LỜI NÓI ĐẦU
"Học đi đôi với hành, lấy kiến thức lí thuyết làm nền tảng để vận dụng vào
thực tế công việc. Đó là phương trâm học của học sinh, sinh viên trường Trường
cao Đẳng Sơn La,
Nhận được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường và khoa Nông Lâm, và
chính quyền xã Nà Bó- huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La. Dưới sự hướng dẫn chi tiết
của cô giáo Phùng Thị Hương, bản thân em nhận thấy đây là một cơ hội quý báu
để em vận dụng lý thuyết đã học được ở trường vào công việc thực tế, đồng thời
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân ngày một vững trắc hơn.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp chuyên ngành địa chính môi trường và
quá trình viết báo cáo em đã tiếp thu được rất nhiều điều bổ ích về kiến thức cơ
bản cũng như chuyên môn nghiệp vụ đặc thù của chuyên ngành. Nhưng do thời
gian có hạn và trình độ tiếp thu kiến thức chưa cao nên bài báo cáo không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Vậy em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
trong khoa Nông Lâm, để bản báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin trân thành cảm ơn ban giám hiệu nhà trường và cùng toàn
bộ các thầy, cô trong khoa Nông Lâm. Đồng thời xin trân thành cảm ơn UBND xã
Nà Bó đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp
này này.
Em xin trân thành cảm ơn!
Mai Sơn, ngày 18 tháng 3 năm 2013
LÈO VĂN QUANG
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là tư liệu
sản xuất đặc biệt không thể thay thế được trong các ngành kinh tế quốc dân, là địa
bàn phân bố dân cư, xây dựng các công trình văn hóa, kinh tế, xã hội, quốc phòng
an ninh. Trong nông nghiệp đất đai vừa là tư liệu sản xuất vừa là lực lượng sản
xuất tạo ra các nông sản phẩm nuôi sống con người và cung cấp nguyên liệu cho
các ngành công nghiệp.
Quá trình phát triển của loài người luôn gắn liền với quá trình quản lý, khai
thác và sử dụng đất đai, vì vậy quá trình quản lý và sử dụng đất đai luôn là vấn đề
quan trọng, cần được quan tâm.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
nhu cầu đất đai cho các hoạt động sản xuất, đất ở và các nhu cầu khác đang gây
sức ép lớn đối với đất đai. Mặt khác, quỹ đất của mỗi quốc gia là cố định không
thay đổi được do đó vấn đề quản lý và sử dụng đất. Để quản lý và sử dụng có hiệu
quả không phải là vấn đề đơn giản mà ngược lại đây là vấn đề hết sức phức tạp.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi đất nước chuyển sang nền kinh tế Hội nhập
thì các vấn đề về đất đai là một trong những vấn đề nhạy cảm và được quan tâm
nhiều nhất. Một thực trạng đang diễn ra trong giai đoạn hiện nay đó là sức ép về
dân số và quá trình đô thị hóa đối với đất đai đang trở thành một thách thức với
nhiều quốc gia trên thế giới.
Vì vậy yêu cầu đặt ra trong quá trình quản lý và sử dụng là làm thế nào có
thể sử dụng hợp lý, khoa học và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất? Chính vì vậy
Công tác quản lý nhà nước về đất đai luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm.
2
Xuất phát từ tình hình thực tế và nhu cầu thiết yếu của việc quản lý và sử
dụng đất, tôi tiến hành nghiên cứu chuyên đề: “ Tình hình quản lý sử dụng đất tại
xã Nà Bó Huyện Mai Sơn - Tỉnh Sơn La giai đoạn 2003 - 2012”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá, thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai của xã Nà Bó –
Huyện Mai Sơn từ đó đề xuất những giải pháp phục vụ cho quá trình quản lý và sử
dụng đất đai hợp lý, khoa học và đạt hiệu quả cao trong thời gian tiếp theo.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai của xã Nà Bó giai đoạn
2003 – 2012 theo 13 nội dung quy định trong luật đất đai 2003.
- Đánh giá sự hiểu biết của người dân và cán bộ của xã Nà Bó về công tác
quản lý nhà nước về đất đai.
1.4 .Ý nghĩa của đề tài
- Trong học tập và nghiên cứu khoa học: Củng cố kiến thức đã học và bước
đầu làm quen với công tác quản lý nhà nước về đất đai ngoài thực tế.
- Trong thực tiễn: Đề tài nghiên cứu tình hình quản lý nhà nước về đất đai từ
đó đưa ra những giải pháp giúp cho công tác quản lý nhà nước về đất đai của xã
được tốt hơn.
3
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU26
2.1. Cơ sở khoa học và tính pháp lý của công tác quản lý nhà nƣớc về đất đai
2.1.1. Sơ lược lịch sử của ngành Địa chính và Quản lý nhà nước về đất đai qua
các thời kỳ
Đất đai là tài sản quốc gia, là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất
xã hội, cộng đồng và cũng là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng của người sử
dụng đất. Tuy nhiên, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu thì
ngày càng tăng, cùng với sức ép về dân số thì việc sử dụng đất cần tuân theo các
nguyên tắc hợp lý, tiết kiệm, bền vững. Từ yêu cầu cấp thiết trên, công tác địa
chính xuất hiện. Tại Việt Nam công tác địa chính được tiến hành từ thế kỷ thứ VI
bắt đầu bằng việc kiểm tra điền địa, trải qua các thời kỳ khác nhau nhưng đều ảnh
hưởng và có tác động trực tiếp đến việc quản lý sử dụng đất.
2.1.1.1. Thời kỳ phong kiến:
Trong lịch sử hàng ngàn năm phong kiến đất nước ta tồn tại song song hai
hình thức về ruộng đất: sở hữu đất công và sở hữu đất tư.
