Tải bản đầy đủ (.pdf) (499 trang)

Đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.27 MB, 499 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
[\

BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2008
MÃ SỐ: B08-32

ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Cơ quan chủ trì: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Minh Sơn
Thư ký đề tài: ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy

7257
26/3/2009
HÀ NỘI – 2008


DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN
1.

TS. Hoàng Anh

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

2.

PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp



Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh

3.

ThS. Phan Thanh Hải

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

4.

CN. Trần Thị Thanh Hương

Ban Tuyên giáo Trung ương

5.

PGS.TS. Phạm Văn Linh

Ban Tuyên giáo Trung ương

6.

GS.TS. Dương Xuân Ngọc

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

7.


TS. Nguyễn Thị Quế

Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh

8.

ThS. Đào Xuân Tiến

Ban Tuyên giáo Trung ương

9.

ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

2


MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1. Một số điểm cơ bản về hội nhập quốc tế và thông
tin đối ngoại của Việt Nam
1.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam
1.2. Những điểm cơ bản về TTĐN Việt Nam
1.3. Những yêu cầu đối với hoạt động TTĐN trong quá trình
hội nhập quốc tế hiện nay
1.4. Hoạt động TTĐN của một số nước trên thế giới
Chương 2.Thực trạng hoạt động TTĐN đối với nhân dân,

chính phủ các nước trên thế giới và cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài
2.1. Thực trạng hoạt động TTĐN đối với nhân dân, chính phủ
các nước trên thế giới
2.2. Thực trạng hoạt động TTĐN đối với cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài
Chương 3. Thực trạng hoạt động TTĐN đối với người nước
ngoài ở Việt Nam và ở địa bàn trong nước
3.1. Thực trạng hoạt động TTĐN đối với người nước ngoài ở
Việt Nam
3.2. Thực trạng hoạt động TTĐN tại chỗ của các cơ quan trung
ương và địa phương
Chương 4. Mục tiêu, quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm
đẩy mạnh hoạt động TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam hiện nay
4.1. Mục tiêu đẩy mạnh hoạt động TTĐN trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
4.2. Quan điểm đẩy mạnh hoạt động TTĐN trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
4.3. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động TTĐN trong quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
4.4. Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động TTĐN trong
quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

5
20
20
34

46
58
83
83
102
132
133
140
159
159
161
162
173
178
179

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT

BC-TT
CNH
CNXH
ĐCS
HĐH
NVNONN
NXB
THVN
TNVN

TTĐC
TTĐN
TTXVN
XHCN

Báo chí và Tuyên truyền
Công nghiệp hóa
Chủ nghĩa xã hội
Đảng Cộng sản
Hiện đại hóa
Người Việt Nam ở nước ngoài
Nhà xuất bản
Truyền hình Việt Nam
Tiếng nói Việt Nam
Truyền thông đại chúng
Thông tin đối ngoại
Thông tấn xã Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa

4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Tính lý luận, thời sự của đề tài
Thông tin đối ngoại (TTĐN) là một bộ phận quan trọng trong công tác
đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong quá trình hội quốc tế
của Việt Nam hiện nay, TTĐN lại càng cần phải được chú trọng. TTĐN có
nhiệm vụ làm cho nhân dân, chính phủ các nước, người nước ngoài đang sinh

sống, làm việc ở Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài hiểu về đất nước,
con người Việt Nam, về đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi
mới của Việt Nam, đồng thời đấu tranh dư luận chống lại những luận điệu bôi
xấu, xuyên tạc của các thế lực thù địch, trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của các nước, của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo là quá
trình tìm tòi, trải nghiệm, sáng tạo và liên tục đổi mới tư duy trên mọi lĩnh
vực, trong đó có đổi mới tư duy đối ngoại. Với chủ trương “mở rộng sự hợp
tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế”1 được Đại hội lần thứ VI (1986) của
Đảng đề ra, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Nhờ thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế”2, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong quan hệ đối ngoại. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, bị
bao vây, cấm vận về kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
174 nước, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với trên 200 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và
khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước,
các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới. Đảng ta có quan hệ ở các
mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục
của thế giới. Các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ
chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế. Những thành tựu
đó, một mặt, đã góp phần khẳng định tính đúng đắn của tư duy đối ngoại đổi
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng”, Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tập 47
2

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.112

5


mới, đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng ta, mặt khác, thể hiện sự hội
nhập nhanh chóng, sâu sắc của Việt Nam vào đời sống quốc tế.
Đến nay, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế đã trở thành yêu cầu nội sinh, bức thiết của đất nước ta, của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã thực sự trở thành bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực. Quan hệ đối ngoại đã có bước phát triển mới. Hoạt
động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần
giữ vững môi trường hoà bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được những thành công đó,
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đẩy mạnh hoạt động TTĐN.
Cùng với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng trong tất cả
các lĩnh vực, nhu cầu cung cấp thông tin từ Việt Nam ra thế giới và đưa thế
giới đến với Việt Nam ngày càng bức thiết và lớn mạnh. TTĐN tạo điều kiện
cho thế giới hiểu Việt Nam, hiểu về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” của Việt Nam, trên cơ sở đó hợp tác nhiều
hơn với chúng ta. TTĐN giúp xây dựng hình ảnh Việt Nam hoà bình, ổn định,
hợp tác và phát triển, đồng thời đang góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. TTĐN cũng giúp cho nhân dân Việt Nam đón nhận những thành tựu
khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, sản xuất cùng những tinh
hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới. Do đó để hội nhập quốc tế ngày
càng trở nên sâu rộng, cần phải tích cực đẩy mạnh hoạt động TTĐN hơn nữa.

