiêu chuẩn sản xuất.
Chuyển giao tài liệu tổ chức: đó là tài liệu dùng cho quản lý, bao gồm các
điều luật để vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng, quản lý nhân sự, kiểm soát tài
chính.
Chuyển giao các kỹ năng sản xuất: chính là chuyển giao các phần mềm sản
xuất. Phần mềm sản xuất là các kinh nghiệm và kỹ năng được tích luỹ và sử dụng
trong quy trình sản xuất đó.
Quá trình tổ chức thực hiện CGCN của một doanh nghiệp được tiến hành
theo nội dung và trình tự chủ yếu sau:
Bước 1: Chuẩn bị chuyển giao công nghệ
Đây là giai đoạn tiến hành các công việc để chính xác hoá và cụ thể hoá vấn
đề lựa chọn công nghệ dự định sẽ chuyển giao. Đàm phán, xây dựng và ký kết hợp
đồng CGCN là nội dung quan trọng của chuẩn bị CGCN. Mặc dù trong từng loại
hợp đồng có các điều khoản được quy định chi tiết cụ thể khác nhau, nhưng nội
dung cơ bản của hợp đồng bao gồm các khoản sau:
+ Tên, địa chỉ bên giao bên nhận: tên, chức vụ người đại diện ký hợp đồng.
+ Những khái niệm được sử dụng trong hợp đồng mà 2 bên thoả thuận.
+ Đối tượng được chuyển giao công nghệ.
+ Giá cả, điều kiện và phương thức thanh toán.
+ Thời gian, tiến độ và địa điểm cung ứng công nghệ.


9

+ Những cam kết của bên giao và bên nhận công nghệ về chất lượng công

nghệ, độ tin cậy, thời gian bảo hành, phạm vi và bí mật công nghệ.
+ Chương trình đào tạo kỹ thuật và quản lý vận hành công nghệ.
+ Thời gian có hiệu lực của hợp đồng và các điều kiện liên quan đến việc 2
bên mong muốn sửa đổi thời hạn hoặc kết thúc hợp đồng.
+ Các vấn đề liên quan đến các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng.
Bước 2: Chuẩn y hợp đồng CGCN: hợp đồng CGCN của chủ đầu tư được
cấp có thẩm quyền trong hệ thống quản lý công nghiệp chuẩn y.
Bước 3: Thực hiện hợp đồng CGCN.
Bước 4: Phát triển các hoạt động tư vấn, dịch vụ CGCN. Đây là chất xúc tác,
hỗ trợ cho các bên mua và bên bán tìm đến nhau một cách thuận lợi nhất để ký kết
hợp đồng.[1] Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp,nxb Đại học kinh tế
Quốc dân, 5/2007.
Các công nghệ được khuyến khích chuyển giao là công nghệ cao, công nghệ
tiên tiến (như đã định nghĩa ở trên) đáp ứng một trong các yêu cầu sau đây:
• Tạo ra sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao
• Tạo ra ngành Công nghiệp, Dịch vụ mới
• Tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu
• Sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo
• Bảo vệ sức khoẻ con người
• Phòng chống thiên tai dịch bệnh
• Sản xuất sạch, thân thiện với môi trường
• Phát triển ngành nghề truyền thống.[2] Luật Chuyển giao công nghệ số
80/2006/QH11 ngày 29/11/2006.
1.2.3. Các hình thức của CGCN
Chuyển giao công nghệ được thực hiện dưới các hình thức sau:


10

• CGCN có kèm theo hợp đồng licences: Người sở hữu chuyển giao công

nghệ bằng cách nhượng lại cho người khác sử dụng quyền sở hữu công nghiệp
(sáng chế được cấp bằng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng
hoá).
• CGCN không kèm theo hợp đồng licences.
• CGCN có kèm theo đầu tư tư bản: Các nước tư bản phát triển, hoặc các
nước đang phát triển sẽ chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển thông
qua đầu tư trực tiếp. Nó được thực hiện thông qua:
+ Các công ty đa quốc gia đặt chi nhánh tại các nước đang phát triển.
+ Lập xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, xây dựng xí nghiệp vốn nước
ngoài 100%.
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng (nước chuyển giao công nghệ
máy móc thiết bị cho nước sản xuất sản phẩm sử dụng).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức có hiệu quả đối với cả bên bán và
bên mua (bên nhận) công nghệ. Đối với bên bán công nghệ, đầu tư trực tiếp sẽ thu
được khoản lợi nhuận bằng cách tận dụng công nghệ không còn khả năng cạnh
tranh ở trong nước, mở ra cơ hội thâm nhập vào các thị trường có hàng rào bảo hộ.
Đối với nước mua công nghệ, đầu tư trực tiếp sẽ vừa thu hút được vốn đầu tư, vừa
có công nghệ tiên tiến, vừa dựa vào công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty
xuyên quốc gia, để mở rộng thị trường nhận được sự bảo trợ của công ty nước
ngoài.
• CGCN qua các hình thức: hội thảo khoa học, trao đổi thông tin, hoạt động
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài…
Bên cạnh đó ta còn có các luồng CGCN:
•CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam: đây là con đường ngắn nhất để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và là hoạt động đổi mới công nghệ chủ yếu của các DN Việt
Nam.
•CGCN tại Việt Nam: hoạt động này vẫn đang diễn ra nhưng còn nhiều hạn
chế.