Thời kỳ Hùng Vương, Thời kỳ An Dương Vương - Thục phán: Quan hệ đất
đai thời kỳ này có nhiều hình thức sở hữu khác nhau: Sở hữu Nhà nước, sở hữu
của công xã nông thôn và sở hữu của quan lại quý tộc.
Thời kỳ nhà Đinh tồn tại chủ yếu hai hình thức sở hữu về đất đai: Sở hữu
của nhà vua, sở hữu của công xã nông thôn và gần như không có sở hữu của tư
nhân về ruộng đất. Một số quan lại được nhà vua cấp đất để thưởng công, nhưng
đất đó vẫn là đất thuộc sở hữu của Nhà nước.
Thời kỳ nhà Lý tồn tại ba hình thức sở hữu về đất đai: Sở hữu nhà vua, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế
trong xã hội. Đại bộ phận ruộng đất lúc đó là của công xã. Ruộng đất tư hữu mới
bắt đầu phát triển. Ở thời kỳ này, Nhà nước ban hành các luật lệ quy định về mua
bán ruộng đất.
4
Thời kỳ nhà Trần tồn tại ba hình thức sở hữu về đất đai: Sở hữu của nhà
vua, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Ruộng đất tư hữu thời kỳ này phát triển mạnh.
Chế độ thuế khoán dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất. Việc mua bán đất đai được
Nhà nước thừa nhận.
Thời kỳ Hồ Quý Ly, ban hành chính sách “hạn danh điền” nhằm củng cố
chế độ sở hữu về đất đai của Nhà nước và xoa dịu nỗi bất bình trong dân chúng,
cải cách chính sách thuế khoá.
Thời kỳ nhà Lê: Tiến hành kiểm kê đất đai, lập sổ địa bạ. Cùng với chính
sách “hạn điền”. Nhà nước chính thức tuyên bố hàng loạt đạo dụ và theo luật quân
điền thời Hồng Đức ban hành năm 1481 “Đất đai là tài sản Nhà nước”.
Thời kỳ nhà Nguyễn (1802 – 1808) đã hoàn tất việc lập sổ địa bạ cho
18.000 xã từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, bao gồm 10.004 tập. Địa bạ được
lập thành ba bản:
+ Bản “Giáp” nộp tại Đinh Bộ Hộ.
+ Bản “Bính” nộp tại Đinh Bộ Chánh.
+ Bản “Đinh” để tại xã.
Nhà Nguyễn còn ban hành bộ luật thứ hai của nước ta - Bộ Luật Gia Long.
Bộ luật này gồm 14 điều nhằm điều chỉnh mối quan hệ về nhà, đất, thuế lúa. Đây
là bộ Luật xác định quyền sở hữu tối cao của nhà vua về ruộng đất.
Thời kỳ Gia Long (1860): Nhà nước phong kiến đã tiến hành đo đạc, lập sổ
địa bạ cho từng xã với nội dung phân rõ công tư điền thổ, diện tích, tứ cận, định
dạng thuế.
2.1.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Chúng chia nước ta thành ba kỳ để cai trị:
* Ở Nam Kỳ: Sở địa chính được thành lập năm 1867 và bắt đầu lập nền tam
giác đạc từ 1871 – 1895, ở các tỉnh có trắc địa viên làm bao đạc cho từng làng và
lập biểu thuế điền thổ.
5
Từ năm 1896, Sở Địa chính dưới đặc quyền của Thống đốc Nam Kỳ đã tiến
hành làm bản đồ giải thửa. Đến năm 1930, hầu hết các tỉnh Nam Kỳ đã đo đạc
xong bản đồ giải thửa ở tỷ lệ 1/4000, 1/2000 và 1/500.
Từ 1911 các tư liệu địa chính phải lưu trữ ở các Phòng Quản lý địa bộ. Các
Tỉnh trưởng đảm nhiệm việc quản thủ địa bộ cho người trong nước, còn Pháp và
ngoại kiều khác có chế độ Đế đương do Ty bảo vệ quyền sở hữu theo luật
napoleon.
* Tại Trung Kỳ: Để có căn cứ tính thuế, từ năm 1806 đã tiến hành đo đạc
đơn giản để lập địa bộ.
Ngày 26/4/1930, Khâm sứ Trung Kỳ ban hành Nghị quyết số 1358 lập Sở
Bảo tồn điền trạch, sau đổi thành Sở Quản thủ địa chính.
Các thủ tục lập tài liệu địa chính được quy định rõ, lập Hội đồng phân ranh
giới xã, có kèm theo sơ đồ cắm mốc giới, duyệt các bảng kê khai từng thửa, từng
chủ ruộng có ranh giới rõ ràng, lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1/2000 được công sứ
duyệt. Các tài liệu này được công bố trong vòng hai tháng nếu có khiếu nại được
xử lý và chuyển sang Sở địa chính ghi vào sổ địa bộ chính thức. Thời kỳ này chủ
yếu duy trì quỹ đất công làng xã và sở hữu nhỏ của nông dân.
* Tại Bắc Kỳ: Năm 1906, Sở Địa chính chính thức ra đời và phân định địa
giới huyện, xã và bắt đầu làm bản đồ bao đạc nhằm mục đích đánh thuế.