TTĐN luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà
nước. Cùng với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Nghị quyết
Đại hội VI của Đảng (1986) đề cập đến việc cần chú trọng thực hiện công tác
TTĐN. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, trong nhiệm kỳ Đại hội VII, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
11/CT-TW (1992) định hướng đúng đắn và tổ chức lực lượng hoạt động
TTĐN. Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, Thường vụ Bộ Chính trị ra Thông báo
số 188/TB-TW (1998) bổ sung, nhấn mạnh những đối tượng, địa bàn ưu tiên
và trọng điểm tổ chức lực lượng của công tác TTĐN. Tháng 4 năm 2000, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 10/2000 CT-TTg về tăng cường quản lý và
đẩy mạnh công tác TTĐN. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001) nhấn
mạnh nhiệm vụ tăng cường công tác TTĐN. Sau Đại hội, nhận thấy nhu cầu
cấp bách cần tăng cường sự lãnh đạo và phối hợp ở tầm chiến lược của công
6


tác này trong tình hình phát triển các lực lượng và hoạt động TTĐN, ngày 26
tháng 12 năm 2001 Ban Bí thư đã ban hành Quyết định 16 về thành lập Ban
chỉ đạo công tác TTĐN. Đại hội X của Đảng (2006) một lần nữa nhấn mạnh
đến việc “đẩy mạnh công tác văn hoá - TTĐN, góp phần tăng cường sự hợp
tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước”3. Ngày 26 tháng
12 năm 2006, Ban Bí thư ra Quyết định số 29 để kiện toàn Ban chỉ đạo công
tác TTĐN. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa X của Đảng (2007) về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới đã cụ thể hóa một
bước nhiệm vụ và giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác TTĐN nói chung và
hoạt động TTĐN của báo chí nói riêng. Nghị quyết đã chỉ rõ cần phải “Củng
cố tổ chức, tăng cường cán bộ và phương tiện để mở rộng phạm vi và nâng
cao hiệu quả công tác TTĐN, giúp cho cộng đồng quốc tế, cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài có nhận thức và thái độ đúng đắn về đất nước ta,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp đổi

mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta”4. Ngày 10 tháng 9 năm
2008, Ban bí thư Trung ương Đảng khóa X đã ra Chỉ thị số 26/CT-TW về
“tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác TTĐN trong tình hình mới” nhằm
khẳng định rõ hơn nội dung, phương thức, đối tượng, địa bàn hoạt động
TTĐN ở nước ta, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Sự quan tâm, lãnh đạo kịp thời, sát sao của Đảng và Nhà nước về công
tác TTĐN cũng như đòi hỏi của thực tiễn đã nâng nhận thức của mọi người,
mọi ngành, mọi cấp về TTĐN lên tầm cao mới. Thực hiện sự chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, các cấp, các ngành từ trung ương
đến địa phương, các tập thể và cá nhân đã tiến hành hoạt động TTĐN dưới
nhiều hình thức phong phú, đem lại nhiều lợi ích thiết thực.
Tuy nhiên, hoạt động TTĐN thời gian qua cũng bộc lộ nhiều tồn tại,
yếu kém, khuyết điểm cần nhanh chóng khắc phục để đáp ứng kịp thời những
yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao, ngày càng khó khăn của quá trình hội
nhập quốc tế, của sự nghiệp Đổi mới đất nước. Để thực hiện điều này được
nhanh chóng và có hiệu quả cao, cần có những công trình nghiên cứu các
khía cạnh khác nhau của công tác TTĐN, tạo cơ sở khoa học cho những hoạt
động thực tiễn, tránh việc hoạt động một cách cảm tính, dựa chủ yếu vào kinh
nghiệm và thiếu những chiến lược hoạt động dài hạn.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.115.
4
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 28/8/2007:
/>
7



1.2. Tính cấp thiết đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động thực tiễn của công tác TTĐN,
một trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước quan tâm và ưu tiên thực
hiện là đào tạo, nâng cao năng lực nguồn nhân lực làm công tác đối ngoại nói
chung và TTĐN nói riêng. Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh cần
“chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ
cao, có đạo đức và phẩm chất tốt”5. Hiện nay, cán bộ chuyên trách TTĐN ở
các cơ quan, tổ chức, địa phương còn rất ít, ở nhiều nơi còn chưa có. Các cán
bộ này đa phần mới chỉ được tập huấn qua các lớp bồi dưỡng kỹ năng TTĐN
ngắn hạn, chưa được đào tạo chính quy, do vậy năng lực còn nhiều hạn chế.
Từ năm học 2004-2005, Học viện Báo chí và Tuyên truyền được Đảng và
Nhà nước lựa chọn, tin tưởng giao nhiệm vụ đào tạo cử nhân ngành TTĐN hệ
tập trung dài hạn. Cho đến nay, 5 khóa sinh viên TTĐN đầu tiên của cả nước
với gần 160 sinh viên do Khoa Quan hệ quốc tế quản lý đang nỗ lực học tập,
trau dồi kiến thức, rèn luyện đạo đức, chuẩn bị cho công tác sắp tới của mình.
Việc tiến hành các nghiên cứu khoa học để nhanh chóng tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, rút ra các bài học để hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động
TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay, bên cạnh ý
nghĩa thực tiễn, còn có ý nghĩa giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng to lớn. Các kết
quả thu được sau mỗi nghiên cứu sẽ làm tài liệu phục vụ quá trình đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác TTĐN của cả nước. Hiện nay, việc
hoàn thiện chương trình đào tạo, công tác biên soạn bài giảng, tài liệu tham
khảo và xây dựng giáo trình cho các học phần chuyên ngành TTĐN đang
được khẩn trương xúc tiến. Việc thực hiện những nghiên cứu về TTĐN đang
được lãnh đạo các cấp khuyến khích và ưu tiên, nhằm phát triển cơ sở khoa
học cho việc đào tạo cử nhân ngành TTĐN. Đặc biệt cho những học phần
trực tiếp liên quan đến chủ đề của nghiên cứu này như: “Đại cương TTĐN”,
“Tổ chức hoạt động TTĐN”, “Thu thập xử lý TTĐN”, “Tổ chức sản xuất sản
phẩm TTĐN”, “Quản lý hoạt động TTĐN”, “Các chuyên đề TTĐN”.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động TTĐN
đang được nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia muốn tăng cường ảnh
hưởng và hình ảnh của mình ra bên ngoài, quan tâm đẩy mạnh. Nghiên cứu
này cũng sẽ cố gắng tìm hiểu, phân tích kinh nghiệm đẩy mạnh hoạt động
TTĐN trong bối cảnh toàn cầu hoá của các nước trên thế giới. Thực hiện
5

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.115

8


được điều này, một mặt sẽ giúp Việt Nam rút ngắn quá trình tìm tòi, thử
nghiệm và đề ra những chính sách hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển
của đất nước và quốc tế. Mặt khác, giúp chúng ta chủ động, tích cực hơn
trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
Những điều nêu trên đã minh chứng cho tính cấp thiết của việc lựa
chọn đề tài.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là
một hướng nghiên cứu mới, rộng lớn, bao trùm hai mảng nghiên cứu lớn là
hội nhập quốc tế và TTĐN.
Kể từ khi đất nước ta thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới, mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập, chủ đề về hội nhập quốc tế
của Việt Nam đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Điều này
được biểu hiện một số lượng tương đối lớn sách, công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học, các chính khách trong và ngoài nước. Hội nhập quốc tế của
Việt Nam được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau và trong nhiều lĩnh vực
khác nhau.

