Tải bản đầy đủ (.pdf) (463 trang)

Lợi ích kinh tế của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở miền Đông Nam Bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 463 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH.

---------/-------

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2007.

LI ÍCH KINH TẾ CỦA CÔNG NHÂN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI MIỀN ĐÔNG
NAM BỘ HIỆN NAY.
Cơ quan chủ trì:
HV Chính trò – Hành chính KV II
Chủ nhiệm đề tài:
T.S Phạm Thò Xuân Hương

7255
26/3/2009

Tp. HCM 12/2008


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI.

1- PGS. TS Nguyễn Đức Bách Học viện chính trị -hành chính quốc gia HCM.
2- PGS. TS Nguyễn Văn Oánh Học viện chính trị -hành chính quốc gia HCM
3- TS Nguyễn An Ninh Học viện chính trị -hành chính quốc gia HCM
4- Th S Nguyễn Tầm Dương Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương
5- Th S Thân Ngọc Anh Học viện chính trị -hành chính quốc gia HCM KV II
6- Th S Hà Văn Tác Học viện chính trị -hành chính quốc gia HCM KV II
7- TS Phạm Thị Xuân Hương Học viện chính trị -hành chính quốc gia HCM KV II




PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Trong bất kỳ xã hội nào, lợi ích kinh tế chính là những động cơ khách
quan thúc đẩy hoạt động của giai cấp, của nhóm xã hội hay của những người
riêng biệt. Lợi ích kinh tế xuất hiện, hoạt động, phát triển phụ thuộc vào
những điều kiện vật chất khách quan của đời sống con người và hình thành
trên cơ sở những nhu cầu của họ. Nó là mối lợi kinh tế mà một cá nhân, tập
thể hay xã hội trong các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định, thúc đẩy
các nhóm xã hội hay từng con người hoạt động, đấu tranh với những điều
kiện gây khó khăn và cản trở cho sự tồn tại và phát triển của mình. Đó chính
là những động cơ khách quan do quan hệ sản xuất quyết định, nó độc lập với
ý chí và nhận thức của con người, không thể tự xóa bỏ hay thay đổi được. Cơ
sở của lợi ích kinh tế là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất phản ánh qua các
quan hệ lợi ích.
Việc thực hiện lợi ích cá nhân của người công nhân cần phải gắn bó với
việc thực hiện lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Nó phản ánh việc thống
nhất tổ chức các mối quan hệ giữa các thành viên của xã hội trong hoạt động
lao động sản xuất, hướng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Lợi ích của cá
nhân xét về chủ thể, đó là lợi ích của một con người cụ thể, bao gồm các yếu
tố tự nhiên, xã hội và yếu tố lịch sử. Trước hết, lợi ích của cá nhân, đó là sự
quan tâm tự nhiên đến các nhu cầu vật chất và tinh thần thiết thân hằng ngày.
Và từ đó họ có sự thôi thúc nội tại, thể hiện ra những hành động biểu hiện nhu
cầu đó. Vì thế lợi ích trở thành động lực cơ bản nhất cho mọi hoạt động của
con người. Lợi ích là điều nhạy cảm đặc biệt đối với con người trong hoạt
động của nó. Trong kinh tế thị trường, sức lao động trở thành hàng hóa và
xuất hiện thị trường sức lao động, người lao động càng ý thức về lợi ích thiết

1



thân của họ nhiều hơn, đòi hỏi chính sách và cơ chế quản lý phải hướng vào
việc khơi dậy những thuộc tính tự nhiên của con người, biến nó thành động
lực thúc đẩy hoạt động của con người có hiệu quả hơn.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta có
những đặc điểm cơ bản: sản xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
yếu kém, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Mối quan hệ giữa các
lợi ích tạo thành một tổng thể phức tạp, bao gồm những nhu cầu khác nhau
tương ứng với các chủ thể lợi ích khác nhau. Chính sách kinh tế - xã hội xã
hội chủ nghĩa đặc biệt quan tâm và đảm bảo việc thực hiện lợi ích kinh tế của
người công nhân. Lợi ích kinh tế của người công nhân đóng vai trò quan
trọng trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Nó là đặc trưng tiêu biểu cho lợi
ích của toàn xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lao động chưa trở thành nhu cầu tự nhiên của con
người, chưa mang tính tự nguyện tự giác vì lợi ích của toàn xã hội, nó vẫn còn
là một phương tiện sinh sống thì hành vi thái độ của con người trong hoạt
động kinh tế - xã hội phụ thuộc một phần rất quan trọng vào lợi ích mà họ đạt
được qua hoạt động của mình. Đồng thời, khi trình độ sản xuất còn thấp, đời
sống của người công nhân còn nhiều khó khăn, lợi ích kinh tế chính là động
lực nội tại, trực tiếp nhất kích thích họ tích cực tham gia sản xuất mà qua đó
góp phần cho xã hội phát triển. Do đó, để người công nhân an tâm sản xuất,
phát huy sáng kiến, tài năng cần phải chú ý đảm bảo lợi ích chính đáng của
họ. Nếu lợi ích chính đáng không được thỏa mãn họ sẽ có những phản ứng
tiêu cực dưới dạng này hoặc dạng khác, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản
xuất và thiệt hại về kinh tế, thậm chí có khi ảnh hưởng đến chính trị.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, lợi ích kinh tế không chỉ dựa trên
hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như trước đây, mà dựa trên sự đa
dạng hóa các hình thức sở hữu tồn tại đan xen nhau, phụ thuộc lẫn nhau
nhưng chúng có mâu thuẫn với nhau, bắt nguồn từ sự thỏa mãn nhu cầu của