Trong giai đoạn 1928, tiến hành lập bản đồ địa chính chính quy. Từ năm
1937, những nơi đã làm xong bản đồ địa chính chính quy thì được Quản thủ địa
chính thu các tài liệu đã được phê chuẩn, bao gồm các tài liệu: bản đồ giải thửa
chính xác, sổ địa chính, sổ điền chủ, sổ khai báo…
2.1.1.3. Thời kỳ Mỹ Ngụy
Ở Miền nam trong thời kỳ từ 1954 – 1975 tồn tại hai chế độ ruộng đất khác
nhau. Đó là chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng và chính sách ruộng
đất của Mỹ - Ngụy: Gồm chính sách “cải cách điền địa” của Ngô Đình Diệm và
6
chính sách “Người cày có ruộng” của Nguyễn Văn Thiệu. Từ năm 1945 đến trước
ngày giải phóng Miền nam (30/4/1975), tổ chức địa chính thay đổi theo ba thời kỳ.
* Từ năm 1954 đến 1955: Nha địa chính được thành lập tại các phần.
Tại Nam Kỳ, Nha địa chính Việt Nam được thành lập bởi Nghị định số
3101/HCDV ngày 05/10/1954, được đặt dưới quyền trực tiếp của đại biểu Chính
phủ và tại mỗi tỉnh đều có Ty địa chính.
Tại Trung Kỳ, Nha địa chính được thiết lập tại Huế theo Nghị định số
421/NĐPC ngày 03/3/1955, có giám đốc phụ trách. Ở mỗi tỉnh, tuỳ theo yêu cầu
công việc có Ty hay Phòng, Ban lao động để làm công tác địa chính.
Tại Cao nguyên Trung Kỳ, Nha địa chính vùng Cao nguyên được thành lập
theo Nghị định số 495/NĐ – DBSP ngày 02/8/1955 và trụ sở được đặt tại Đà Lạt.
* Từ năm 1956 đến năm 1959: Ngày 14/12/1955, tuyên bố xoá bỏ tư cách
pháp nhân của các “phần” và thành lập Nha tổng giám đốc địa chính và địa hình
theo Nghị định số 01/ĐTCC – NĐ ngày 21/1/1957 để thi hành chính sách về điền
địa và nông nghiệp.
* Từ năm 1960 đến năm 1975: Ngày 01/12/1959, Bộ trưởng điền thổ và cải
cách điền địa đã ban hành Nghị định số 211/HĐBT/NĐ thiết lập tổng nha điền địa.
2.1.1.4. Thời kỳ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời, ngành Địa chính từ Trung ương đến cơ sở được duy trì và củng cố. Chính
sách đất đai thời kỳ này mang tính chất “chấn hưng nông nghiệp”. Hàng loạt các
Thông tư, Nghị định,... được ban hành nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp, tránh lãng phí đất đai.
Ngày 02/02/1947, ngành địa chính được sát nhập vào ngành canh nông;
Ngày 18/6/1949, thành lập Nha địa chính trong Bộ Tài chính, toàn bộ các
cán bộ địa chính được đưa đi làm thuế nông nghiệp;
Tháng 7/1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 78/SL quy định giảm 25% địa tô;
7
Theo sắc lệnh số 40/SL, ngày 13/7/1951, ngành địa chính chính thức hoạt
động theo chuyên ngành;
Ngày 05/3/1952, Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về việc sử dụng công
điền, công thổ chia cho người nghèo;
Ngày 14/12/1953, Quốc hội thông qua “Luật cải cách ruộng đất”;
Ngày 19/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 179/SL ban hành
luật cải cách ruộng đất, nhằm đánh đổ hoàn toàn chế độ phong kiến, thực hiện triệt
để khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Nhà nước thực hiện hình thức tịch thu, trưng
thu, trưng mua ruộng đất theo từng đối tượng sở hữu đất đai khác nhau để chia cho
nông dân.
Giai đoạn 1954 – 1959, giai cấp địa chủ phong kiến đã sụp đổ hoàn toàn,
chế độ sử dụng đất đã thay đổi căn bản, người cày thực sự có ruộng đất, sản lượng
lương thực tăng, kinh tế đất nước được phục hồi.
Ngày 03/7/1958 Chính phủ ban hành Chỉ Thị số 354/CT – TTg thành lập cơ
quan quản lý đất đai ở Trung ương là Sở địa chính, nằm trong Bộ Tài chính, chức
năng là quản lý ruộng đất và thu thuế nông nghiệp.
Ngày 9/12/1960, Chính phủ ra Nghị định số 70/1960/NĐ-CP quy định
nhiệm vụ, tổ chức ngành địa chính và chuyển ngành địa chính từ Bộ Tài chính
sang Bộ Nông nghiệp và đổi tên là ngành quản lý ruộng đất.
Ngày 9/11/1979, Chính phủ ban hành Nghị định số 404/NĐ-CP về thành
lập Hệ thống quản lý đất đai thuộc Hội đồng Bộ trưởng và UBND các cấp.
Năm 1988, Luật đất đai lần đầu tiên ra đời, tiếp sau hàng loạt các văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành luật nhằm đưa công tác quản lý ruộng đất vào nề nếp
và đúng pháp luật.
Chỉ thị số 67/CT-TTg ngày 23/3/1989 về triển khai thi hành Luật đất đai.
Hiến pháp 1992 đã mở ra thời kỳ đổi mới hệ thống chính trị. Lần đầu tiên
chế độ sở hữu về quản lý đất đai được ghi vào hiến pháp, trong đó quy định, “đất
đai thuộc sở hữu toàn dân” (điều 17).
8
Luật đất đai ngày 14/7/1993, Nhà nước khẳng định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, đất đai được giao ổn định lâu dài cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân.
Quyết định số 12/QĐ-CP của Chính phủ, ngày 22/02/1994 về việc thành lập
Tổng cục Địa chính trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Tổng cục Quản lý ruộng đất
và Cục đo đạc và bản đồ Nhà nước.