11

•CGCN từ VN ra nước ngoài: do trình độ công nghệ của VN còn lạc hậu so
với các nước trên thế giới nên hoạt động này gần như là không diễn ra ở nước ta.
Kết hợp du nhập công nghệ nước ngoài và công nghệ nội sinh là con đường
ngắn nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. CGCN từ nước ngoài vào trong nước và
phát triển công nghệ nội sinh có tác động qua lại hữu cơ với nhau. Công nghệ nhập
ngoại sẽ có vai trò thúc đẩy và dẫn dắt hỗ trợ phát triển công nghệ nội sinh. Công
nghệ nội sinh có vai trò làm tăng năng lực hấp thụ công nghệ nước ngoài, sử dụng
công nghệ đó đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên cả 2 nguồn công nghệ ngoại nhập và
nội sinh chỉ thực sự đem lại hiệu quả nếu như chúng ta có một sự bố trí kết hợp khai
thác 2 nguồn công nghệ này một cách thích hợp. Nếu không, 2 nguồn công nghệ
này sẽ không thể thúc đẩy nhau phát triển thậm chí triệt tiêu lẫn nhau theo chiều
hướng tiêu cực.
Có 2 kênh (nguồn) chuyển giao công nghệ là:
Chuyển giao dọc là hình thức chuyển giao từ nghiên cứu sang sản xuất.
Hình thức chuyển giao này có thể mang đến cho người sản xuất một công nghệ
hoàn toàn mới nhưng độ rủi ro, mạo hiểm cao.
Chuyển giao ngang là hình thức chuyển giao những công nghệ đã được hoàn
thiện từ nước này sang nước khác, từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác.
Hình thức chuyển giao này tuy không mạo hiểm và có độ tin cậy cao, nhưng bên
nhận công nghệ thường phải chấp nhận công nghệ dưới tầm.
1.3.Vai trò hoạt động chuyển giao công nghệ
1.3.1. Tính tất yếu của hoạt động CGCN
Chuyển giao công nghệ là con đường tất yếu để không ngừng đổi mới, nâng
cao trình độ lực lượng sản xuất. Trong thời đại ngày nay, KH-CN đang phát triển
với một tốc độ như vũ bão, là động lực trực tiếp thúc đẩy lực lượng sản xuất mỗi
quốc gia phát triển. Chính sự phát triển kỳ diệu của cuộc Cách mạng KH-CN hiện
đại đang tác động sâu sắc đến mọi mặt kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát
triển ở mỗi quốc gia dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển cũng như chậm

phát triển không thể nằm ngoài xu thế phát triển của KH-CN. Mỗi một trình độ KHCN nhất định tạo ra một nền sản xuất tương ứng, song cái đích phát triển của mỗi
quốc gia đều hướng tới sự giàu có phồn vinh, không ngừng nâng cao trình độ KH-


12

CN của nước mình. Tuy nhiên luôn có sự chênh lệch về trình độ KH-CN giữa các
quốc gia bởi quy luật phát triển không đều tạo ra. Vì vậy dù là nước tư bản phát
triển hay các nước đang và chậm phát triển đều phải học hỏi tiếp thu công nghệ của
nước ngoài thông qua con đường CGCN để rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa
học công nghệ của nước mình so với các nước khác, cũng như phát huy triệt để lợi
thế của người đi sau.
CGCN là con đường tất yếu để mỗi quốc gia giải quyết tốt các vấn đề khoa
học nằm ngoài khả năng của mình. Do nhu cầu thực tế sản xuất đặt ra, cũng như các
vấn đề có liên quan đến đời sống hàng ngày của mỗi dân tộc mỗi quốc gia đang gặp
phải vô cùng rộng lớn, mà bản thân nền khoa học và công nghệ của các quốc gia
riêng rẽ không có thể tự mình giải quyết mọi vấn đề đó, do vậy việc hợp tác trong
nghiên cứu khoa học, cũng như CGCN giữa các quốc gia là tất yếu.
CGCN là cần thiết để mỗi quốc gia phát huy triệt để lợi thế so sánh tương
đối của mình. Ngày nay khi mà mỗi quốc gia đã ý thức được rằng, nguồn tài nguyên
của mỗi quốc gia là có hạn, cũng như mỗi nước chỉ có những lợi thế so sánh tương
đối trong sản xuất một số lĩnh vực cụ thể, do vậy họ luôn luôn tìm tòi con đường
KH-CN tiên tiến và hợp lý nhất để khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
của quốc gia mình, cũng như tăng tính cạnh tranh về lợi thế so sánh tương đối của
mình, trong đó con đường CGCN từ nước ngoài luôn được các quốc gia cân nhắc
tới.
CGCN là con đường cần thiết để các công ty tăng năng lực cạnh tranh, đồng
thời tránh hàng rào bảo hộ kỹ thuật ngày càng tinh vi trên các thị trường. Cùng với
xu hướng phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, thì sự cạnh tranh giữa các
tập đoàn, các công ty diễn ra ngày càng khốc liệt, cũng như sự bảo hộ của các thị

trường dân tộc và khu vực ngày càng tinh vi hơn. Đứng trước xu thế đó, các công
ty, các tập đoàn, các quốc gia phải tính đến khả năng đầu tư nước ngoài và CGCN.
Đối với các nước đang và chậm phát triển thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
CGCN từ nước ngoài sẽ giúp họ nâng cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh
của hãng, và việc đầu tư cho nghiên cứu phát triển KH-CN,ứng dụng những thành
tựu trong lĩnh vực này vào sản xuất sẽ giúp họ phát huy được năng lực nội sinh của
quốc gia mình, giảm được sự phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển. Với các
nước phát triển, các công ty, các tập đoàn họ luôn xác định rằng việc khai thác các
thị trường tiềm năng ở nước ngoài bằng cách chuyển các kỹ thuật cơ bản, bí quyết