2


các chủ thể khác nhau. Để hạn chế những mâu thuẫn này, vai trò của nhà
nước là cần thiết. Qua cơ chế, chính sách, luật pháp mà nhà nước tạo môi
trường lành mạnh cho mỗi người trong sản xuất, trong quan hệ lợi ích.
Từ khi thực hiện nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường
ở nước ta hiện nay, tồn tại một loại hình quan hệ lao động mới bao gồm hai
đối tượng: người chủ và người làm thuê, C.Mác gọi là: lao động làm thuê và
tư bản. Người chủ có thể trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, cũng có thể
thông qua trung gian người khác để thay mặt mình điều hành lao động làm
thuê, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, gọi chung đó là người sử dụng
lao động. Đối tượng của tư bản trong quan hệ lao động để tạo ra giá trị mới là
người công nhân làm thuê. Họ bán sức lao động của mình cho nhà tư bản,
tham gia vào quá trình sản xuất. Người lao động và người sử dụng lao động
tạo nên quan hệ lợi ích vừa đối lập nhau vừa bổ sung phụ thuộc lẫn nhau. Khi
lợi ích của người lao động tăng lên thì lợi nhuận của người chủ tư liệu sản
xuất bị giảm xuống; nhưng mặt khác, khi lợi ích của người lao động được
quan tâm đúng với sức lao động họ đã bỏ ra, quyền lợi chính đáng của họ
được thỏa mãn thì họ sẽ tích cực, năng động và tạo ra năng suất lao động cao
hơn, do đó lượng giá trị mới được tạo ra càng tăng nhiều hơn giá trị sức lao
động mà họ đã bán. Khi đó lợi ích của người mua sức lao động nghĩa là của
nhà tư bản sẽ đồng thời tăng lên.
Ở loại hình doanh nghiệp FDI, mối quan hệ lao động dựa trên cơ sở sức
lao động và tư liệu sản xuất tách rời nhau. Nhưng để tạo ra việc làm cho
người công nhân và tranh thủ vốn của tư bản trong và ngoài nước, cũng như
kinh nghiệm về tổ chức sản xuất kinh doanh của họ vào việc phát triển kinh tế
đất nước, ở chừng mực nhất định ta thừa nhận quan hệ bóc lột sức lao động,
nhưng đây là hình thức bóc lột cần thiết có lợi ích cho quốc gia và cho người
công nhân trong thời kỳ quá độ.


3


Để kinh tế quốc gia phát triển, lợi ích kinh tế của người công nhân được
bảo đảm đồng thời doanh nghiệp phát triển, mối quan hệ giữa người sử dụng
lao động và người công nhân cần được thực hiện đúng đắn trong khuôn khổ
pháp luật nhà nước và phù hợp yêu cầu khách quan. Do đó, nghiên cứu thực
trạng việc thực hiện lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp FDI ở MĐNB
nước ta hiện nay để từ đó tìm ra những quan điểm, phương hướng thích hợp
góp phần cho những cơ quan chức năng điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế thực
hiện lợi ích của công nhân trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta là
việc làm cần thiết cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn. Trong khuôn khổ đề tài
này, tác giả chọn địa bàn MĐNB, nơi công nghiệp đang phát triển mạnh mẽ,
tập trung nhiều công nhân và nhiều doanh nghiệp FDI để nghiên cứu.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài :
Nghiên cứu về lợi ích kinh tế từ trước đến nay đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm tìm hiểu từ khai thác các quan niệm lý luận mang tính nguyên
tắc của Mác, Angghen, Lênin, Hồ Chí Minh đến tham khảo các quan niệm, tư
tưởng của nhiều nhà lý luận ngoài chủ nghĩa Mác kể cả trước đây và hiện nay.
Ngoài ra việc tìm hiểu những quan hệ các lợi ích của các chủ thể khác nhau ở
các thời kỳ xã hội cũng là đề tài từng được nhiều người quan tâm làm sáng tỏ.
Có thể khái lược một số công trình chuyên khảo liên quan như sau :
– Về sự kết hợp các lợi ích kinh tế của tác giả Vũ Hữu Ngoạn và Khổng
Doãn Hợi do Nhà xuất bản Thông tin lý luận Hà Nội xuất bản năm 1983. Tác
giả tập trung làm rõ lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về vấn đề
lợi ích kinh tế, từ cơ sở này làm rõ cơ cấu lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ.
– Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vấn đề nguồn gốc và động
lực của Giáo sư Lê Hữu Tầng do nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội xuất
bản vào năm 1991. Tác phẩm này phân tích về các mâu thuẫn của thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và biện chứng của quá trình giải quyết nó
4


trong thời kỳ này chính là tạo động lực cho sự phát triển. Tác giả cho rằng
động lực cơ bản nhất trong thời kỳ quá độ là tác động đến nhu cầu lợi ích để
kích thích tính tích cực của người lao động.
– Lợi ích. Động lực của sự phát triển xã hội, tác giả Nguyễn Linh
Khiếu do nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội xuất bản năm 1999. Trong tác
phẩm này tác giả làm rõ lợi ích và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã
hội, quan hệ biện chứng các lợi ích chủ yếu với tính cách là động lực của sự
phát triển và vấn đề sử dụng vai trò động lực trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
– Dân chủ và lợi ích kinh tế. Những động lực thúc đẩy sự nghiệp đổi
mới của Giáo sư Vũ Hữu Ngoạn đăng trên tạp chí Thông tin lý luận tháng
5/1991 đề cập đến quan hệ giữa dân chủ và lợi ích kinh tế và quan hệ này là
một trong những động lực cơ bản thúc đẩy sự nghiệp đổi mới.
– Đổi mới cơ chế và chính sách quản lý tiền lương trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam của Giáo sư Tiến sỹ Tống Văn Đường, nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1995. Trong tác phẩm này tác giả nghiên
cứu về thực trạng và hạn chế trong việc thực hiện chính sách trả lương cho
người lao động trong cơ chế thị trường, từ đó đề xuất một số giải pháp đổi
mới cơ chế và chính sách theo hướng đảm bảo lợi ích kinh tế phù hợp để kích
thích tính tích cực của họ.
– Quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Giáo sư Vũ Chấn đăng trên tạp
chí Quốc phòng toàn dân số 1/1995, trong đây khái quát về quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể, vận dụng vào nhận thức và thực hiện ở nước ta
trong cơ chế kinh tế thị trường một cách thích hợp và hiệu quả.
– Về động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, đề tài khoa học do Giáo

sư Lê Hữu Tầng chủ biên. Do nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm
5