Nghị định số 34/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 23/4/1994 quy định chức
năng, quyền hạn và nhiệm vụ của Tổng cục Địa chính. Tổng cục Địa chính là cơ
quan trực thuộc Chính phủ thực hiện tổ chức quản lý nhà nước về đất đai.
Theo thông tư số 470/TT-TCĐC ngày 18/7/1994 thì hệ thống tổ chức quản
lý Nhà nước về đất đai ở địa phương trực thuộc UBND các cấp gồm: Sở Địa chính
trực thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Địa chính trực
thuộc UBND huyện, quận, Thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; Cán bộ địa chính xã
trực thuộc UBND xã, thị trấn.
Ngày 05/8/2002, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
XI, kỳ họp thứ nhất thông qua Nghị quyết số 02/2002/QH 11 quy định danh sách
các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ, trong đó có Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
Ngày 26/11/2003, Luật đất đai ra đời trên cơ sở khắc phục những ách tắc,
trở ngại trong quản lý sử dụng đất. Theo điều 6, Luật đất đai 2003, quản lý Nhà
nước về đất đai bao gồm 13 nội dung. Để triển khai thi hành Luật đất đai 2003,
nhằm nhanh chóng đưa Luật đất đai vào áp dụng thực tiễn cuộc sống thì Chính phủ
và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ra hàng loạt các văn bản, Nghị định, Chỉ thị,
và các Thông tư,…hướng dẫn thi hành luật đất đai, tạo ra những chuyển biến rõ rệt
trong quản lý và sử dụng đất.
2.1.2. Cơ sở khoa học và căn cứ pháp lý của công tác quản lý sử dụng đất
2.1.2.1. Cơ sở lý luận
Để một hệ thống quản lý đất đai tốt phải đảm bảo được các mục tiêu sau:
9
- Trên cơ sở ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai nhằm tạo cơ sở
pháp lý đảm bảo quyền sở hữu nhà nước về đất đai (quyền giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất, hướng dẫn, thanh tra xử lý vi phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất …) và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, góp phần
giả quyết tốt mọi tranh chấp đất đai tạo cơ sở vững chắc cho việc tính thuế đất và
thuế bất động sản.
- Phát triển và quản lý tốt thị trường bất động sản bao gồm cả hệ thống thế
chấp quyền sử dụng đất đai và quyền sở hữu bất động sản.
- Trên cơ sở điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng, thống kê, kiểm
kê đất nhà nước nắm chắc số lượng và chất lượng đất đai.
Như vậy, quản lý nhà nước về đất đai là nhằm bảo vệ quyền lợi cho mọi đối
tượng khi quyền và nghĩa vụ của các đối tượng sở hữu và sử dụng đất được giải
quyết thoả đáng thì sẽ mang lại ổn định xã hội, an ninh chính trị và có tác dụng
thúc đẩy phát triển kinh tế.
2.1.2.2. Căn cứ pháp lý liên quan đến đất đai
- Căn cứ luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
- Căn cứ Nghị định số 181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004 của chính phủ về
thi hành luật đất đai;
- Căn cứ Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 02/12/2004 của Chính phủ về
thu tiền sử dụng đất;
- Quyết định số 201/QĐ-CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về
việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong
cả nước;
- Chỉ thị số 299/CT-TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về
công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất;
- Quyết định số 201/QĐ-ĐKTK ngày 14/7/1980 của Tổng cục Quản lý
ruộng đất về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
10
- Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 02/ 9 /1993 của Chính phủ quy định về việc
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục
đích sản xuất nông nghiệp;
- Nghị định số 02/NĐ-CP năm 1994 quy định về giao đất lâm nghiệp;
- Thông tư số 364/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục Địa chính về
hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về việc
bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
- Nghị định số 84/2007NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ về quy định
bổ sung cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện QSDĐ, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi và giải quyết khiếu nại;
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quyết định
bổ xung về quy hoạch sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư;
- Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT ngày 30/6/2005 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường ban hành quy trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất;
- Quyết định số 08/2004/QĐ-BTNMT ngày 21/7/2006 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường về việc ban hành quy định về cấp GCNQSDĐ;
- Thông tư số 29/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường hướng dẫn lập, chỉnh lý và quản lý hồ sơ địa chính;
- Thông tư số 09/ 2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 về việc hướng dẫn việc
lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính;
- Thông tư số 08/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về việc hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng
bản đồ hiện trạng sử dụng đất;
Để tạo cơ sở vững chắc cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, tại điều 6
luật đất đai năm 2003 nêu rõ các nội dung quản lý nhà nước về đất đai như sau:
11
+ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó;
+ Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập
bản đồ hành chính;
+ Khảo sat, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đò
hiện trạng sử dụng đất, bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
+ Quản lý quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất;
+ Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng
đất;
+ Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính cấp
GCNQSDĐ;
+ Thống kê, kiểm kê đất đai;
+ Quản lý tài chính về đất đai;
+ Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất
động sản;
+ Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất;
+ Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai
và sử lý vi phạm về đất đai.
+ Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm
trong quản lý và sử dụng đất đai.
+ Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
2.3. Tình hình quản lý đất đai trên phạm vi cả nƣớc
2.3.1. Tình hình quản lý đất đai của cả nước trong những năm qua
Trước năm 1993, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản
lý đất đai một cách chặt chẽ. Tuy nhiên các văn bản chưa đáp ứng được yêu cầu
của công tác quản lý nhà nước về đất đai bởi việc sử dụng đất đai là vấn đề phức
tạp chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau. Từ năm 1993 đến nay, ngành tài
12
nguyên môi trường đã xây dựng được hệ thống chính sách tương đối đồng bộ về
công tác quản lý nhà nước về đất đai như: Luật Đất đai năm 1993, luật sửa đổi bổ
sung năm 1998, luật sử đổi bổ sung năm 2001, các văn bản liên ngành… và gần
đây nhất là Luật đất đai sửa đổi bổ sung của Luật Đất đai năm 2003. Hệ thống các
văn bản đó về cơ bản đã giải quyết được các quan hệ đất đai, góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển, ổn định chính trị.