Nhiều công trình nghiên cứu tác động của toàn cầu hoá đến các quốc
gia, dân tộc và phân tích sự cần thiết của hội nhập khu vực, quốc tế trong thời
đại toàn cầu hoá hiện nay. Trong số đó tiêu biểu là cuốn sách của Trần Trọng
Toàn, Đinh Nguyên Khiêm (1999) “Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của
Việt Nam”6. Trong cuốn sách, các tác giả đã nêu lên những ưu thế, thời cơ và
thách thức trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, kinh nghiệm hội
nhập kinh tế của các nước đang phát triển. Trên cơ sở đó nêu lên các vấn đề
xuất hiện trong tiến trình hội nhập của Việt Nam, đặt biệt là những vấn đề
kinh tế, về liên kết kinh tế và đề xuất những giải pháp giải quyết. Cuốn sách
cũng đề cập đến vấn đề thông tin kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế đã ảnh
hưởng không nhỏ đến những thành công trong quá trình hội nhập.
Hai công trình của các nhà nghiên cứu Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh: “Toàn cầu hoá - phương pháp luận và phương pháp tiếp cận
nghiên cứu” của Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Xuân Sầm (2001)7
6

Trần Trọng Toàn, Đinh Nguyên Khiêm (1999), Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
của Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
7
Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Xuân Sầm (2001), Toàn cầu hoá - phương
pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

9


và “Xu thế toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” của Lê Hữu
Nghĩa, Trần Khắc Việt và Lê Ngọc Tòng (2007)8, đã cung cấp đầy đủ phương
pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu về toàn cầu hoá và sự tác động
của nó đối với các mặt chính trị, văn hoá, xã hội. Các tác giả đã chỉ ra sự
phức tạp, nhiều mặt của toàn cầu hóa. Đó là kết quả tác động tổng hợp của

nhiều nhân tố. Trong thế giới toàn cầu hoá, nền kinh tế các nước ngày càng
hội nhập và phụ thuộc chặt chẽ với nhau, do vậy, mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế đã trở thành xu thế khách quan. Ngoài ra, các tác giả cũng phân tích
những thách thức và thời cơ đối với sự phát triển của Việt Nam trong xu thế
toàn cầu hóa hai thập niên đầu thế kỷ XXI và đề ra những phương hướng có
tính nguyên tắc để Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Mặc dù không trở thành một phần nghiên cứu riêng biệt nhưng trong các
công trình nghiên cứu này, các tác giả cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của các luồng thông tin trong xã hội hiện đại – luồng thông tin từ trong nước
ra bên ngoài và luồng thông tin quốc tế vào trong nước.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu của Vũ Dương Ninh (2003) “Toàn cầu
hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam”9, của Nguyễn Vân Nam
(2006) “Toàn cầu hoá và sự tồn vong của nhà nước”10 cũng phân tích những
tác động cơ bản nhất của toàn cầu hóa đến chính sách ngoại giao, kinh tế, xã
hội, giáo dục, hội nhập quốc tế của các nước và Việt Nam. Đồng thời đề xuất
các giải pháp cụ thể giúp các nước thích nghi nhanh chóng với quá trình toàn
cầu hóa.
Một số công trình nghiên cứu khác tìm hiểu quá trình hội nhập của Việt
Nam vào đời sống quốc tế và khu vực, đưa ra và phân tích những sự kiện,
những mốc thời gian đáng nhớ của quá trình này. Đáng chú ý là nghiên cứu
“Tiến trình hội nhập Việt Nam-ASEAN” của Đinh Xuân Lý (2001)11, “Việt
Nam trong tiến trình thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập” của Phạm
Văn Hằng và nhóm tác giả (2005)12. Dưới cách phân tích tiến trình lịch sử,
các cuốn sách này đã cung cấp những kiến thức tương đối hệ thống các sự
8

Lê Hữu Nghĩa, Trần Khắc Việt và Lê Ngọc Tòng (2007), Xu thế toàn cầu hóa trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
9
Vũ Dương Ninh (2003), Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt

Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội
10
Nguyễn Vân Nam (2006), Toàn cầu hoá và sự tồn vong của nhà nước, Nxb Trẻ,
Tp.Hồ Chí Minh
11
Đinh Xuân Lý (2001), Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội
12
Phạm Văn Hằng, Lê Mậu Hãn, Vũ Dương Ninh (2005), Việt Nam trong tiến trình
thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội

10


kiện lịch sử trong quan hệ quốc tế, đổi mới và hội nhập quốc tế, khu vực của
Việt Nam.
Ngoài ra, trong số các phân tích về hội nhập quốc tế của Việt Nam, có
một số công trình có giá trị của các chính trị gia, các nhà hoạt động kinh tế
thực tiễn. Đặc biệt trong số này là cuốn sách của đồng chí Phan Văn Khải
(2006) “Đổi mới sâu rộng, phát triển đất nước nhanh và bền vững, tiến cùng
thời đại”13. Cuốn sách đã phân tích, đánh giá tình hình đất nước, khẳng định
những thành tựu và vạch rõ những mặt yếu kém, đề ra phương phương hướng
giải quyết những vấn đề của quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Tác giả
khẳng định, để đi đến thành công, Việt Nam cần tăng cường đại đoàn kết dân
tộc, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng nhận được sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà khoa học nước ngoài. Tiêu biểu là tuyển tập báo cáo phối
hợp nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các chuyên gia quốc
tế “Việt Nam hướng tới 2010” (2001)14 và cuốn “Các nền kinh tế chuyển đổi

từ kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường” của Marie
Lavigue (2002)15. Các tác giả đã đề cập đến vấn đề về chuyển đổi từ kinh tế
kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường và sự hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới, những thách thức và thời cơ.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã phân tích sâu sắc quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, chỉ ra những khó khăn và thuận lợi, thời
cơ và thách thức. Đây sẽ là những nguồn tư liệu quý báu khi thực hiện đề tài.
Tuy nhiên, đa số các công trình nghiên cứu đều tập trung phân tích hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực kinh tế hoặc được nhìn nhận dưới góc độ phát triển
kinh tế.
Thời gian gần đây xuất hiện những nghiên cứu sâu sắc về hội nhập
quốc tế trong các lĩnh vực khác như an ninh, quốc phòng và văn hoá. Trong
số này đáng chú ý là nghiên cứu “Hội nhập kinh tế với vấn đề giữ gìn an ninh
quốc gia ở Việt Nam” của Nguyễn Quốc Nhật và Nguyễn Văn Ngừng
13