13

chế tạo và thiết bị sản xuất ra nước ngoài, và tiến hành sản xuất ngay tại nước nhận
CGCN với mức giá thành rẻ do tận dụng được chi phí nhân công và nguyên vật liệu
rẻ song tạo ra hàng hoá có chất lượng cao hơn hẳn các sản phẩm bản địa, giúp họ
vừa có thể cạnh tranh với hàng hoá của nước bản địa, vừa tránh được hàng rào bảo
hộ của nước bản địa. Việc di chuyển các cơ sở sản xuất cũng như CGCN ra nước
ngoài, chính là việc tạo nguồn hàng xuất khẩu sang nước thứ 3, cạnh tranh với hàng
hoá của đối thủ khác trên thị trường các nước thứ 3, cũng như ngay trên thị trường
tại khu vực mà tập đoàn tiến hành CGCN và sản xuất. Sự kết hợp giữa tính ưu việt
về công nghệ cao của các nước phát triển với lợi thế so sánh về giá thành các yếu tố
sản xuất do việc sản xuất ở nước ngoài và sự quản lý chặt chẽ hiệu quả của các công
ty tập đoàn đã đem lại cho hàng hoá của các công ty một sức cạnh tranh cao trên thị
trường.
Qua các cách nhìn nhận khác nhau về CGCN, chúng ta đã thấy được tính tất
yếu của CGCN trong thời đại ngày nay. Một khi mà sự chênh lệch về trình độ công
nghệ và mức sống giữa các quốc gia, các khu vực khác nhau trên thế giới còn tồn tại
thì CGCN còn tồn tại.
1.3.2.Vai trò của CGCN với nền kinh tế và doanh nghiệp

Năng lực công nghệ của mỗi công ty, mỗi quốc gia không tự nhiên mà có,
mà là quá trình tích luỹ sàng lọc và không ngừng đào thải. Thật vậy, đối với bất kỳ
một doanh nghiệp nào, thì công nghệ luôn là đối tượng nghiên cứu phân tích để lý
giải những thành bại của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, luôn là yếu tố
quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường của mỗi doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển,CGCN sẽ mang lại cho
các nước này những lợi ích cơ bản như:
- Thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kèm theo chuyển giao công
nghệ.
- Tiết kiệm được chi phí lớn về R & D
- Tiếp cận và sử dụng được ngay những công nghệ tiên tiến hơn những công
nghệ đang hiện có.
- Khai thác và sử dụng hữu hiệu nguyên vật liệu trong nước.


14

- Tạo công ăn việc làm chongười lao động có trình độ cao.
- Thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ.
Trong đó CGCN quốc tế là cơ hội quý hiếm không những giúp cho các nước
phát triển không ngừng cách tân để tạo cho mình công nghệ tiên tiến nhất, mà nó
còn giúp cho các nước đang và chậm phát triển có được công nghệ cần thiết mà tiết
kiệm được chi phí và thời gian. CGCN quốc tế đã và đang tạo cho các nước đang và
chậm phát triển những lợi thế cạnh tranh tương đối bền vững trong một khoảng thời
gian nhất định trên thị trường thế giới về một số sản phẩm đặc trưng của mình (theo
lợi thế so sánh) trên cơ sở đó có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao
và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Cho dù trình độ công nghệ của các
nước đangvà chậm phát triển chỉ đang ở giai đoạn đầu CNH-HĐH thấp hơn nhiều
so với các nước công nghiệp phát triển nhưng nếu có chính sách nhập khẩu công
nghệ “thích hợp”, khai thác triệt để lợi thế “của kẻ đi sau”, tích cực tham gia vào

phân công lao động quốc tế cũng như có chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng,
đào tạo giáo dục, nghiên cứu và triển khai, thì chắc chắn dần dần sẽ khắc phục được
“nguy cơ tụt hậu” về công nghệ so với các nước công nghiệp phát triển.


15

Phần II/ Thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
2.1. Thực trạng nền KH-CN ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng công nghệ VN hiện nay
Theo Tổng cục Thống kê năm 2003, chỉ có 8% số doanh nghiệp ở Việt Nam
có công nghệ tiên tiến, 75% có công nghệ trung bình và lạc hậu. Còn theo số liệu
của Bộ KH-CN qua khảo sát nhiều doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết
bị dây chuyền của VN lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, mức độ hao mòn hữu
hình từ 30%-50%, thậm chí 38% số nhà máy ở dạng thanh lý, 52% đã qua bảo
dưỡng sửa chữa.[3]Việtbáo.vn – 2004.
Còn theo chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2008-2009, Việt Nam xếp thứ
70/134 quốc gia. Mức độ sẵn sàng về công nghệ chỉ được 3,1 điểm trên thang điểm
7. Mức hấp thụ công nghệ của công ty xếp hạng 54, đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ xếp thứ 57.[4] Chinhphu.vn .
Thông tin từ Bộ Khoa học và công nghệ cho biết: Phần lớn các doanh nghiệp
nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế
hệ. 80-90% công nghệ nước ta sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc,
dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960-1970, 75% số thiết bị đã hết khấu
hao, 50% là đồ tân trang. Tính chung cho các DN, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có
10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực
sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các DN
Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức rất thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0,20,3% doanh thu. Con số này ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Đánh giá của Bộ
Khoa học và Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là “loại năng lực yếu nhất”
của các DN Việt Nam. Điều đó có thể nhận thấy ngay được là phần lớn công nghệ