2.3.1.1. Công tác xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa chính, lập
bản đồ hành chính
Để giúp cho các địa phương có cơ sở pháp lý thực hiện công tác quản lý nhà
nước về đất đai nói riêng và quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực, cung
cấp tài liệu cho các ngành khác…Trong hoạt động phát triển thì công tác xác định
địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ địa chính
có ý nghĩa rất quan trọng. Công tác xác định địa giới hành chính hàng năm được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Thực hiện Chỉ thị 364/CT-HĐBT ngày
06/11/1994 của Thủ tướng Chính phủ, nhà nước ta đã tiến hành đo đạc và cắm mốc
địa giới hành chính trên toàn lãnh thổ và cho đến nay công việc về cơ bản đã thực
hiện xong. Các mốc địa giới đã được cắm mốc từ các mốc địa giới quốc gia đến
các mốc địa giới cấp tỉnh, huyện, xã. mốc địa giới này là cơ sở lập hồ sơ địa chính
và lập bản đồ hành chính.
2.3.1.2. Công tác khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất
Trong lĩnh vực đo đạc bản đồ, hệ thống ảnh hàng không, ảnh vệ tinh đã bao
trùm, cả nước đã thực hiện được hơn 80 % diện tích, một mặt đáp ứng công tác đo
vẽ bản đồ địa hình, mặt khác sử dụng để thành lập nền bản đồ địa chính. Hệ thống
bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50000 trùm phủ cả nước và 1/25000 trùm phủ các khu vực
kinh tế trọng điểm cùng với hơn 50% khối lượng bản đồ công nghệ số đã được
hoàn thành. Hệ quy chiếu quốc gia VN-2000, hệ thống các điểm toạ độ, độ cao nhà
nước đã hoàn thành và được thủ tướng chính phủ ra quyết định đưa vào sử dụng từ
13
ngày 12/9/2000. Đến nay đã hoàn thành và bàn giao lưới toạ độ hạng III cho tất cả
các tỉnh, thành phố và hoàn thành đo vẽ 20 mảnh bản đồ địa hình đáy biển tỷ lệ
1/50000 khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng và khu vực Bình Trị Thiên phục vụ hiệp
định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
2.3.1.3. Công tác quản lý quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất
Công tác quy hoạch sử dụng đất là một nội dung quan trọng trong quản lý
đất đai, là cơ sở để tiến hành giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
cũng như thu hồi đất đai. Nhận thấy vai trò quan trọng của công tác lập quy hoạch
sử dụng đất, Nhà nước đã tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi cả
nước.
2.3.1.4. Công tác giao đất cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hiện nay đang tiếp tục giao đất cho các tổ chức kinh tế và hộ gia đình, cá
nhân có nhu cầu sử dụng đất để phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Cấp GCNQSD đất:
Thực hiện luật đất đai năm 2003, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày
29/11/2004 của chính phủ về hướng dẫn thi hành luật đất đai năm 2003, Nghị định
số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, trình tự
thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu
nại về đất đai, trên cả nước đã tiến hành cấp GCNQSD đất cho các đối trượng sử
dụng đất.
2.3.1.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết
khiếu nại, tố cáo
Công tác này thường xuyên được đôn đốc thực hiện. kết quả đã giả quyết
nhiều đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến đất đai nhằm tạo điều kiện cho nhân
dân yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó thì vấn đề khiếu nại vượt cấp về lĩnh vực đất
đai còn xảy ra nhiều mà nguyên nhân là do nhà nước chưa thực hiện đúng các
chính sách cho người dân, công tác quản lý còn lỏng lẻo. Vì vậy trong những năm
14
tới nhà nước cần hoàn thiện các cơ chế chính sách đảm bảo luật pháp được thi
hành đúng và có hiệu quả.
2.3.2. Tình hình quản lý sử dụng đất trên toàn địa bàn tỉnh Sơn La từ khi có
luật đất đai năm 2003 đến nay
Sơn la là một tỉnh miền núi phía bắc nông nghiệp luôn chiếm một vị trí quan
trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, trong khi đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp
bình quân đầu người thấp.
Trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai, tỉnh Sơn La đã đạt được những
kết quả sau:
* Về xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ địa chính của tỉnh được tiến hành đầy đủ. Ranh giới hành chính tỉnh
được xác định bằng các yếu tố địa vật, được cắm mốc giới rõ ràng. Hiện nay tỉnh
đã hoàn thành BĐHC và HSĐGHC, hàng năm các mốc giới đều được kiểm tra,
nếu phát hiện hỏng hóc hoặc bị phá huỷ đều được xử lý và thay thế kịp thời.
* Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Đến năm 2000 tỉnh đã
hoàn thành việc lập quy hoạch giai đoạn 2001-2010, kế hoạch sử dụng đất 20012005, kế hoạch 2006-2010. Đồng thời năm 2005-2009 tỉnh đã tiến hành đo đạc
thành lập bản đồ địa chính cho 5 huyện là Phù Yên, Thuận Châu, Mường La,
Quỳnh Nhai và Sông Mã do đó số liệu có nhiều biến động UBND tỉnh đã chỉ đạo
trong kỳ quy hoạch 2011-2020 sẽ sử dụng số liệu sau đo đạc để làm cơ sở cho
công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
* Công tác cấp giấy CNQSD đất: Nhìn chung công tác cấp giấy CNQSD đất
của tỉnh về cơ bản tương đối ổn định nhưng vẫn còn chậm, trong thời gian tới cần
phải tiếp tục đẩy mạnh hơn.
* Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất: Hàng năm xét từ nguồn quỹ
đất của địa phương cũng như nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức và người dân có
nhu cầu sử dụng đất và đủ điều kiện giao đất, cho thuê đất, UBND tỉnh vẫn ký
quyết định cho các tổ chức thuê đất và chỉ đạo các huyện cho người dân thuê đất
15
cũng như giao đất cho người dân sử dụng, tính đến năm 2003 tỉnh đã cơ bản hoàn
thành công tác giao đất nông nghiệp, giao rừng tự nhiên cho người dân sử dụng
vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
* Công tác thanh tra, kiểm tra cũng được tỉnh Sơn La tiến hành thường
xuyên và đầy đủ.
* Về quản lý thị trường đất trong thị trường bất động sản: Trước đây khi
Nhà nước chưa công nhận hoạt động của thị trường đất trong thị trường bất động
sản, các giao dịch có liên quan đến đất đai vẫn diễn ra nhưng không công khai làm
cho giá đất tại thời điểm đó lên cao. Từ khi có Luật đất đai 2003 ra đời công nhận
thị trường đất trong thị trường bất động sản thì hoạt động này càng ngày phát triển
mạnh.
* Về quản lý dịch vụ công: 11 huyện, thành phố đã thành lập Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất từ cuối năm 2006, Văn phòng đã tiến hành tổ chức thực
hiện đăng ký sử dụng đất và biến động về sử dụng đất, quản lý hồ sơ địa chính về
giúp sở Tài nguyện và Môi trường trong việc thực hiện thủ tục hành chính về quản
lý và sử dụng đất trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung công tác quản lý nhà nước về đất đai của tỉnh Sơn la trong thời
gian qua được thực hiện tương đối tốt. Trong thời gian tới cẩn đẩy mạnh hơn nữa
công tác cấp giấy CNQSD đất , giải quyết dứt điểm các đơn thư khiếu nại tố cáo
còn tồn đọng trong thời gian qua, giúp người dân yên tâm sản xuất. Đồng thời cần
phát triển hơn nữa thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản để
làm tăng nguồn tài chính từ đất đai.
2.3.3. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai trên toàn huyện Mai Sơn
Thực hiện Chỉ thị 364/CP ngày 6/11/1991 của Thủ tướng Chính phủ, địa
giới hành chính của xã Nà Bó với các xã lân cận đã được xác định. Qua công tác
cập nhập, chỉnh lý theo số liệu thống kê đất đai theo địa giới hành chí nh xã xác
định tổng diện tích tự nhiên của xã là: 3.944.00 ha
16
Được sự quan tâm của tỉnh, huyện, hiện nay trên địa bàn xã Mường Bon đã
đo đạc và lập hồ sơ địa chính cho đất nông nghiệp và đã hoàn thành công tác đo
đạc địa chính toàn xã. Đây là cơ sở quan trọng cho công tác quản lý và sử dụng đất
đai trên địa bàn xã nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nông nghiệp và thực
hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Uỷ ban nhân dân xã đã căn cứ vào quy định của Luật đất đai năm 2003, các
văn bản hướng dẫn của nhà nước và căn cứ vào nghị quyết về kế hoạch sử dụng
đất hàng năm được Hội đồng nhân dân xã thông qua để giải quyết hồ sơ xin giao
đất, cho thuê đất cho các cá nhân, tổ chức một cách nhanh chóng thuận lợi.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp toàn xã đạt 75%;
tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đến nay trên địa bàn xã đạt trên
95%. Đang tiến hành lập hồ sơ thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho các hộ gia đình còn lại.
Thực hiện Nghị định 181/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm theo
dõi việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại địa phương. Đã đưa việc lập
kế hoạch sử dụng đất hàng năm vào thực tiễn có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu
sử dụng đất cho các mục đích của địa phương
2.3.4. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai trên toàn xã Nà Bó- Mai Sơn
- Trình bày quỹ đất và tính hình biến động trong năm giữa 3 nhóm đất và
trong nội bộ nhóm đất nông nghiệp:
1. Đất nông nghiệp
- Với quỹ đất chưa sử dụng dồi dào, diện tích đất trồng cây hàng năm tăng
lên nhanh chóng tăng 146,44 ha do chuyển từ đất rừng sản xuất.
- Thực hiện chủ chương của huyện tỉnh, trong giai đoạn này diện tích rừng
phòng hộ tăng 1.465,08 ha, chủ yếu lấy từ đất đồi núi chưa sử dụng (1.364,92) và
do chuyển từ đất rừng sản xuất (100,16 ha), trong kỳ có 9,96 ha đất rừng phòng hộ
được chuyển sang đất ở.
2. Đất phi nông nghiệp
17
Đất phi nông nghiệp trong giai đoạn này có xu hướng tăng qua các năm do
được đầu tư xây dựng, phù hợp với chiến lược phát triển chung của huyện, xã. Cụ
thể:
- Đất ở nông thôn tăng 20,36 ha nâng tổng diện tích lên 51,76 ha.
- Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp giảm 0.45 ha diện tích xuống còn
0,05 ha.
- Đất quốc phòng, an ninh giảm 0,50 ha, diện tích xuống còn 7,00 ha
- Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp tăng 2,70 ha nâng tổng diện tích
lên 5,6 ha.
- Đất có mục đích công cộng tăng 4,82 ha nâng tổng diện tích lên 83,84 ha.