Phan Văn Khải (2006), Đổi mới sâu rộng, phát triển đất nước nhanh và bền vững,
tiến cùng thời đại / T.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
14
Việt Nam hướng tới 2010 - Tuyển tập báo cáo phối hợp nghiên cứu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của các chuyên gia quốc tế và Việt Nam /T.1, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2001
15
Marie Lavigue (2002), Các nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung
bao cấp sang kinh tế thị trường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

11


(2001)16. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, các tác

giả đã chỉ ra những xu thế chính trị của thế giới, ảnh hưởng của nó trên phạm
vi toàn cầu cũng như ở Việt Nam và đề ra những giải pháp chủ yếu để phát
triển kinh tế đối ngoại, gắn liền với đảm bảo an ninh quốc gia.
Trong hướng nghiên cứu này còn có nhiều công trình tiêu biểu như
“Văn hóa phương Đông - truyền thống và hội nhập” của Mai Ngọc Chừ và
nhóm tác giả (2006)17, “Văn hoá thời hội nhập” của Trần Kiêm Đoàn, Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Văn Ngọc (2006)18 và đặc biệt là các bài viết của Phạm
Quang Nghị được in trong cuốn “Công cuộc đổi mới - động lực phát triển lý
luận và văn hoá” (2005)19, của Trần Văn Bính (2008) “Văn hóa trong thời kỳ
hội nhập quốc tế”20. Các tác giả đã phân tích một số vấn đề lí luận và thực
tiễn của văn hoá Việt Nam trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và khu
vực, vấn đề hội nhập văn hoá truyền thống và hiện đại của các nước phương
Đông và Việt Nam, vai trò và động lực của văn hóa nghệ thuật trong phát
triển kinh tế, xã hội của nước ta và làm thế nào để giữ gìn, phát huy được bản
sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập hiện nay.
Các nghiên cứu này đã cung cấp thêm một khía cạnh khác của quá trình
hội nhập của Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập về vấn đề TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam, gắn sự thành công của hội nhập quốc tế với việc đẩy mạnh hoạt động
TTĐN. TTĐN là một lĩnh vực công tác đối ngoại quan trọng, có vai trò tích
cự trong quá trình hội nhập quốc tế, tuy nhiên còn mới mẻ với nhiều người và
chưa thực sự được đầu tư thích đáng, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức
của giới nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh đó, thời gian gần đây đã xuất hiện một số các bài viết, nghiên
cứu phân tích các góc độ khác nhau của TTĐN.
TTĐN chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ của những người quản lý,
qua các bài phát biểu, báo cáo tổng hợp của các cơ quan, tổ chức đang trực
tiếp phụ trách các mảng công tác TTĐN khác nhau. Đặc biệt trong các bài
16


Nguyễn Quốc Nhật, Nguyễn Văn Ngừng (2001), Hội nhập kinh tế với vấn đề giữ
gìn an ninh quốc gia ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
17
Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Quốc Anh, Đỗ Đức Định (2006), Văn hóa phương Đông truyền thống và hội nhập, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
18
Trần Kiêm Đoàn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Văn Ngọc (2006), Văn hoá thời hội
nhập, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh
19
Phạm Quang Nghị (2005), Công cuộc đổi mới - động lực phát triển lý luận và văn
hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội
20
Ban chỉ đạo công tác TTĐN, Tạp chí Thông tin đối ngoại, các số 1/2008

12


phát biểu của Vũ Khoan “Một số trọng tâm công tác TTĐN”, của Đỗ Quý
Doãn “Hoạt động văn hóa thông tin phục vụ TTĐN”, của Đặng Đình Lâm
“Công tác TTĐN sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng IX và phương
hướng nhiệm vụ công tác TTĐN hai năm 2004-2005”, của Vũ Văn Hiến
“Đài THVN với công tác TTĐN”, của Vũ Hiền “Đài TNVN với công tác
TTĐN”, của Lê Dũng “Công tác phát ngôn, đấu tranh dư luận và quản lý
phóng viên báo chí nước ngoài”21… đã nêu bật tầm quan trọng của hoạt động
TTĐN, đồng thời chỉ ra những thành tựu và yếu kém trong các đơn vị đang
phụ trách công tác này. Tuy nhiên các bài viết này chủ yếu được phổ biến
trong nhóm những người trực tiếp đang tham gia công tác TTĐN, chưa được
xã hội hoá cho đông đảo các nhà nghiên cứu và công chúng.
Một nguồn tư liệu có giá trị trong quá tình nghiên cứu đề tài là các bài
tham luận của các cơ quan, tổ chức, địa phương được trình bày trên Hội nghị
tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 11- CT/TW do Ban chỉ đạo công tác TTĐN

và Ban Tuyên giáo trung ương tổ chức vào tháng 4/2008. Trong kỷ yếu Hội
nghị đã tập hợp được nhiều báo cáo, phân tích sâu sắc về quá trình thực hiện
công tác TTĐN ở các bộ, ban, ngành, các địa phương trong khắp cả nước.
Với sự ra đời của Tạp chí Thông tin đối ngoại22, nhiều nhà hoạt động,
nghiên cứu đã cho đăng tải các bài suy nghĩ, phân tích về TTĐN của Việt
Nam hiện nay. Tiêu biểu trong số đó là bài viết của Hồng Vinh (2006)
“TTĐN góp sức tích cực thúc đẩy hội nhập quốc tế”23. Tác giả đã nêu bật vai
trò của TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là qua
hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp trong tiến trình ra nhập các tổ
chức quốc tế lớn. Bài viết của Phạm Xuân Thâu (2006) “Thành tựu nổi bật và
những nhiệm vụ chủ yếu của công tác TTĐN trong tình hình mới”24 đã phân
tích các thành tựu của công tác TTĐN thời gian qua và nêu lên những nhiệm
vụ chủ yếu giúp đẩy mạnh hơn nữa hoạt động TTĐN. Trong tạp chí này cũng
luôn có các bài viết mang tính chỉ đạo công tác TTĐN của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước: Nông Đức Mạnh (2008) “Thúc đẩy nền kinh tế phát
triển nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định
hướng XHCN”, của Trương Tấn Sang (2008) “Đẩy mạnh công tác tuyên
21

Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại (2004), Kỷ yếu Hội nghị công tác TTĐN
toàn quốc tháng 3/2004, Hà Nội.
22
Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, các số từ
2004 đến nay
23
Hồng Vinh (2006), “TTĐN góp sức tích cực thúc đẩy hội nhập quốc tế”, Tạp chí
Thông tin đối ngoại, số (28) 7/2006
24
Phạm Xuân Thâu (2006), “Thành tựu nổi bật và những nhiệm vụ chủ yếu của công
tác TTĐN trong tình hình mới”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (23) 2/2006


13


giáo, nâng cao chất lượng hoạt động TTĐN”, của Phạm Gia Khiêm (2008)
“Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác TTĐN trong tình hình
mới”25.
Cũng trên tạp chí này, nhiều phân tích sâu sắc về các mảng công tác
TTĐN cho các đối tượng, địa bàn và lĩnh vực khác nhau đã được đảng tải.
Nổi bật trong số đó là bài viết của Hồng Vinh (2004)”Công tác TTĐN ở một
số nước Đông Âu”, của Nguyễn Duy Quyền (2004) “Công tác TTĐN của các
Đảng bộ, chi bộ ngoài nước”, của Trà Trâm (2005) “Đối ngoại nhân dân
năm 2004 – Một đóng góp quan trọng trong công tác TTĐN”, của Nguyễn
Phú Bình (2006) “Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác vận động người
Việt Nam ở nước ngoài”, của Đoàn Văn Thái (2006) “Công tác vận động, tập
hợp thanh niên, sinh viên Việt Nam ở nước ngoài”, của Trần Đại Quang
(2006) “Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống thông tin, quan điểm sai trái,
thù địch”, của Xuân Anh (2008) “Hoạt động TTĐN trong những năm qua tại
một số bộ, ban, ngành”, Vũ Hồng Thanh (2008) “Hoạt động TTĐN góp phần
quảng bá hình ảnh phong cảnh, con người Quảng Ninh”, của Đỗ Quý Doãn
(2008) “Khảo sát công tác TTĐN tại Liên Bang Nga, Cộng hòa Ba Lan”, của
Trần Đức Lai (2008) “Bộ Thông tin và Truyền thông với công tác TTĐN”26.
Bên cạnh đó, hoạt động TTĐN ở một số nước trên thế giới cũng được
giới thiệu và phân tích. Đáng chú ý là bài viết của Song Bình (2004) “Vài suy
nghĩ về công tác TTĐN trên thế giới ngày nay”, Việt Hoàng (2005) “Về
TTĐN tại Mỹ và Canada hiện nay – Thực trạng và kinh nghiệm”, Đào Vân
Anh (2006) “Sử dụng Internet trong công tác TTĐN ở Trung Quốc” 27… Các
bài viết này cung cấp những tư liệu có giá trị về nội dung, hình thức, cách
thức tổ chức TTĐN ở các nước và những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam
cần tham khảo để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động TTĐN của mình.

Bên cạnh đó, cho đến nay, chưa có một cuốn sách chuyên khảo nào viết
riêng về TTĐN của Việt Nam.
Nhìn chung, các bài phát biểu và bài viết nêu trên là những tư liệu quý
báu, góp phần làm rõ thực trạng công tác TTĐN của các đơn vị, địa phương
và chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ công tác này trong thời gian tới. Tuy
25

Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 2, 3,
5/2008
26
Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Tạp chí thông tin đối ngoại, các số 3,
4/2004; số 4/2005; số 2, 8/2006; số 1, 3, 4, 6/2008
27
Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Tạp chí thông tin đối ngoại, các số
3/2004; số 3/2005; số 8/2006

14


nhiên, đó vẫn chỉ dừng lại là những báo cáo, những suy nghĩ, phân tích về
từng mảng, từng lĩnh vực, từng đối tượng của công tác TTĐN. Chưa thể gọi
đó là những nghiên cứu toàn diện về hoạt động TTĐN của Việt Nam hiện
nay. Để phát huy hơn nữa giá trị của những nhận xét, phân tích và suy nghĩ
đó, cần thực hiện một công trình khoa học để tổng hợp chúng lại, phân tích,
đánh giá, đưa ra giải pháp chung.
Một mảng hoạt động đang thu hút được sự chú ý là công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ làm công tác TTĐN. Tiêu biểu về chủ đề này là một số bài
báo và tham luận khoa học của Phạm Minh Sơn “TTĐN – ngành học thời đại
toàn cầu hóa” (2004)28, “Công tác đào tạo cán bộ TTĐN ở Học viện Báo chí
và Tuyên truyền” (2006)29, “Tạo dựng hình ảnh đất nước, con người”

(2007)30, “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác TTĐN
trong thời kỳ mới” (2008)31 được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành và
sách tham khảo. Các bài viết này đã phân tích nội dung, cách thức tổ chức,
những thuận lợi và khó khăn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ làm công tác TTĐN. Những nghiên cứu này sẽ là những cơ sở khoa học để
đề ra giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động TTĐN của Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, một số đề tài nghiên cứu khoa học tại Học viện Báo chí và
Tuyên truyền về TTĐN cũng được thực hiện và đem lại kết quả thiết thực.
Đáng chú ý là đề tài khoa học cấp bộ “Hoạt động TTĐC trong công tác
TTĐN của Việt Nam hiện nay”32 do Phạm Minh Sơn chủ nhiệm (2006). Đây
là đề tài khoa học cấp bộ đầu tiên về TTĐN, đồng thời là sự tổng kết, hệ
thống hoá quan trọng về công tác TTĐN của Việt Nam thời gian qua. Trong
khuôn khổ đề tài này, các tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò
và hoạt động TTĐC - lực lượng quan trọng nhất của TTĐN. Những kết quả
của đề tài này sẽ là tài liệu quý giá và sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc thực hiện đề
tài.
TTĐN với vai trò là một mảng hoạt động của công tác đối ngoại và
truyền thông của các nước cũng được nhiều học giả nước ngoài phân tích.
28

Phạm Minh Sơn (2004), “Thông tin đối ngoại – ngành học thời đại toàn cầu hóa”,
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, N3 (5-6) /2004
29
Phạm Minh Sơn (2006), “Công tác đào tạo cán bộ thông tin đối ngoại ở Học viện
Báo chí và Tuyên truyền”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, N12 /2006
30
Phạm Minh Sơn (2007), “Tạo dựng hình ảnh đất nước, con người”, Quan hệ công
chúng – lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
31
Phạm Minh Sơn (2008), “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công

tác TTĐN trong thời kỳ mới”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, N9 /2008
32
Phạm Minh Sơn, “Hoạt động TTĐC trong công tác TTĐN của Việt Nam hiện
nay”, Tổng quan đề tài khoa học cấp bộ năm 2006, Hà Nội