1997, đề tài này xác định các động lực cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong đó việc giải quyết nhu cầu lợi ích của người lao
động được coi là động lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu, tác giả xác định đề tài nghiên cứu
của mình đã chọn có yếu tố mới, không trùng lắp với những công trình mà
các tác giả khác đã thực hiện.
3- Mục tiêu.
Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiển thực hiện lợi ích của
công nhân trong các doanh nghiệp FDI ở địa bàn MĐNB nhằm xây dựng một
số quan điểm cơ bản và đề xuất những phương hướng chính giải quyết hợp lý,
đúng đắng lợi ích kinh tế của người công nhân trong doanh nghiệp FDI ở
MĐNB nói riêng và ở nước ta nói chung.
4- Nhiệm vụ nghiên cứu :
_ Trình bày khái quát quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về lợi ích và lợi
ích kinh tế của công nhân.
– Tìm hiểu về vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện và điều chỉnh
lợi ích kinh tế của công nhân trong doanh nghiệp FDI ở nước ta hiện nay.
– Làm rõ thực trạng lợi ích kinh tế của công nhân trong doanh nghiệp
FDI ở MĐNB hiện nay.
– Xây dựng một số quan điểm về giải quyết lợi ích kinh tế của công
nhân trong FDI ở MĐNB hiện nay.
– Đề xuất một số phương hướng cơ bản để thực hiện hợp lý, đúng đắn
lợi ích kinh tế của công nhân trong loại hình doanh nghiệp FDI ở MĐNB hiện
nay.
5- Phạm vi nghiên cứu :
Một số doanh nghiệp FDI ở MĐNB.

6


Những quy định pháp luật cơ bản về trả lương và thu nhập của công
nhân đang được thực hiện.
6- Phương pháp triển khai đề tài :
Phương pháp luận : Đề tài dựa trên các phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tiếp cận và giải quyết vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp như sau :
– Lôgic và lịch sử: Từ thực trạng của vấn đề để tìm ra sự tác động qua
lại của việc thực hiện lợi ích của công nhân với những bức xúc của công nhân
hiện nay.
Từ thực trạng của vấn đề để tìm ra sự tác động qua lại của việc thực
hiện lợi ích của công nhân với những bức xúc của công nhân hiện nay.
Từ thực trạng của vấn đề để tìm ra sự tác động qua lại của việc thực
hiện lợi ích của công nhân với những bức xúc của công nhân hiện nay.
– Phân tích và tổng hợp : Phân tích những quan niệm khác nhau về lợi
ích và vai trò của lợi ích kinh tế từ đó xây dựng nhận thức đúng đắn về lợi ích
kinh tế của người công nhân trong doanh nghiệp FDI hiện nay.
- Khảo sát, tìm hiểu, so sánh thu nhập của công nhân trong một số
doanh nghiệp FDI khác nhau. So sánh thu nhập của công nhân trong một số
doanh nghiệp FDI với nhu cầu đời sống thiết yếu của họ và của toàn xã hội.
– Phỏng vấn, phát phiếu điều tra một số công nhân ở một số doanh
nghiệp FDI, từ đó tìm hiểu nhu cầu lợi ích kinh tế chính đáng của họ.
7- Cái mới của đề tài:
- Góp phần làm sáng rỏ cơ sở khoa học giải quyết lợi ích kinh tế của
công nhân.

7



- Trên cơ sở khái quát thực trạng, xây dựng quan điểm và phương
hướng có tính chất định hướng cho nhận thức và thực hiện lợi ích kinh tế của
công nhân trong doanh nghiệp FDI ở MĐNB hiện nay.

8


CHƯƠNG 1
LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ QUAN HỆ LỢI ÍCH TRONG DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI.
1.1. Quan niệm về lợi ích và lợi ích kinh tế
1.1.1. Quan niệm về lợi ích
Trong xã hội và đặc biệt là trong nền sản xuất xã hội, tất cả mọi người
đều quan tâm đến những nhu cầu và lợi ích. Các tác động của lợi ích biểu hiện
ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực. Việc sử dụng có ý thức “các công cụ đòn bẩy
kinh tế” - thực chất là các lợi ích kinh tế trong việc quản lý trực tiếp, giúp
chúng ta một phương tiện tác động rất tinh tế và hết sức mạnh mẽ đối với sản
xuất- kinh doanh và phát triển kinh tế- xã hội.
Dưới sự tác động của lợi ích, thái độ của con người đối với thế giới
xung quanh có được tính hướng đích. Lợi ích là động lực bên trong làm
chuyển động các hành vi của con người. Việc phân tích một cách toàn diện
hiện tượng lợi ích đưa ra cơ sở, khả năng cho việc giải thích các nguyên nhân
thực sự của các khát vọng cuộc sống của con người và động cơ hành vi của
con người. Nhiều nhà triết học Pháp thế kỷ 18 coi lợi ích là động lực quan
trọng nhất của hành vi con người. Tuy nhiên họ chưa lý giải được cái gì sinh
ra lợi ích của con người và sinh ra sự xung đột hay “kết hợp hi hịa” giữa các
lợi ích.
Kant coi lợi ích là cái nhờ nó lý trí trở thành thực tiễn, tức trở thành
nguyên nhân xác định ý chí. Do đó, người ta chỉ nói về thực thễ(con người)

có lý trí, rằng con người đó thể hiện lợi ích đối với cái gì đó; những người bị
mất lý trí chỉ có động lực cảm giác. Như vậy mọi người trong các hành vi của
mình trước hết tuân theo các lợi ích đạo đức, các lợi ích bổn phận.
Hêghel sử dụng một cách rộng rãi phạm trù lợi ích để phân tích hành vi
của con người, để làm sáng tỏ các sức mạnh, động lực của sự phát triển xã
9