- Đất nghĩa trang, nghĩa địa chuyển toàn bộ 20 ha sang đất rừng trồng sản
xuất.
3. Đất chưa sử dụng
Ở địa phương, từ năm 2006 đến năm 2012 hầu hết phần đất chưa sử dụng đã
được đưa váo sử dụng mà chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng. Năm 2006 diện tích
đất sử dụng là 2.331,02 ha trong đó. Đất bằng chưa sử dụng là 9,50 ha, đất đồi núi
chưa sử dụng là 2.192,03 ha, đất núi đá không có rừng cây là 129,49 ha. Đến năm
2012 đất chưa sử dụng còn 751,38 ha trong đó. Đã sử dụng gần hết diện tích đất
bằng chưa sử dụng, đất đồi núi chưa sử dụng là 620,74 ha, đất núi đá không có
rừng cây vẫn còn nguyên là 130,64 ha.
- Tình hình quản lý chung (một số nét nổi bật)
Thực hiện Nghị định 181/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm theo
dõi việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại địa phương. Đã đưa việc lập
kế hoạch sử dụng đất hàng năm vào thực tiễn có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu
sử dụng đất cho các mục đích của địa phương
- Cần căn cứ kết quả kiểm kê năm 2003 - 2012.
18
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý nhà nước về đất đai của xã Nà Bó – Huyện Mai Sơn –
Tỉnh Sơn La giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2012.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong giới hạn 13 nội dung quản lý nhà nước về đất
đai được quy định trong Luật Đất Đai năm 2003.
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
Đề tài nghiên cứu tại UBND xã Nà Bó – Huyện Mai Sơn – tỉnh Sơn La từ
ngày 18/02/2013 đến ngày 28/04/2013
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá công tác quản lý đất đai theo 13 nội dung quản lý đất Nhà nước
về đất đai của Xã Nà Bó - Huyện Mai Sơn giai đoạn 2003 – 2012 cụ thể như sau:
1. Công tác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng
đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
2. Công tác xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính.
3. Công tác khảo sát, đo đạc, đánh giá phân hạng đất đai, lập bản đồ hành
chính, bản đồ hiên trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sư dụng đất.
4. Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
5. Công tác quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất.
6. Công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
7. Công tác thống kê, kiểm kê đất đai.
8. Công tác quản lý tài chính về đất đai.
19
9. Công tác quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị
trường bất động sản.
10. Công tác quản lý giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất.
11. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật
về đất đai và xử lý vi phạm pháp Luật đất đai.
12. Công tác giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết việc khiếu nại, tố
cáo các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai.
13. Công tác quản lý các dịch vụ công về đất đai.
Nguyên nhân tồn tại và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác
quản lý đất đai của Xã Nà Bó Huyện Mai Sơn –Tỉnh Sơn La.
3.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Điều tra thu thập các tài liệu, số liệu, các thông tin cần thiết về tình hình
quản lý đất đai trên địa bàn Huyện Mai Sơn.
- Tìm hiểu các văn bản pháp luật: Luật, Nghị định, Thông tư, Nghị
Quyết…về quản lý và sử dụng đất đai do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành. Tìm hiểu các văn bản pháp luật về quản lý đất đai của UBND tỉnh Sơn La và
UBND Huyện Mai Sơn .
- Nghiên cứu các văn bản Luật và văn bản dưới Luật về quản lý đất đai, đặc
biệt nắm vững 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai theo luật đất đai 2003.
- Phương pháp thu thập số liệu bao gồm:
+ Thu thập số liệu sơ cấp thông qua phiếu điều tra, bằng phương pháp chọn
4 bản thuộc xã bao gồm cả người dân và cán bộ. Tổng hợp kết quả điều tra chia
làm 2 nhóm điều tra người dân và cán bộ thuộc 4 bản.
+ Thu thập số liệu thứ cấp qua việc kế thừa những tài liệu, số liệu tại các cơ
quan chức năng có liên quan.
20
- Phương pháp phân tích, xử lý số liệu thông qua phần mềm tin học excel;
đối chiếu, so sánh với các quy định hiện hành trong luật.
21
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Nà bó là một xã vùng một của huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La, UBND xã nằm
tại bản Nà Bó cách trung tâm huyện lỵ Mai Sơn 8 km về phía bắc.
Theo Địa giới hành chính được thành lập theo chỉ thị 364-CP, Nà Bó giáp
ranh với các xã sau:
+ Phía Bắc : Giáp xã Chiềng Chăn và xã Tà Hộc - Huyện Mai Sơn.
+ Phía Nam : Giáp xã Hát Lót và Thị Trấn Hát Lót - Huyện Mai Sơn.
+ Phía Đông: Giáp xã Cò Nòi - Huyện Mai Sơn.
+ Phía Tây : Giáp xã Mường Bằng và Mường Bon huyện Mai Sơn.
4.1.1.2. Địa hình - Địa mạo
Nà Bó có nhiều dãy núi chạy theo hướng Đông Nam-Tây Bắc tạo ra nhiều
dạng địa hình xen kẽ nhau:
Đất bằng và đồi dốc thoải tập trung phần lớn ở trung tâm xã, thung lũng và
đồi núi dốc tập trung ở phía Nam của xã.
Độ cao trung bình từ 550 - 650m so với mực nước biển, xung quanh là các
dãy núi cao trung tâm xã là vùng đồng bằng xen đồi thấp, hướng dốc từ Đông Nam
xuống Tây Bắc.