15


Tiêu biểu là các nghiên cứu của Philippe Breton (1996) “Bùng nổ truyền
thông”, của Doris A.Graber (2000) “Media Power in Politics” (Sức mạnh
của truyền thông trong chính trị)33, của Sayling Wen (2002) “Phương tiện
truyền thông trong kỷ nguyên công nghệ thông tin”34, của Michael Schudson
(2003) “Sức mạnh của tin tức truyền thông”35, của Anya Schiffrin, Amer
Bisat (2004) “Đưa tin thời toàn cầu hóa”36. Đây là những tài liệu quý báu
cho đề tài nhằm tổng kết kinh nghiệm hoạt động truyền thông ở các nước.
Trong đó có đề cập đến khía cạnh TTĐN, phân tích những mặt được và
những mặt hạn chế của hoạt động này ở các nước. Những công trình nghiên
cứu, sách, bài báo, báo cáo, tham luận khoa học… nêu trên sẽ là những cơ sở
khoa học quý báu để thực hiện đề tài.
Từ những phân tích vừa nêu trên, đề tài khoa học “Đẩy mạnh hoạt
động TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay” là công
trình đầu tiên nghiên cứu, phân tích, xem xét một cách đầy đủ, tổng hợp hoạt
động TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế và đề xuất các biện pháp góp
phần đẩy mạnh hoạt động TTĐN của Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và giới hạn nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ thực trạng hoạt động TTĐN trong quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động TTĐN trong quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.

3.2. Giới hạn nghiên cứu
- Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động
TTĐN từ năm 1992, sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số
11/CT-TW về đổi mới và tăng cường công tác TTĐN. Đặc biệt tập trung
phân tích, khảo sát những vấn đề trong khoảng thời gian những năm gần đây,
nhất là từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
33

Doris A.Graber (2000), Media Power in Politics, Congressional Quarterly Inc.,
Washington.
34
Sayling Wen (2002), Future of the media (Phương tiện truyền thông trong kỷ
nguyên công nghệ thông tin), Nxb Bưu điện, Hà Nội
35
Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
36
Anya Schiffrin, Amer Bisat (2004), Đưa tin thời toàn cầu hóa, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.

16


(WTO) năm 2006, gắn với quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài không thể không đề cập
đến những vấn đề liên quan ở thời kỳ trước đó.
- Về địa bàn nghiên cứu: Các nghiên cứu, khảo sát được tiến hành chủ
yếu tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Một số
nghiên cứu, khảo sát được tiến hành trên địa bàn của một số tỉnh, thành phố
trong nước như TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tỉnh Quảng Ninh,

Lạng Sơn. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng kết quả nghiên cứu, khảo sát về
công tác TTĐN trên địa bàn các tỉnh, thành phố khác trong nước, cũng như
trên địa bàn một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc.
- Về đối tượng nghiên cứu: TTĐN do nhiều chủ thể khác nhau thực
hiện và hướng đến nhiều đối tượng ở ngoài nước cũng như trong nước với
các loại hình, hình thức rất phong phú, đa dạng. Trong khuôn khổ đề tài này,
đối tượng nghiên cứu là hoạt động TTĐN của một số cơ quan, tổ chức quan
trọng ở trung ương đang thực thi công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nước, đối ngoại nhân dân; cũng như của một số địa phương tiêu biểu. Đề
tài cũng giới hạn tập trung nghiên cứu hoạt động TTĐN cho ba đối tượng đặc
thù của công tác TTĐN: TTĐN cho chính phủ và nhân dân nước ngoài;
TTĐN cho người nước ngoài ở Việt Nam; TTĐN cho người Việt Nam ở nước
ngoài. Trong mỗi đối tượng này lại chọn những nhóm tiêu biểu để nghiên
cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này sẽ sử dụng các phương pháp cơ bản, phổ biến trong nghiên
cứu khoa học xã hội, gồm:
- Phương pháp luận: Đề tài lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm cơ sở lý luận và phương pháp luận. Dựa trên chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận trên cơ sở những quan điểm của Đảng và Nhà nước
về quan hệ quốc tế, công tác đối ngoại, công tác tư tưởng, công tác TTĐN.
Kết hợp nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
- Phương pháp lịch sử và lôgic: các nghiên cứu đều bắt đầu từ lịch sử
của vấn đề, đặt vấn đề trong bối cảnh chung của đất nước, khu vực, quốc tế.
Sử dụng những tư liệu, sự kiện, dữ kiện lịch sử, chọn lọc những sự kiện điển
hình để hệ thống, thống kê, mô hình hoá sự kiện. Đồng thời, các nghiên cứu
17



sẽ phải từ những diễn biến, những sự kiện lịch sử rút ra cái cốt lõi, tổng hợp
so sánh để rút ra được những kinh nghiệm, những bài học có tính quy luật,
tính chỉ đạo đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay và trong
tương lai.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: sử dụng để thu thập và đánh giá
các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, bao gồm các văn kiện của Đảng, chủ
trương chính sách của Nhà nước, các công trình nghiên cứu trong và ngoài
nước về các chủ đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng: được sử dụng khi điều tra mẫu
(survey). Điều tra mẫu được tiến hành gắn với thiết kế phiếu trưng cầu ý kiến
bao gồm hệ thống các câu hỏi mang tính giả thuyết gắn theo phương án phù
hợp với mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng khi nghiên cứu
các nhóm đối tượng của hoạt động TTĐN như người nước ngoài ở Việt Nam,
hoặc thái độ, sự hiểu biết của người dân Việt Nam với công tác TTĐN.
- Phương pháp nghiên cứu định tính: Được thể hiện thông qua các câu
hỏi mở khi lập các phiếu trưng cầu ý kiến để tìm hiểu những vấn đề khó có
thể thực hiện bằng nghiên cứu định lượng. Ngoài ra, phương pháp này còn
được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu cá nhân hoặc nhóm. Đối tượng
phỏng vấn có thể là những chuyên gia nước ngoài đang công tác, học tập ở
Việt Nam, hoặc người Việt Nam ở nước ngoài đang có điều kiện về thăm đất
nước.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: sử dụng để thu thập các thông
tin, ý kiến đánh giá của các chuyên gia có kinh nghiệm về hội nhập quốc tế và
TTĐN thông qua các buổi hội thảo, toạ đàm, trao đổi khoa học. Bên cạnh
mục đích thu thập thông tin, phương pháp này còn dùng để kiểm tra mức độ
tin cậy các số liệu thu được từ điều tra và phỏng vấn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đóng góp về mặt khoa học, lý
luận:

- Hệ thống hoá các quan niệm, khái niệm về TTĐN, các văn bản, tài
liệu của Đảng và nhà nước liên quan đến TTĐN.