hội. Vì lợi ích đóng vai trò quan trọng trong sự vận động của lịch sử, cho nên
ông đề cao ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề về sự kết hợp các lợi ích chung
và các lợi ích riêng. Ông cho rằng, Nhà nước sẽ tiện lợi và tự mình sẽ rất
mạnh, nếu như lợi ích riêng của công dân được thống nhất với lợi ích chung,
nếu như lợi ích này được thỏa mãn và thực hiện trong lợi ích khác. Dù có
những mâu thuẫn nhất định, nhưng lý luận của Hêghel về lợi ích đánh dấu
một bước phát triển lớn trong việc giải quyết vấn đề đó.
C. Mác và Ph. Ang- ghen đánh giá cao quan niệm về kết hợp lợi ích
của Hêghel nhưng phê phán một cách gay gắt quan điểm cho rằng Nhà nước
điều hòa các thành viên của xã hội dân sự lại với nhau trên lập trường duy tâm
về xã hội vì “bỏ qua” bản chất giai cấp của nhà nước và những điều kiện thực
tiễn lịch sử xã hội. Hai ông cho rằng, chính lợi ích là cái liên kết các thành
viên của xã hội thị dân lại với nhau. Lợi ích là thuộc tính tất yếu của con
người và nó gắn kết các thành viên xã hội dân sự lại với nhau1. Trong điều
kiện của nhà nước bóc lột, thuộc tính đó có thể thể hiện và thể hiện ở “hình
thức xa lạ” là nhà nước và hệ tư tưởng của nhà nước do bản chất giai cấp và
định hướng chính trị của mình làm sai lệch nội dung hiện thực và mối tương
quan giữa các lợi ích, do vậy làm mờ đi mối quan hệ thực tế giữa mọi người
được hình thành trên cơ sở của các quan hệ sản xuất tồn tại trong xã hội.
Ngoài ra C. Mác và Ph. Ăng-ghen còn phân biệt tư tưởng với lợi ích và làm
sáng tỏ mối quan hệ hiện thực giữa chúng: “ một khi tư tưởng tách rời “ lợi
ích” thì nhất định nó sẽ tự làm nhục nó”2. Xuất phát từ luận điểm đó các ông

đi đến kết luận rằng tư tưởng chỉ là sự phản ánh lợi ích giai cấp và sức mạnh
của tư tưởng tùy thuộc vào việc nó gắn liền sâu sắc đến mức nào với các lợi
ích, ở mức độ như thế nào phản ánh lợi ích chung.

1

2

C.Mác và Ph. Ang- ghen.Toàn tập,T2,Nxb. Sự thật.H.1983,tr.184
Sđd tr. 126
10


Lợi ích thể hiện với tư cách là sức mạnh động lực của những thay đổi
xã hội. Chúng được hình thành trên cơ sở của các quan hệ sản xuất, trao đổi
và phân phối của cải vật chất tồn tại trong xã hội đó và do vậy chúng được
thay đổi cùng với những thay đổi của các quan hệ đó. Các quan hệ kinh tế của
từng xã hội được biểu hiện trước hết dưới tư cách là các lợi ích.
Những luận điểm lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin về lợi ích, về ý nghĩa và vai trò của lợi ích trong sự phát triển xã hội là
cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu và nhận thức nó.
Ở giai đoạn phát triển hiện nay, lợi ích là một trong những vấn đề có ý nghĩa
rất lớn đối với hoạt động của con người cụ thể, đối với tập thể và đối với các
chủ thể xã hội khác nhau.
Trong lĩnh vực chính trị kinh tế học có nhiều công trình nghiên cứu về
lợi ích. Tuy vậy ở đây vẫn không có sự thống nhất trong quan điểm. Quan
điểm thứ nhất phủ định tính chất khách quan của các lợi ích. Cho rằng lợi ích
là sự phản ánh trong ý thức của mọi người các nhu cầu phát triển khách quan
của họ gắn liền với các điều kiện của tồn tại xã hội hoặc lợi ích kinh tế là
hành vi hoạt động của ý thức thuộc lĩnh vực quan hệ ý chí hay theo bản chất
của mình lợi ích kinh tế là yếu tố tâm lý, là sự phản ánh tư tưởng của cá nhân

(của xã hội ) về hệ thống các quan hệ sản xuất khách quan kích thích cá nhân
thực hiện những hành vi nhất định.
Quan điểm thứ hai, khi coi lợi ích là phạm trù khách quan đồng thời
khẳng định rằng chủ thể mang lợi ích là con người và do vậy quá trình thực
hiện các lợi ích chỉ có thể được tiến hành trong trường hợp nhận thức được
chúng. Do đó, họ cho rằng lợi ích là sự thống nhất của cái khách quan và cái
chủ quan có cơ sở khách quan nhất định. Nhưng lợi ích tùy thuộc rất nhiều
vào người mang lợi ích – con người. Lợi ích không tồn tại ở bên ngoài con
người, bên ngoài giai cấp, bên ngoài ý thức của con người. Ở ý nghĩa này, lợi

11


ích được thể hiện ở hình thức chủ quan. Tuy vậy, lợi ích không phải phạm trù
chủ quan. Không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mặc dù lợi ích được thể hiện
ở hình thức chủ quan, bởi vì nội dung và nguồn gốc của lợi ích là khách quan.
Khi thừa nhận lợi ích là hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh tế, những
người theo quan điểm này còn khẳng định rằng hình thức đó được tạo ra bởi ý
thức, bởi chức năng phản ánh của con người và do đó thuộc tính phản ánh tùy
thuộc cả vào ý thức lẫn vào kinh nghiệm kinh tế –xã hội của chủ thể kinh
doanh và của những người khác tham gia các quá trình kinh tế. Do đó, trong
bản chất phức tạp của các lợi ích kinh tế cùng với thuộc tính khách quan có cả
thuộc tính chủ quan.
Trong lĩnh vực xã hội học cũng có nhiều ý kiến khác nhau về thực chất
và bản chất của lợi ích. Quan điểm chiếm ưu thế nhất là quan điểm cho rằng
lợi ích có cơ sở khách quan. Một số tác giả cho rằng lợi ích là hiện tượng của
trật tự chủ quan. Số tác giả khác lại quan niệm rằng lợi ích là sự thống nhất
biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan; cái khách quan là địa vị của
chủ thể, còn cái chủ quan là sức mạnh động lực tư tưởng : sự mong muốn,
khát vọng, động cơ của hoạt động. Theo quan niệm này thì sức mạnh động