của ta tụt hậu ngay từ đầu, từ lúc mua sắm dây chuyền “thiết bị mới”. Nguyên nhân
chủ yếu là do thiếu thông tin nên không biết công nghệ nào là tiên tiến. Chẳng hạn:
Tổng tiêu hao năng lượng để sản xuất 1 tấn NH3 của nhà máy phân đạm Bắc Giang
lên tới 61,94 GJ (đơn vị tính về tiêu hao năng lượng), trong khi một nhà máy khác
của công ty hoá chất sử dụng than chỉ tốn từ 42,79 đến 43,86 GJ. Chi phí điện của
nhà máy xi măng Bỉm Sơn lên tới 6,16 USD/tấn, Hoàng Thạch là 3,87USD/tấn,
trong khi một DN có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ tốn 3,4USD/tấn, còn ở
Thái lan chỉ là 2,49USD/tấn. Năng suất lao động của công ty dệt Phước Long chỉ


16

đạt 10.390m vải/1 lao động/năm, trong khi một doanh nghiệp với dây chuyền sản
xuất mới và hiệu quả nhất VN đạt 36.230m/lao động/năm thì vẫn còn thua xa mức
bình quân ở Australia là 48.000m vải/lao động/năm. Hiện nay trong đầu tư các DN
chỉ chú ý đến thiết bị mà quên rằng công nghệ hàm chứa cả 4 yếu tố là: thiết bị, con
người, thông tin và thiết chế. 4 yếu tố này có đồng bộ thì mới phát huy được tác
dụng của công nghệ. Còn nếu chỉ chú trọng đến thiết bị thôi thì chưa thể coi là đổi
mới công nghệ được. Thiết bị chỉ đem cho DN từ 40-50% năng lực sản xuất. Vì
không thấy được các yếu tố phần mềm của công nghệ (thông tin, con người, thiết
chế) cho nên các DN rất coi nhẹ chuyển giao công nghệ. Hiện tại có tới 95%
chuyển giao là do các công ty mẹ ở nước ngoài chuyển cho các công ty con đầu tư ở
Việt Nam. Các DN rất ít thuê chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. Đây chính là một cản
trở rất lớn cho sự phát triển. Hiện nay đa số các DN Việt Nam có quy mô vừa và
nhỏ, năng lực tài chính có hạn. Việc tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn rất khó
khăn vì phải thế chấp nhà và đất mà nói chung là họ không có, cho nên họ không
dám mơ tưởng đến “đổi mới công nghệ”. Ngoài ra thị trường công nghệ VN còn
nhiều bất cập, 70% ý kiến các DN cho rằng luật lệ mua bán công nghệ không rõ
ràng, nghiêm minh; 57,7% ý kiến khác cho biết: các DN không muốn mua tri thức
công nghệ trong nước do chất lượng không đảm bảo, chi phí chuyển giao cao, công

nghệ không ổn định.[5] website bộ tài chính 28/09/2005, DN với vấn đề đổi mới
công nghệ.
Qua số liệu trên đã giúp ta phần nào thấy được thực trạng của công nghệ VN
hiện nay. Về toàn cảnh công nghệ VN có thể khái quát như sau :”Công nghệ Việt
Nam ở mức trung bình kém, cố gắng đến 2010 đạt trình độ Trung Bình tiên tiến
trong khu vực”.
Tại Hội thảo quốc tế “thực trạng, giải pháp và kinh nghiệm quốc tế trong phát
triển thị trường công nghệ để hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của VN” ngày
24/04/2009, ông Hồ Sỹ Dũng đại diện Cục phát triển doanh nghiệp cho biết: Doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp nhưng hầu hết sử dụng
công nghệ lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với thế giới, đa số công nghệ là vào những năm
80 của thế kỷ trước. Do công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất ở VN rất thấp, mức
hao phí năng lượng nguyên vật liệu trên 1 đơn vị sản phẩm ở mức cao, từ đó làm
hạn chế tính cạnh tranh của hàng hoá VN, từ đó sẽ gây ra phản ứng dây chuyền đó
là nền kinh tế chỉ có thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng trung bình, thậm


17

chí thấp, giá thành cao và sản phẩm sản xuất ra không theo kịp thay đổi về nhu cầu
thị trường.
Bên cạnh đó việc CGCN và nhập máy móc thiết bị cũ, lạc hậu vào VN đã gây
tác động xấu tới môi trường và sức khoẻ người lao động cũng như người dân. Máy
móc không hiện đại, không sử dụng công nghệ sạch đã gây nên lượng chất thải rất
lớn. Một thí dụ điển hình là tại các nhà máy chế biến thuỷ sản ở Hải Phòng, Nha
Trang, TP.HCM,… do khí Freon và NH3 từ hệ thống máy cấp đông và, kho đông
lạnh, xe phát lạnh bị rò rỉ kết hợp với khí CO, SO2 bốc lên từ các bể dầu để chế
biến các sản
phẩm đông lạnh đã gây ô nhiễm không khí ở mức rất cao. Chính yếu tố công
nghệ lạc hậu đã tác động trực tiếp tới môi trường xung quanh và đặc biệt hơn là nó