4.1.1.3 Khí hậu
Theo số liệu của Đài khí tượng thuỷ văn khu vực Tây Bắc, Nà Bó nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 20,90c,
tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng 1 (14,30c), tháng có nhiệt độ trung
bình cao nhất là tháng 5 (380c). Lượng mưa trung bình là 1.400mm/năm, phân bố
không đều trong năm, mùa mưa chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa cả năm, mùa
22
khô chiếm khoảng 20%. Độ ẩm không khí trung bình là 80,8%. Số giờ nắng trung
bình là 1.935 giờ/năm.
Khí hậu có một số yếu tố hạn chế như: Lũ vào mùa mưa, hạn hán vào mùa
khô, sương mù và gió nóng ảnh hưởng xấu tới sản xuất.
4.1.1.4.Các Nguồn Tài Nguyên
* Tài nguyên đất
Gồm các loại đất chính sau:
Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét và đất nâu đỏ phát triển trên đá vôi,
đá mắcma trung tính và đá mắcma bazơ giàu chất dinh dưỡng, tầng đất dày thích
hợp cho cây ăn quả, cỏ, cây công nghiệp và cây lâm nghiệp.
Đất dốc tụ và đất vàng nhạt phát triển trên đá cát thích hợp cho phát triển
các loại cây lương thực và công nghiệp ngắn ngày.
Đất Feralít biến đổi do trồng lúa thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt
là cây lương thực, thực phẩm và công nghiệp ngắn ngày. Và một số loại đất khác
* Tài nguyên nước
Mọi người dân trong xã Nà Bó đều lấy nước sinh hoạt và nước sản xuất,
bằng nước giếng khoan va nước mưa để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và cho sản
xuất.
* Tài nguyên rừng
Theo số liệu điều tra năm 2012, diện tích đất lâm nghiệp có rừng trên địa
bàn xã Nà Bó là 2.634.62 ha, trong đó có 1.510.54 ha đất có rừng tự nhiên phòng
hộ và 174,08 ha đất có rừng trồng phòng hộ.
* Tài nguyên nhân văn
Nà Bó có nền văn hoá lâu đời mang đậm bản sắc văn hoá của miền núi Bắc
Bộ. Nhân dân trong xã luôn thể hiện tinh thần tương thân, tương ái, vượt qua khó
khăn thử thách trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cộng đồng các dân
tộc trong xã đoàn kết, gắn bó chung sống từ lâu đời, trong đó: Chủ yếu là dân tộc
23
thái chiếm 74,47%, dân tộc kinh chiếm 31,23% còn lại là dân tộc H'mông chiếm
4,3%.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Dân số, mức độ tăng trưởng trong năm
a) Dân số
Công tác dân số kết hợp lồng ghép các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình được
duy trì thường xuyên. Kết quả, tỷ suất sinh hàng năm đều giảm, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên giảm còn 1.5%. Tuy nhiên, việc giảm tỷ xuất sinh hằng năm chưa được vững
chắc, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm.
Theo số liệu thống kê đến năm 2012, dân số toàn xã là 8.157 người với
3.127 hộ gia đình (quy mô hộ: 9,57 người/hộ). Mật độ dân số trung bình trong toàn
xã là 930 người/km2.
Bảng .4.1.Tình hình dân số- Mức độ tăng trưởng trong năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
1.Tổng số nhân khẩu
Người
2 Tổng số hộ
Hộ
Năm
2008
/km2
4.Số lao động có viêc làm
5.Số lao đông không có
viêc làm
2011
2012
1.115 1,320
2,640
2,770 3,127
1.890 1,990
2.420
2,570 8,157
Lao động
967
9.87
14,20
14,42 14.77
Lao động
789
8,69
5.02
4,27
b. Thành phần dân tộc
- Dân tộc Thái chiếm:
72,04 %
- Dân tộc Kinh chiếm:
21,5 %
- Dân tộc Mông:
2010
9.690 9,810 11,302 12,64 12,78
Người
3.Mật độ dân số
2009
21,5 %
- Dân tộc Khơ mú: 11,2 %
c. Thu nhập
24
3,15
- Thu nhập bình quân 12,11 triệu đồng/ hộ
- Thu nhập bình quân đầu người 2,65 triệu đồng/ người
- Tỷ lệ đói nghèo 5,7 %.
d. Trình độ dân trí
- Tỷ lệ người biết chữ, biết nói tiếng phổ thông 93 %.
- Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường 95 %.
4.1.2.2. Cơ sở hạ tầng
Trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp chính quyền và các
ban ngành, hệ thống cơ sở hạ tầng của xã Nà Bó có sự chuyển biến đáng kể so với
trước, phần nào đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân.
Các tuyến giao thông chính:
- Nà Sản-Hát Lót
- Bản Dôm-Nà Bó-Mường Bằng I
- Nà Bó – Chiềng Sung - Tà Hộc
- Cà Nòi- Hát Lót -Nà Bó -Chiềng Chăn
4.1.2.3. Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2012
Năm 2012 tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 2800 tấn, bình quân
thu nhập trên dầu người đạt 8,3 triệu đồng/năm. Lương thực bình quân trên đầu
người đạt trên 650 kg/năm/người. An ninh lương thực được bảo đảm.
Đẩy nhanh tốc độ chuyên dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nông nghiệp - dịch
vụ - tiểu thủ công nghiệp, đẩy nhanh phát triển chăn nuôi so với trồng trọi, nâng
cao năng xuất, chất lượng sản phẩm với khối lượng hàng hoá lớn, tập chung: Mở
rộng các hoạt động dịch vụ tăng thu nhập cho ngân sách, thực hiện chính sách thu
hút đầu tư, làm tốt công tác giải phóng mặt bằng thực hiện đón dân tái định cư thuỷ
điện Sơn La.
25