lực tư tưởng là yếu tố cần thiết của lợi ích. Do đó, con người vận động bằng
các lợi ích của mình, đồng thời có thể hoạt động trái với lợi ích vì lợi ích là
cái tồn tại khách quan có thể được nhận thức đúng có thể không được nhận
thức( tự mâu thuẫn, không logic)1.
Trong cuốn “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vấn đề nguồn
gốc và động lực”, tác giả Lê Hữu Tầng có một sự trình bày khá sâu sắc về
vấn đề lợi ích. Theo ông: phương tiện thõa mãn nhu cầu, đối với chủ thể hành
động chính là lợi ích. Vậy lợi ích gắn bó hết sức chặt chẽ với nhu cầu …. Lợi
ích không trùng với nhu cầu nhưng nó cũng không hoàn toàn tách biệt với
1

PGS. TS Luật học Võ Khánh Vinh. Lợi ích xã hội và pháp luật. Nxb Cand. H. 2003. Tr 920).
12


nhu cầu. Lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và vì lẽ đó nó chỉ có nghĩa là lợi ích
khi được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu … Xét về mặt bản chất, lợi ích
chính là mối quan hệ- quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên
ngoài với nhu cầu của chủ thể; còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thõa mãn
nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu … Nhu cầu quyết định đối với chủ thể lợi ích,
do đó nó là cơ sở của lợi ích, còn lợi ích ngược lại, xuất phát từ nhu cầu, dựa
tên nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu.
Tính chất động lực của nhu cầu được thực hiện không phải một cách
trực tiếp, mà thông qua khâu lợi ích, còn lợi ích là khâu trực tiếp hơn cả trong
việc làm hình thành động cơ tư tưởng thúc đẩy con người ta hành động nhằm
giành lấy cái thỏa mãn nhu cầu … Cùng với nhu cầu, lợi ích là một trong
những động lực cực kỳ quan trọng trực tiếp thúc đẩy hành động của con
người và thông qua đó gây nên những biến đổi trong tiến trình vận động của
lịch sử1.
Trên quan niệm triết học, tiến sỹ Nguyễn Linh Khiếu cho rằng: quan hệ

lợi ích là mối quan hệ xã hội khách quan giữa các chủ thể có cùng nhu cầu và
cùng đối tượng thỏa mãn nhu cầu như nhau trong việc thực hiện nhu cầu ấy
… Đối tượng của quan hệ lợi ích chính là lợi ích của các chủ thể tham gia
quan hệ này. Vì thế cũng có thể nói lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu … Cố
nhiên, không phải quan hệ nhu cầu nào cũng làm nảy sinh quan hệ lợi ích. Chỉ
những nhu cầu tất yếu, nhu cầu cấp bách mà những nhu cầu ấy đang ở trong
tình trạng có nguy cơ không thể thỏa mãn được mới làm nảy sinh quan hệ lợi
ích ….Vậy, lợi ích là một sự vật hay một hiện tượng khách quan biểu hiện
những mối quan hệ tất yếu của con người và dùng để thỏa mãn những nhu cầu
cấp bách của họ trong một hoàn cảnh sinh sống nhất định.

1

Lê Hữu Tầng. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Vấn đề nguồn gốc và động lực.
Nxb Khxh. H. 1991. Tr 40 -42.
13


Xét cho cùng, lợi ích chính là những phương thức, phương tiện tối ưu
mà chủ thể lựa chọn nhằm đạt được các nhu cầu của mình, vì chủ thể giành
lấy chúng và sử dụng chúng tạo ra những điều kiện tốt nhất để trực tiếp thực
hiện các nhu cầu cấp bách của bản thân. Trong ý nghĩa này, lợi ích là những
cái đích cụ thể của những khâu trung gian tất yếu trong quá trình hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu sống còn của con người khi những nhu cầu ấy rơi vào
những hoàn cảnh không thể trực tiếp thực hiện được…., cùng với nhu cầu, lợi
ích trở thành động lực trực tiếp thôi thúc chủ thể hành động… Như vậy, bằng
cách này hay cách khác, sự hoạt động theo đuổi lợi ích của các cá nhân riêng
lẻ trong quá trình thực hiện nhu cầu của họ đã tạo nên sự vận động của một
tập thể hay của cả một cộng đồng xã hội theo những xu hướng nào đó1. Kết
quả là đã hình thành nên những xu hướng vận động đa dạng, khác nhau và có

khi đối lập nhau, do vậy, đã lôi kéo xã hội vận động và phát triển theo những
xu hướng khác nhau.
Thực tế cho thấy, bất kỳ ai là người bình thường thì đều hoạt động có ý
thức, có mục đích vì những lợi ích ( vật chất và tinh thần) của mình và của
cộng đồng. Một sự thật lịch sử nữa cũng chắc chắn là đúng, đó là: loài người
đã nẩy sinh biết bao con người lãnh đạo - quản lý tài giỏi được nhân dân kính
trọng, dù họ không nghiên cứu khoa học có bài bản vấn đề quy luật xã hội,
trong đó có vấn đề lợi ích... Về sự thật lịch sử này thì chính những người lãnh
đạo - quản lý xã hội tài giỏi đó đã thực sự “làm đúng quy luật xã hội về lợi
ích, dù chưa nghiên cứu khoa học về lợi ích (điều này được triết học ghi nhận
và phân biệt rõ về “tư duy kinh nghiệm” và “tư duy lôgich - khoa học”).
Trong thời đại văn minh - kể từ khi có “sản xuất công nghiệp” cách đây
vài thế kỷ, “tư duy kinh nghiệm” vẫn luôn có và cần, nhưng ngày càng được

1

Nguyễn Linh Khiếu. Lợi ích – Động lực phát triển xã hội. Nxb Khxh. H.1999. Tr 50.