đã gây tác động xấu tới sức khoẻ của người lao động . Ô nhiễm hơi độc phóng xạ
tăng lên hàng năm với mức 2 con số, ở các công ty liên doanh mức độ độc hại còn
cao hơn nhiều, số người mắc bệnh nghề nghiệp tăng vọt từ năm này qua năm khác,
đây là kết quả đáng phải cảnh báo. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay chúng ta có
hơn 200.000 doanh nghiệp với hơn 10 triệu người lao động hoạt động sản xuất
trong lĩnh vực công nghiệp. Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp,
ngành nghề sản xuất mà phần nhiều có công nghệ chắp vá, nhà xưởng chật chội
cộng với việc phân bố các cơ sở sản xuất thiếu quy hoạch đã đặt ra nhiều vấn đề
phức tạp, đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ gây tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp cho người lao động. Để chạy đua tranh giành thị phần với giá thành rẻ, một
số doanh nghiệp đã sử dụng các nguyên liệu, nhiên liệu bẩn với các công nghệ sản
xuất lạc hậu càng làm cho môi trường và điều kiện làm việc của người lao động
thêm nghiêm trọng. Tính đến năm 2008 ở VN đã có 24.175 người lao động được
xác định là mắc các bệnh nghề nghiệp ( chiếm 23,27% trong tổng số người lao động
được khám ), gần 30% người lao động mắc các bệnh về đường hô hấp, mắt, cơ,
xương-khớp, tai, tim mạch, phụ khoa,…[6] VOVNEWS.VN ngày 22/07/2009
2.1.2. Tiềm lực KH-CN của VN hiện nay
Nhìn chung KH&CN nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách
khá xa so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động
lực phát triển kinh tế-xã hội. Năng lực KH-CN còn nhiều yếu kém:


18

Đội ngũ cán bộ KH&CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các "tổng công trình
sư", đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực
KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý. Về đội ngũ nhân lực
cho KH-CN không phải là ít song chưa mạnh, lại có những nhược điểm cơ bản.
Theo đánh giá của Uỷ ban KH-CN và Môi trường Quốc hội, năng lực KH-CN quốc
gia còn thấp,quy mô nhỏ hẹp. Điều tra tiềm lực của KH-CN của Bộ KH- CN cho

thấy tuổi đời của cán bộ khoa học khá cao, hầu hết là giáo sư và phó giáo sư gần 60
tuổi, số dưới 50 tuổi chỉ chiếm 12%. Số lượng Tiến sĩ là hơn 10.000 người nhưng
trình độ so với chuẩn quốc tế rất thấp, chỉ có khoảng 25% cán bộ khoa học sử dụng
thành thạo Tiếng anh, chúng ta đặc biệt thiếu các chuyên gia và các Tổng công trình
sư.[7] Báo công nghệ, ngày 24/10/2009
Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực
doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung
còn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng
ngành. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư vấn chuyển giao công
nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng còn yếu kém cả về cơ
sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực
và quốc tế. Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục - đào tạo
và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách
rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động KH&CN: tỷ lệ cán bộ nghiên cứu KH&CN
trong dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết
quả nghiên cứu - phát triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít Nhìn chung, năng lực
KH&CN nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực
tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng
tính hành chính:


19

Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào,
chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết

quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ KH&CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên
cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao động
sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức
KH&CN chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp
tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo.
Việc quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt
động KH&CN, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế
đảm bảo để cán bộ KH&CN được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự
chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu
tạo động lực đối với cán bộ KH&CN và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế
độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ KH&CN toàn tâm
với sự nghiệp KH&CN.
Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà
khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế
tự chủ về tài chính của các tổ chức KH&CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân
lực nên hiệu quả còn hạn chế. Trước hết, đó là do đầu tư cho lĩnh vực này của nhà
nước còn thấp (2% tổng chi ngân sách, khoảng 0,5 - 0,6% GDP), tỷ trọng đầu tư
của doanh nghiệp còn ít, chưa đến 0,1% GDP. Bởi hầu hết doanh nghiệp đều là các
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, ban đầu phải lo tồn tại trong thương trường, chưa có
điều kiện đầu tư cho KH&CN. Các doanh nghiệp lớn chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước thì đầu tư cho lĩnh vực này rất thấp, thậm chí thấp hơn tư nhân. Hãy so sánh:
đầu tư cho KH&CN trên đầu người Việt Nam năm 2007 là khoảng 5 USD, ở Hàn
Quốc là khoảng 1000 USD, còn ở Trung Quốc năm 2004 là khoảng 20 USD. Tỷ lệ
đầu tư của Trung Quốc cho KH&CN từ ngân sách Nhà nước so với khu vực ngoài
Nhà nước khoảng 1 : 3, còn VN thì ngược lại khoảng 5 : 1 1.Thị trường KH&CN
chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu
KH&CN còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định
pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. Tóm

1

(Chỉ có khoa học và công nghệ mới đưa Việt Nam bứt phá-VnExpress,26/05/2008)