18


- Làm phong phú thêm lý luận về nội dung, đối tượng, phương pháp
hoạt động TTĐN.
- Chỉ ra mối liên hệ biện chứng giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế với đẩy mạnh hoạt động TTĐN của Việt Nam.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân
đẩy mạnh hơn nữa hoạt động TTĐN của mình.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và
nghiên cứu các môn học của chuyên ngành TTĐN như “Đại cương TTĐN”,
“Tổ chức hoạt động TTĐN”, “Thu thập xử lý TTĐN”, “Tổ chức sản xuất sản
phẩm TTĐN”, “Quản lý hoạt động TTĐN”, “Các chuyên đề TTĐN”… Đồng
thời làm tài liệu phục vụ công tác bồi dưỡng cán bộ TTĐN.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài, nhất là những kiến nghị sẽ góp phần
tích cực vào công tác giảng dạy, học tập, quản lý người nước ngoài, đặc biệt
là sinh viên nước ngoài ở Việt Nam nói chung và ở Học viện Báo chí và
Tuyên truyền cũng như ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nói
riêng.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm phần mở đầu, kết luận, 4 chương, 12 tiết và danh mục
tài liệu tham khảo.

19



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ ĐIỂM CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ THÔNG
TIN ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
1.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam
1.1.1. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội
nhập quốc tế sâu sắc và toàn diện hơn bao giờ hết. Chúng ta đã có quan hệ
ngoại giao với hơn 174 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với
hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu
vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm
1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam là ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm
kỳ 2008 - 2009. Đó là thành quả của cả một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất
nước.
Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi
tình trạng vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch
xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp do những trở ngại từ
“vấn đề Campuchia”... Bởi vậy, bước vào thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam
đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa sinh tử là phải tìm cách thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô lập về đối ngoại,
tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại Đảng và Nhà nước Việt
Nam nỗ lực đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh về “thêm bạn, bớt thù”, mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, tìm ra khâu đột phá để thoát vòng bao vây cô lập của các thế lực thù
địch. Xuất phát từ nhận thức cho rằng, tiến trình tìm giải pháp cho vấn
Campuchia luôn gắn liền và tác động mật thiết với việc bình thường hóa quan

hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Mỹ cũng như sự cải thiện quan hệ
Việt Nam - các nước ASEAN, cho nên từ sau Đại hội VI, đặc biệt là sau Nghị
quyết 13 của Bộ Chính trị (1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa
VI (1989), Việt Nam đã có những điều chỉnh cơ bản về chính sách đối ngoại.
Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và
20


Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam
Á, xác định rõ giải quyết vấn đề Campuchia là khâu đột phá, có ý nghĩa quyết
định trong việc tạo môi trường quốc tế hoà bình, ổn định ở khu vực, thuận lợi
cho phát triển đất nước.
Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VI của
Đảng nêu chủ trương chiến lược: “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế”37. Trên cơ sở đó và trước những diễn biến phức tạp của tình hình
quốc tế sau sự tan rã của Liên Xô, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992)
chính thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Chủ trương chiến lược của Đại hội
VII tiếp tục được Đại hội VIII khẳng định, bổ sung và đến Đại hội IX phát
triển thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”38. Như vậy,
quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng đã đưa đến việc xác lập những
nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối ngoại từ “rộng mở”, “là bạn”
đến “đa dạng hóa, đa phương hoá quan hệ quốc tế” và “sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy”. Đây là sự thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên
định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn kết mục tiêu cách mạng và
định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát triển của thời đại. Với
sự điều chỉnh chính sách đối ngoại như đã nêu, Việt Nam đã từng bước phá
được thế bị bao vây cấm vận, hóa giải tương đối thành công những khó khăn,
bất cập trong quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế,

hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.
Trong quá trình hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới, việc giải quyết vấn
đề Campuchia cũng được Đảng và Nhà nước ta coi là điều kiện then chốt để
phá thế bị bao vây, cấm vận, tạo môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho
phát triển đất nước. Do tương quan lực lượng và sự dính líu của các thế lực
quốc tế cho nên vấn đề Campuchia chỉ có thể giải quyết bằng một giải pháp
chính trị. Từ nhận thức này, sau Đại hội VI (1986) Việt Nam một mặt tập
trung giúp đỡ Cộng hòa nhân dân Campuchia củng cố lực lượng trên các mặt;
đồng thời tiến hành rút toàn bộ quân tình nguyện khỏi Campuchia. Việc Việt
Nam đơn phương rút hết quân và rút sớm hơn dự kiến đã tác động tích cực,

37

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng”,
Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tập 47
38
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 119

21


làm chuyển biến thái độ của các nước liên quan, trước hết là Trung Quốc, Mỹ
và các nước ASEAN.
Việt Nam đã có những bước đi ngày càng chủ động và tích cực nhằm
góp phần nhanh chóng tìm ra giải pháp chính trị toàn bộ, công bằng hợp lý
cho vấn đề Campuchia. Việc ký Hiệp định Pari ngày 23/10/1991 đánh dấu sự
kết thúc quá trình tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là
sự ghi nhận những đóng góp của Việt Nam và cũng là một thắng lợi trong

triển khai chính sách đối ngoại đổi mới, tạo điều kiện đưa Việt Nam thoát ra
khỏi vòng bao vây, cô lập kéo dài của các thế lực thù địch, đặt nền móng cho
quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa ba nước Đông Dương
luôn là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam nói
chung và trong quá trình hội nhập quốc tế nói riêng. Với Lào, tình hữu nghị
đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện tiếp tục được củng cố và có nhiều
bước phát triển quan trọng. Việt Nam triển khai hợp tác một cách toàn diện,
giúp bạn phát triển kinh tế - xã hội với hàng loạt các hạng mục kinh tế, khoa
học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục - đào tạo..., góp phần duy trì ổn định chính trị
- xã hội, an ninh của Lào. Việt Nam một mặt lấy mối quan hệ mật thiết giữa
hai Đảng làm nòng cốt, mặt khác không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả
hợp tác kinh tế, coi đó là tiền đề vật chất gắn kết hai nước trên cơ sở lâu dài,
bền vững. Mối quan hệ hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất
hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi,
dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ
đặc biệt giữa hai nước. Hiện nay, Việt Nam là một trong những đối tác kinh
tế hàng đầu của Lào với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1 tỷ USD, kim ngạch
thương mại đạt trên 200 triệu USD.
Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh quan hệ với Campuchia trên cơ sở mới
phù hợp với tình hình đã thay đổi sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia,
phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, thông qua thương lượng
giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Đến nay, hai nước xác lập phương châm
chỉ đạo quan hệ là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền
thống, ổn định lâu dài”. Hai bên đã ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh
vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là việc Campuchia cam kết
công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với Việt Nam
những năm 80. Hai bên đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực như giáo dục,
đào tạo, năng lượng - điện, y tế, giao thông vận tải... Trao đổi thương mại tiến