14


khoa học “nâng lên” thành tư duy lôgích - khoa học, tức là tư duy lý luận,
trong đó có lý luận về lợi ích. Do đó, nhân loại, các nhà khoa học và nhất là
người lãnh đạo quản lý xã hội không thể không có tư duy lý luận, trong đó có
lý luận về lợi ích như một vấn đề xuyên suốt nội dung, sự hình thành và phát
huy tác dụng của tất cả các quy luật xã hội. Không thể kéo dài mãi hiện
tượng người lãnh đạo - quản lý xã hội lại không có trình độ lý luận nhất là lý
luận chính trị - xã hội. Nếu họ chỉ hoạt động theo nhiệt tình, đạo đức và kinh
nghiệm... mà thôi là điều đáng buồn và đáng lo ngại.
Song, ý thức của mỗi con người khi hành động không thể là ý thức về

cái gì khác mà chủ yếu là “ý thức về những lợi ích” của việc mình làm (trừ
trạng thái “vô thức” của con người khi có những hành động nào đó).
Theo “mạch lôgích” nêu trên thì, nếu xét riêng vấn đề lợi ích, chúng ta
thấy có cả 2 “cặp” nhân tố cơ bản nhất song trùng với nhau: đó là khách quan
và chủ quan; vật chất và tinh thần. Không có đủ các “cặp” nhân tố cơ bản
nhất đó thì không thể hình thành và thực hiện lợi ích của mỗi con người và
của cả loài người. Do đó mà cũng không có sự hình thành của bất kỳ một quy
luật xã hội nào.
Một cách khái quát nhất về mặt lý luận, ta có thể chú ý mấy vấn đề cơ
bản sau đây về lợi ích:
1) Trong xã hội có vô vàn loại lợi ích đã, đang và sẽ nẩy sinh, tác động
lẫn nhau và không ngừng phát triển (lợi ích của từng người, lợi ích của cộng
đồng và của cả xã hội; ngay trong mỗi người cũng có vô vàn loại lợi ích v.v)
2) Lợi ích là một vấn đề tự nhiên và xã hội rất cụ thể, không hề trừu
tượng và liên tục diễn ra trong xã hội. Lợi ích bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu.
3) Mỗi lợi ích đều có một chủ thể xác định (gọi là “chủ thể lợi ích” - đó
chỉ là “chủ thể người”: như lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích dân tộc, lợi

15


ích giai cấp, lợi ích quốc gia, lợi ích nhân loại tức là những lợi ích riêng và lợi
ích chung “lợi ích trực tiếp” của chủ thể hoặc “lợi ích đại diện” v.v…).
4) Xét về các lĩnh vực: có lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích
chính trị, lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá - xã hội v.v…
5) Xét về thời gian: có lợi ích cơ bản - lâu dài, lợi ích chủ yếu - trước
mắt…
6) Có lợi ích thống nhất, có lợi ích mâu thuẫn, triệt tiêu nhau (hay “mâu
thuẫn về lợi ích”; “đối kháng lợi ích”).
7) Sự hình thành và mối quan hệ giữa các lợi ích trong xã hội loài

người (hay trong quốc gia, trong cộng đồng) là khách quan - do đó mà sự
hình thành và tác động của các quy luật xã hội cũng là khách quan. Bời vì,
vấn đề lợi ích là mắt khâu xuyên suốt quá trình hình thành và tác động của
mọi quy luật xã hội- quy luật của các mối quan hệ giữa người với người.
8) Song, sự “kết hợp giữa các lợi ích” (đúng hay sai) lại chủ yếu là do
những nhân tố chủ quan (của các chủ thể lợi ích; nhất là của những ai lãnh
đạo – quản lý xã hội).
9) Không ai có thể dùng ý chí chủ quan của mình mà mong muốn thực
hiện lợi ích riêng một cách tuyệt đối, bất chấp các chủ thể khác, bất chấp xã
hội (cũng giống như không ai có thể “bất chấp” quy luật khách quan của xã
hội). Hêghen từng có tư tưởng đúng đắn khi dùng hình tượng rằng: trong quan
hệ xã hội, ai cũng muốn lợi ích của mình được thực hiện trọn vẹn, nhưng rốt
cuộc không ai thực hiện được đúng ý mình mà dường như lợi ích của mỗi
người đều bị ràng buộc, bị “pha loãng” ra bởi xã hội!
10) Lợi ích vấn đề có ý nghĩa là khâu xuyên suốt quá trình hình thành
và phát huy tác dụng của tất cả các quy luật xã hội. Lợi ích là động lực gốc là “nguyên động lực” là “động lực của mọi động lực” trong sự tồn tại, phát
triển của mọi xã hội và của toàn nhân loại. Do đó “kết hợp đúng đắn các lợi
16


ích” sẽ tạo ra tổng hợp động lực cho phát triển xã hội; “xung đột” hoặc “triệt
tiêu” giữa các lợi ích sẽ là triệt tiêu động lực gốc của sự phát triển xã hội.
Đây cũng là cơ sở rất quyết định để vận dụng và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của công nhân với các chủ doanh nghiệp;
giữa công nhân và với Nhà nước… khi nghiên cứu đề tài này.
Có thể sơ đồ hoá về “chu trình mở” của việc hình thành và phát triển các lợi
ích như sau:

17



Các sản phẩm tự

Các chủ thể

Các nhu cầu của

Các chủ thể

nhiên và xã hội

người ý thức về

các chủ thể người

người ý thức về

(1)

các sản phẩm đó

Các lợi ích của

Các chủ thể

Thôi thúc hoạt

Trong điều kiện

các chủ thể người


người ý thức về

động của các chủ

lịch sử cụ thể

các lợi ích

thể người để thực

các nhu cầu

hiện lợi ích
(động lực gốc của xã hội)