20

lại, công tác quản lý nhà nước về KH&CN còn chưa đổi mới kịp so với yêu cầu
chuyển sang kinh tế thị trường.
2.1.3. Mục tiêu khoa học công nghệ chủ yếu giai đoạn 2006-2010
1. Nâng cao tiềm lực KH-CN của đất nước đạt trình độ Trung bình tiên tiến
trong khu vực vào năm 2010. Tăng hàm lượng KH-CN trong các sản phẩm mang
thương hiệu VN, tạo chuyển biến cơ bản về năng suất, chất lượng và hiệu quả ở một
số ngành kinh tế quan trọng.
2. Cung cấp đầy đủ và kịp thời các luận cứ khoa học cho quá trình CNHHĐH đất nước, phục vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
3. Nâng cao trình độ, chất lượng và hiệu quả của các công trình nghiên cứu
trong nước, tăng số lượng công trình khoa học đạt trình độ quốc tế tương đương với
các nước trung bình tiên tiến trong khu vực.
4. Tập trung phát triển công nghệ cơ bản và công nghệ sản phẩm phục vụ
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm chủ yếu. Bố trí 50% nhiệm vụ
của các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước được ứng
dụng và phục vụ trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh. Các nhiệm vụ còn lại phục vụ
nâng cao năng lực lựa chọn, tiếp thu, làm chủ và cải tiến các công nghệ sẽ được ứng
dụng cho giai đoạn sau năm 2010. Phát triển thị trường công nghệ, bảo đảm giá trị
giao dịch mua bán công nghệ đạt mức tăng trưởng bình quân 10%/năm.
5. Có bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc ứng dụng và phát triển công
nghệ cao, kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới phục vụ trực tiếp cho việc triển khai
thực hiện chiến lược ứng dụng và phát triển công nghệ cao và hình thành một số
ngành công nghiệp công nghệ cao. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng để sớm đưa vào vận

hành Khu công nghệ cao Hoà Lạc. Tăng cường thu hút đầu tư và hoạt động nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ cao, hoàn thành việc xây dựng Khu công
nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2010.
6. Hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trình độ cao, đủ sức tổ
chức nghiên cứu và giải quyết những nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm
quốc gia ở trình độ quốc tế; vận hành có hiệu quả một số phòng thí nghiệm trọng
điểm quốc gia. Xây dựng khoảng 100 nhóm nghiên cứu, tìm kiếm bí quyết công


21

nghệ làm cơ sở để hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học và công
nghệ.[9]quyết định của Thủ tướng Chính phủ, số 67/2006/QĐ-TTg.
2.2. Thực trạng hoạt động CGCN ở VN thời gian qua:
2.2.1. Thành tựu
Sau khi Đảng và Nhà nước khởi xướng công cuộc đổi mới vào năm 1986, đất
nước ta đã trải qua những biến đổi sâu sắc. Nền kinh tế quốc dân dần dần ổn định và
duy trì tăng trưởng ở tốc độ cao. Cùng với đà tăng trưởng của nền kinh tế, trong
những năm qua tình hình nghiên cứu và phát triển công nghệ ở nước ta có những
bước tiến rõ nét, trong đó hoạt động CGCN có những đóng góp đáng kể vào sự phát
triển chung. Đặc biệt, hoạt động này đã góp phần đáng kể cho việc tăng năng lực
sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành trong các doanh nghiệp,
làm thay đổi cục diện của nền sản xuất theo hướng có lợi cho sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước.
Trong công nghiệp nhờ hoạt động CGCN , một mặt chúng ta đã rút ngắn
được tụt hậu về trình độ của một số ngành chủ chốt trong nền kinh tế so với các
nước, mặt khác chúng ta dần làm chủ công nghệ tiên tiến trong các ngành đó, tạo ra
một sức sống mới cho ngành công nghiệp Việt Nam. Những kết quả đó phải kể đến
thành công trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông điện tử, lắp ráp ôtô, xe
máy, công nghiệp chế biến thực phẩm, khai thác dầu khí,… Ngoài ra, hoạt động

CGCN từ nước ngoài vào VN chúng ta đã tạo ra được những ngành sản xuất hoàn
toàn mới như công nghiệp vật liệu mới, công nghệ tự động hoá chính xác cao.
Trong nông nghiệp, thông qua hoạt động CGCN là nhờ áp dụng những tiến
bộ KH-CN đó như công nghệ về lai tạo giống vật nuôi, phòng trừ sâu bệnh, thuỷ
lợi, công nghệ lúa lai và các giống lúa cao sản mới, kỹ thuật cấy mô… Việt Nam đã
đạt được bước nhảy vọt về tổng sản lương thực và năng suất cây trồng. Trong hơn
10 năm qua năng suất lúa bình quân đã tăng gấp hơn 2 lần, tương đương năng suất
của phần lớn các nước trong khu vực, từ đó đã đưa VN liên tiếp trở thành quốc gia
đứng ở vị trí thứ 2trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Hoạt động CGCN từ nước ngoài vào VN ngày nay đã đóng một vai trò không
thể thiếu được trong sự phát triển nền kinh tế nói chung và phát triển khoa học công
nghệ nói riêng. Hầu như mọi thành công của mỗi doanh nghiệp hay mỗi lĩnh vực