22


triển thuận lợi, đến 8/2008 đã đạt gần 1,3 tỷ USD, phấn đấu hướng tới mục tiêu
đạt 2 tỷ USD vào năm 2010.
Việt Nam đặc biệt coi trọng tiến trình bình thường hóa và phát triển
quan hệ với Trung Quốc. Sau Đại hội VI, Việt Nam đã xem xét lại toàn bộ
mối quan hệ với Trung Quốc, khẳng định rõ Trung Quốc vẫn là một nước
XHCN, nhân dân Trung Quốc là nhân dân cách mạng và có truyền thống hữu
nghị lâu đời với nhân dân Việt Nam. Trung Quốc trong tư cách vừa là một
nước láng giềng, vừa là một nước lớn, vừa là một nước XHCN được Việt
Nam nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với hoà bình, ổn định của Việt
Nam và của cả Đông Nam Á, đồng thời cũng thấy rõ vị trí của Việt Nam
trong chiến lược của Trung Quốc.
Với những nỗ lực của cả hai bên, nhất là sự chủ động của Việt Nam,
tháng 10/1991 quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước chính thức bình thường
hoá. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung sau hơn mười năm quan hệ
không bình thường là một sự kiện rất quan trọng về mặt đảm bảo an ninh
quốc gia của Việt Nam cũng như tạo ra môi trường khu vực và quốc tế thuận
lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác39. Kể từ sau
bình thường hóa, quan hệ Việt - Trung phát triển nhanh và toàn diện. Khuôn
khổ quan hệ hai nước được chính thức xác định với 16 chữ: “Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, tiếp đó được
bổ sung thêm tinh thần 4 tốt: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác
tốt” và gần đây là “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Hai bên có
nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn
đề quốc tế và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại Việt - Trung tăng trưởng
nhanh, hiện mậu dịch hai chiều đã vượt 20 tỷ USD. Hai nước đã ký Hiệp ước
về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định
giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai

nước trong Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã quán triệt tốt phương châm
“vừa hợp tác vừa đấu tranh” đối với những vấn đề còn bất đồng và tranh chấp
thì kiên trì lập trường nguyên tắc và sự độc lập tự chủ của mình.
Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa,
Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với các
nước ASEAN. Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối
ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, cho thấy rõ ưu tiên của Việt Nam đối
39

Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.110

23


với khu vực. Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu
vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Nói
cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các
nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam
kết và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng
kiến nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp
hội. Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong
khuôn khổ đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào quá trình hợp
tác liên kết ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015 với ba trụ cột An ninh, Kinh tế và Văn hóa - xã hội. Các nước
ASEAN hiện có gần 1 nghìn dự án đầu tư đang triển khai ở Việt Nam, với số
vốn đầu tư trên 13 tỉ USD, chiếm gần 20% vốn đầu tư các dự án nước ngoài ở
Việt Nam. Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai ở các nước thành

viên ASEAN với tổng vốn đầu tư khoảng 700 triệu USD. Mặt khác, Việt
Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm cao vào các cơ chế hợp tác đa
phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1, ASEAN+3,
Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á…
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực,
Việt Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn
và các tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động đối
ngoại của Việt Nam. Quan hệ với Mỹ có ý nghĩa chiến lược đối với yêu cầu
an ninh và phát triển của nước ta. Cải thiện mối quan hệ hai nước góp phần
củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam, tác động tác động mạnh mẽ đến quan hệ
của tất cả các nước khác, nhất là các nước phương Tây đối với Việt Nam,
thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế,
từng bước đi vào thị trường rộng lớn của Mỹ, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên
tiến, nguồn vốn đầu tư... Năm 1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận chống
Việt Nam và tháng 11/7/1995 bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Sau
bình thường hóa, quan hệ Việt - Mỹ có nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ
kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ được thúc đẩy. Hai nước đã ký
Hiệp định thương mại năm 2000 và năm 2006, chính quyền Mỹ chính thức
ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh
viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc bình thường hóa hoàn toàn quan
hệ song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO.
Năm 2007, kim ngạch mậu dịch hai chiều vượt 12 tỉ USD, hiện Mỹ xếp thứ 7
24


trong số 80 nước, vùng lãnh thổ có đầu tư ở Việt Nam và đang là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp
nhằm duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh

quốc phòng. Hai nước đã xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng
với một loạt các hiệp định về hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật,
dầu khí, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp công nông nghiệp. Gần đây,
kim ngạch buôn bán giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt Nam có chiều
hướng tăng, hiện kim ngạch mậu dịch đã vượt 1,5 tỷ USD.
Bên cạnh quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác về kinh tế, thương mại,
khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ có bước phát
triển thể hiện sự tin cậy lẫn nhau. Hai nước ký Tuyên bố chung về Đối tác
chiến lược mới (7/2007). Từ năm 2007, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10 nước có
vốn đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam cũng trở thành nước
tiếp nhận FDI lớn nhất từ Ấn Độ ở Đông Nam Á.
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản,
nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn
hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ. Hiện nay Nhật là bạn hàng lớn nhất, là
nước cung cấp viện trợ phát triển nhiều nhất và đầu tư lớn ở Việt Nam. Quan
hệ Việt Nam - Nhật Bản hiện vẫn năng động tiến vững trên đường hướng tới
đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á.
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU
Hiệp định khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển
mối quan hệ hợp tác ổn định, lâu dài. Phát triển quan hệ song phương đã góp
phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - EU. Việt Nam đang tích cực thực
hiện “Đề án tổng thể về quan hệ Việt Nam - EU đến năm 2010 và định
hướng đến 2015” được đưa ra từ 6/2005.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng
đầu trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nước ta thực sự đẩy mạnh
việc tham gia hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế từ khi tham gia
ASEAN (1995) và các định chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN
như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN
(AIA); ký Hiệp định khung với EU (1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC năm 1998; ký Hiệp định Thương mại


25


×