Các lợi ích được

Cùng đạt được

Những sản phẩm

(một chu kỳ

thực hiện tối ưu

những sản phẩm

mới của tự nhiên


mới…)

mới

và xã hội (2)

Cứ như vậy liên tiếp, những sản phẩm mới của tự nhiên và xã hội lại
làm những chủ thể người ý thức về chúng để nẩy sinh “những nhu cầu mới” –
“những lợi ích mới, những động lực mới” không ngừng. Vì thế mà xã hội và
con người, loài người không ngừng phát triển cao hơn, tiến bộ, văn minh hơn
(cải tạo cả tự nhiên và xã hội không ngừng).
Bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của mỗi con người, mỗi cộng đồng
người (doanh nghiệp, giai cấp, dân tộc, quốc gia) đều “vì những lợi ích” nào
đó. Học thuyết Mác-Lênin có quan điểm đúng đắn, cho đến nay và còn lâu
nữa vẫn còn nguyên giá trị, rằng: trong xã hội có giai cấp thì “đấu tranh giai
18


cấp là động lực của sự phát triển xã hội”. Suy cho cùng, đấu tranh giai cấp
(hay “liên minh giai cấp”) đều vì những lợi ích nào đó của mỗi giai cấp v.v
Điều này cũng chứng tỏ, lợi ích là “động lực của mọi động lực xã hội” (kể cả
những hoạt động “thuần tuý tinh thần” như nghiên cứu triết học, toán học, văn
học, nghệ thuật cũng là vì những lợi ích của con người cả lợi ích vật chất lẫn
tinh thần chỉ có điều cần chú ý phân biệt rõ là: những lợi ích đó theo xu
hướng có giá trị tiến bộ và văn minh nhân loại hay phản giá trị, phản tiến bộ
và văn minh)1.
Để hiểu đúng về lợi ích, điều có ý nghĩa quan trọng là xác định mối liên
hệ chặt chẽ giữa lợi ích của con người với các nhu cầu của họ. Nội dung của
lợi ích là các nhu cầu phát triển khách quan của con người xuất phát từ các
điều kiện tồn tại xã hội của họ. Những cái gì cần thiết khách quan đối với đời

sống và sự phát triển của xã hội, giai cấp, con người, đối với việc làm thỏa
mãn các nhu cầu và sự cần thiết của họ tạo thành đối tượng lợi ích của họ.
Nhu cầu của con người là cơ sở lợi ích của họ, tạo thành nội dung của
lợi ích. Nhưng nhu cầu và lợi ích là những hiện tượng không đồng nhất với
nhau, Lợi ích bao gồm ở mình không chỉ nhu cầu mà còn cả phương thức và
biện pháp làm thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu xã hội và lợi ích xã hội dù rằng có
những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau nhưng là những hiện tượng khác
nhau cơ bản. Cơ sở hiện thực của lợi ích là quá trình lao động khi đó các nhu
cầu xã hội ( và nhu cầu nói chung) có cơ sở là hoạt động sống của cơ thể xã
hội. Như vậy lợi ích là sự thể hiện quan hệ khách quan của mọi người, của
tập thể, của giai cấp … đối với các hiện tượng và đối tượng của hiện thực bao
quanh họ- những hiện tượng và đối tượng là cơ sở tồn tại và phát triển của họ
với tư cách là các thành viên của xã hội. Các quan hệ đó của các chủ thể xã

1

PGS. TS. Nguyễn Đức Bách, Tham luận viết cho đề tài.

19


hội được quyết định bởi các điều kiện vật chất và tinh thần của xã hội. Do đó,
tính khách quan của lợi ích xã hội được thể hiện không phải ở địa vị của chủ
thể đó, không phải ở nhu cầu mà là ở quan hệ tồn tại một cách khách quan của
chủ thể đó đối với hiện tượng, đối tượng của hiện thực bao quanh chủ thể đó.
Các hiện tượng và đối tượng được phản ánh trong ý thức của chủ thể, với tính
tất yếu đòi hỏi phải thực hiện những hành vi nhất định để làm thỏa mãn các
nhu cầu có ý nghĩa về mặt xã hội. Điều đó cho thấy, lợi ích được biểu hiện
vơi tư cách là sự thể hiện trực tiếp các điều kiện vật chất của sự tồn tại và địa
vị xã hội của cá nhân, tập thể, giai cấp và rằng lợi ích liên quan đến những

vấn đề của tính nhân quả xã hội, của các hoạt động xã hội của các nhóm xã
hội.
Sự đa dạng ý kiến như trên đã khái quát cho thấy vấn đề lợi ích rất
được các nhà khoa học xã hội quan tâm, lý giải và còn có nhiều ý kiến khác
nhau, dựa trên cách tiếp cận khác nhau. Nhưng điều hiển nhiên không thể
tranh cãi : lợi ích là sự thể hiện quan hệ khách quan của mọi người, của tập
thể, của giai cấp … đối với các hiện tượng và đối tượng bao quanh họ, những
hiện tượng và đối tượng là cơ sở tồn tại và phát triển của họ với tư cách là
các thành viên của xã hội. Lợi ích là hiện tượng tồn tại một cách hiện thực, có
bản chất riêng được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Lợi ích là cái thúc đẩy ( động lực) cá nhân, tập thể,xã hội … hành động
(phương tiện) để thỏa mãn nhu cầu. Lợi ích chính là cơ sở của sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội.
Những giá trị của quan điểm Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta
về lợi ích mà hiện nay chúng ta cần kế thừa, vận dụng đúng đắn, sáng tạo
nhất là trong các doanh nghiệp có công nhân.