22

sản xuất đều không tách rời hoạt động CGCN dù ở mức độ trực tiếp hay gián tiếp,
dù ít hay nhiều. Trong những năm gần đây, hoạt động CGCN đang diễn ra mạnh mẽ
trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Do có được những điều kiện thuận lợi mà hoạt
động này ngày càng được phát triển và mở rộng hơn.
2.2.2. Những điều kiện thuận lợi mà VN có được:
Những điều kiện thuận lợi mà chúng ta có được bao gồm những điều kiện
sau:
• Thứ nhất, CGCN là hoạt động được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt ưu tiên
trong sách lược phát triển khoa học công nghệ trong công cuộc CNH-HĐH đất
nước.
• Thứ hai, VN là một trong các nước phát triển năng động nằm trong tâm
điểm phát triển của thế giới, chính vì lẽ đó mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
vào VN tương đối lớn và ổn định. Kéo theo đó là hàng loạt công nghệ sản xuất của
các chủ đầu tư nước ngoài được chuyển giao vào VN thông qua con đường CGCN

góp vốn của phía nước ngoài.
• Thứ ba, do lợi thế của người đi sau, Việt Nam sẽ có những bài học kinh
nghiệm vô cùng quý báu về CGCN từ những thành công hay những thất bại của các
nước đi trước. Vì thế chúng ta sẽ tạo cho mình những chính sách và giải pháp hợp
lý về hoạt động CGCN, không ngừng nâng cao hiệu quả CGCN và quan trọng hơn
là có thể nhanh chóng làm chủ được tiến bộ KH-CN trên thế giới tiến tới xây dựng
một nền khoa học công nghệ nội sinh phát triển.
• Thứ tư, xét về tinh thần dân tộc, Việt Nam là một quốc gia có lực lượng lao
động trẻ tương đối dồi dào. Hơn nữa đa số lực lượng lao động này đã và đang được
đào tạo cơ bản và ngày càng được hoàn thiện hơn theo sát yêu cầu thực tế về yêu
cầu phát triển của đất nước, cộng với những đức tính cần cù thông minh, sáng tạo
sẵn có của người Việt, chắc chắn rằng đây sẽ là một điều kiện vô cùng thuận lợi cho
việc thực hiện hoạt động CGCN và thúc đẩy tiến trình phát triển khoa học công
nghệ trong nước.
2.2.3. Những hạn chế, khó khăn và thách thức:
Mặc dù hoạt động CGCN ở Việt Nam đã đem lại một số thành tựu nhất định
cho việc phát triển kinh tế và khoa học công nghệ trong nước, song những thành tựu


23

của nó còn rất khiêm tốn. Phải nói rằng hoạt động CGCN ở VN chưa mang lại kết
quả mong muốn và còn tồn tại những hạn chế, khó khăn và thách thức sau:
Hoạt động CGCN chưa đáp ứng được mục tiêu chung về phát triển KT-XH
của đất nước. Cụ thể nó chưa thực sự tạo nên sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh
tế, chưa đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy một số ngành kinh tế trọng
điểm, ngành hàng phục vụ xuất khẩu mà chỉ dừng lại ở một vài lĩnh vực nhỏ hẹp
tách biệt độc lập.
Công nghệ tiên tiến chủ yếu được chuyển giao vào các doanh nghiệp có
100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh phía nước ngoài chiếm đa số

vốn, điều này chỉ làm tăng các nguồn lực công nghệ trên lãnh thổ VN, chứ không
làm tăng năng lực công nghệ của các công ty Việt Nam và các công dân Việt Nam.
Công nghệ được chuyển giao còn chắp vá, chưa đồng bộ, công nghệ chủ yếu
chỉ ở dạng trung bình so với các nước trong khu vực và hầu như không thể tái
chuyển giao.
Công nghệ chuyển giao cho các công ty Việt Nam chưa thực sự phù hợp với
điều kiện thực tế Việt Nam, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu, gây ô nhiễm môi trường
và tác hại xấu tới sức khỏe người lao động.
Giá của công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam thường
cao hơn rất nhiều so với giá trị thực có của công nghệ, và đã gây thua thiệt cho phía
Việt Nam không nhỏ. Trong hoạt động này, phía nước ngoài chưa có vai trò thực sự
trong việc thúc đẩy hoạt động R&D, ứng dụng và phát triển công nghệ nội sinh,
cũng nhưtạo ra một số lĩnh vực công nghệ mũi nhọn trong nước.
Trong nhiều trường hợp, hoạt động CGCN từ nước ngoài vào VN thường bị
đồng nhất với việc nhậpkhẩu máy móc, thiết bị mà không tính đến yếu tố phần mềm
kèm theo như vấn đề đào tạo, bí quyết sản xuất, nghiên cứu thị trường. Điều này
làm cho công nghệ được chuyển giao không phát huy được tác dụng vốn có, thậm
chí gây tốn kém cho phía VN vềchi phí chuyển giao, chi phí loại bỏ công nghệ đang
có.
Theo điều tra và thống kê thì các thất bại của các doanh nghiệp VN thường
gặp phải là do 5 nguyên nhân sau: • Không hình thành được kế hoạch bài bản
• Thiếu phân tích tình hình


24

• Thiếu khả năng quản lý dự án
•Thiếu khả năng đàm phán, soạn thảo hợp đồng CGCN.
Doanh nghiệp không đủ kỹ năng để thẩm định thiết bị công nghệ khi được
chuyển giao, nên máy móc nhận về gặp bệnh, hư hỏng hay không sử dụng được là

chuyện thường ngày. Hợp đồng sơ hở cũng là lỗi mà nhiều doanh nghiệp mắc phải
khi soạn thảo và đàm phán. Nhiều doanh nghiệp ký hợp đồng CGCN nhưng lại
không có điều khoản quy định rõ ràng về đào tạo trợ giúp kỹ thuật nên dễ bị vấp khi
công nghệ gặp trục trặc kỹ thuật. Những cái thiếu khác như sự hỗ trợ từ phía đối
tác, sự chủ động trong thị trường, nguồn nhân lực có tay nghề được đào tạo, có kỹ
năng quản lý,… cũng trở thành yếu tố làm cho doanh nghiệp VN bị hẫng hụt khi
thực hiện hợp đồng CGCN2.
Theo cẩm nang CGCN của trung tâm CGCN châu Á-Thái Bình Dương
( APCTT) cho thấy, các công ty vừa và nhỏ thích hợp với việc đổi mới và chuyển
giao công nghệ hơn là những công ty lớn và các doanh nghiệp Nhà nước, bởi sự tự
quyết cao và kém ổn định hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đang đối mặt
với những khó khăn như không đủ tiềm lực để định giá công nghệ chính xác hay lựa
chọn công nghệ tốt nhất cho mục tiêu của mình nên lại rơi vào vòng luẩn quẩn:
trang bị công nghệ - không sử dụng được – thải hồi – trang bị công nghệ. Trong khi
đó ở VN các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp,
đây là bài toán khó cho các nhà hoạch định chiến lược phát triển các doanh nghiệp
này.3
Từ đầu những năm 1990, chúng ta đãtập trung nguồn lực vào phát triển 4 lĩnh
vực Công nghệ cao là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,công nghệ vật liệu
mới và tự động hoá qua nhiều chương trình trọng điểm cấp Nhà nước và một số
chương trình kinh tế kỹ thuật với mục tiêu nghiên cứu ứng dụng, tiếp thu để tiến tới
làm chủ các công nghệ nhập tiên tiến,sáng tạo công nghệ trong nước phục vụ các
ngành kinh tế quốc dân và đã làm chủ được một số công nghệ cao trong các lĩnh
vực điện tử, tin học, viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghệ tạo giống cây
trồng vật nuôi, y tế,… Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Giáo dục- đào tạo Bành Tiến
Long :” Việt Nam chưa sở hữu hay làm chủ được bất kỳ công nghệ nguồn nào,
công nghệ cốt lõi nào thuộc lĩnh vực công nghệ cao mà mới chỉ dừng ở mức độ làm
2
3


Vietbao.vn, 18/10/2005
Vietbao.vn,18/10/2005.


25

chủ được một vài công đoạn, một số quá trình hay một số yếu tố công nghệ cao nào
đó mang tính chuyên ngành. Công nghệ cao hầu như còn vắng bóng ở hầu hết các
ngành kinh tế. Theo khảo sát của Sở KH-CN TP.Hồ Chí Minh, phần lớn các doanh
nghiệp trên địa bàn đều là nhập các thiết bị lạc hậu , xuất xứ từ Trung Quốc, Đài
Loan và ngay cả một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng sử dụng
những thiết bị có trình độ công nghệ ở mức trung bình. Trong khi việc chuyển giao
các kết quả nghiên cứu từ các phòng thí nghiệm sang cho các thành phần kinh tế sẽ
mất ít chi phí hơn nhiều. Thực tế ở TP.HCM năm 2002 các nhà khoa học đã thiết kế
chế tạo được 50 thiết bị bán cho các doanh nghiệp với giá chỉ bằng 10% đến 60%
giá nhập công nghệ từ nước ngoài, tiết kiệm được hơn 50 tỷ đồng. 4
Hiện nay cả nước có 60/63 trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN đang hoạt
động. Sau 5 năm hoạt động (2003-2008) với chức năng làm cầu nối tiếp thu và
chuyển giao các kết quảnghiên cứu các kỹ thuật tiến bộ và công nghệ mới vào sản
xuất, các trung tâm đã
góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi. Nhưng
đa số các trung tâm KH-CN ở chưa phát huy hết tiềm năng bởi nguồn vốn đầu tư
cho ứng dụng KH-CN ở nhiều địa phương chưa được sử dụng đúng mục đích. Theo
số liệu tổng hợp từ 52 tỉnh thành, trong 5 năm 2003-2008 tổng kinh phí cấp thường
xuyên cho các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH-CN là 82,1 tỷ đồng, bình quân mỗi
trung tâm nhận được 300 triệu đồng mỗi năm để chi cho các hoạt động. Đặc biệt chỉ
có 3 địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh, Vĩnh Phúc là sử dụng 2% ngân sách cho hoạt
động này đúng theo quy định của Luật ngân sách, còn lại nhiều địa phương nguồn
tài chính đầu tư chỉ chiếm khoảng 0,2%. Không những vậy, nhiều nơi nguồn vốn
đầu tư cho ứng dụng phát triển KH-CN không đúng mục đích. Bên cạnh một số

trung tâm phát huy hiệu quả ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thì đa số trung
tâm còn lúng túng triển khai hoạt động, nguồn nhân lực thiếu và yếu về chuyên môn
nghiệp vụ.5
Năng lực đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp VN rất hạn chế, chỉ có
0,1% doanh thu hàng năm được dành cho đổi mới công nghệ và thiết bị, và 80%
doanh nghiệp vừa và nhỏ không có chiến lược đầu tư cho KH-CN. Trong khi đó ở
châu Âu thường dành 3-4% GDP để đầu tư đổi mới công nghệ. [14] Hội thảo quốc
4
5

Báo Tia Sáng, bộ KH-CN 2006.
Báo Sài Gòn giải phóng, 27/11/2008


×