20


C.Mác và Ph.Ang-ghen đã chỉ rõ mối quan hệ giữa những hành động
của con người với những suy nghĩ (ý thức) với những nhu cầu của họ như
sau:
“Người ta thường quen giải thích rằng hành vi của mình là do tư duy
của mình quyết định, trong khi đó, lẽ ra người ta phải giải thích rằng hành vi
của mình là do nhu cầu của mình quyết định”. Quả rằng, nếu chỉ dừng lại ở “ý
thức quyết định” thì sa vào duy tâm xã hội. Song, nếu làm rõ việc con người
“ý thức về những nhu cầu, những lợi ích của mình…” thì lại là quan điểm
duy vật lịch sử.
Hoặc trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845), C.Mác cũng đã chỉ rõ

về mối quan hệ giữa các sản phẩm của sản xuất, của tự nhiên tới những nhu
cầu sống của con người, và tới hành động sản xuất để thoả mãn nhu cầu, lợi
ích của mình trong lịch sử, rằng: “Muốn sống được thì trước hết cần phải có
thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ cần thiết nữa. Như vậy,
hành động lịch sử đầu tiên là sự sản xuất ra những tư liệu thoả mãn những
nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất... một điều kiện cơ bản
của lịch sử”.
Trong tác phẩm “Lời nói đầu, phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen”, C.Mác cũng đã phân tích mối quan hệ giữa hành động sản xuất với
ý thức và nhu cầu của con người, rằng “không có nhu cầu thì không có sản
xuất. Chính sự tiêu dùng tái sản xuất ra nhu cầu mới...” (như sơ đồ đã khái
quát ở phần trên). Và, “ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự
tồn tại được ý thức” – sự tồn tại những sản phẩm và những nhu cầu của con
người chính là hiện thực khách quan... Không có những mối quan hệ đó...
không thể có, không thể nhận thức được đúng về nhu cầu, về lợi ích và do đó
về con người - nhất là người lao động - trong đó có những người công nhân ở
mọi doanh nghiệp.

21


Khi đề cập đến tác dụng “động lực xã hội” của các lợi ích thì C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã phân tích rõ rằng: “ở đâu không có lợi ích chung thì ở
đó không thể có sự thống nhất về mục đích, càng không thể có sự thống nhất
về hành động”. Và, chính “do sự đối lập về lợi ích mà một lực lượng sản xuất
đã được hao phí mà xã hội lại không được lợi gì chung, (chỉ một số ít người
“hưởng lợi - tạo mâu thuẫn về những lợi ích...).
Khi so sánh “cuộc cách mạng cộng sản” do GCCN tiến hành với các
cuộc cách mạng trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” rằng: Các cuộc cách mạng trước kia là những cuộc

cách mạng do một thiểu số các giai cấp bóc lột, vì lợi ích của thiểu số đó; còn
cuộc cách mạng cộng sản do GCCNlãnh đạo là cuộc cách mạng do đa số và vì
lợi ích của đại đa số con người - giai cấp công nhân, nhân dân lao động các
dân tộc. Do vậy, lợi ích hiểu một cách cơ bản và có nguyên tắc - dưới góc độ
“giải phóng con người” - thì đó “là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức”.
V.I.Lênin, trong “Bút ký triết học” đã ca ngợi và nhắc lại tư tưởng của
Hêghen, của C.Mác và Ph.Ăngghen có sự thống nhất về mặt động lực xã hội
của vấn đề lợi ích, rằng: “lợi ích, nếu được kết hợp hài hoà, nó sẽ liên kết
được mọi con người lại với nhau; nó sẽ thúc đẩy cả một dân tộc, cả nhân
loại...
Sau khi lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười thành công, bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin vẫn kế thừa, phát triển và cụ thể hoá thêm
tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen về lợi ích, nhất là lợi ích của công - nông khi
xây dựng chính quyền của mình, nền sản xuất của mình rằng: “chủ nghĩa xã
hội là một công trường khiến cho người lao động - công - nông, trí thức... có
thể thi thố tài năng lao động sáng tạo... mà lần đầu tiên họ đứng thẳng người,
tự thấy mình là con người... và lần đầu tiên là lao động cho chính mình...”.

22


V.I.Lênin cũng “rất duy vật” khi vạch rõ mối quan hệ giữa công tác
giáo dục tư tưởng, lý tưởng chính trị cộng sản chủ nghĩa... khi gắn với những
lợi ích thiết thân của GCCN và nhân dân lao động, rằng: “những lý tưởng cao
cả nhất cũng không đáng giá một xu nhỏ, chừng nào người ta không biết kết
hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích của chính những người tham gia
cuộc đấu tranh...”. Quả đúng như trước đây C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ
trong tác phẩm đầu tiên mà hai ông viết chung, tác phẩm Gia đình thần
thánh” (1844-1845) rằng: “tư tưởng sẽ tự làm nhục mình nếu không gắn với
những lợi ích...”.

- Những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về những lợi ích là động
lực căn bản cho cách mạng Việt Nam, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Trước hết, Hồ Chí Minh có quan điểm khái quát chung về chế độ ta –
chế độ xã hội chủ nghĩa trong đó có động lực lợi ích của toàn xã hội, của tập
thể từng đơn vị và của mỗi cá nhân... gắn bó chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau
tồn tại, phát triển. Người chỉ rõ: “... trong chế độ xã hội chủ nghĩa... do nhân
dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí
nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá
nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể... gắn
liền với lợi ích của tập thể”(1). Và, trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến
sự gắn bó giữa lợi ích của công nhân với lợi ích nhân dân lao động và lợi ích
toàn dân tộc. Người nêu một cách rất khái quát quan điểm sau đây, vừa là một
thực tế, vừa là một vấn đề lý luận có ý nghĩa rất cơ bản - thiết thực, đúng đắn
và có giá trị lâu dài... mà cho đến nay, trong mọi cơ quan, doanh nghiệp ở mọi
thành phần kinh tế... đều cần và có thể vận dụng sáng tạo để ổn định và phát
triển. Người viết: “lợi ích của GCCN và lợi ích của nhân dân là nhất trí”(1);
(1)
(1)

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN.,1995, tập 9, tr.291.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tr.288.

23


×