Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

DT rèn kỹ năng đọc hiểu tập đọc lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.85 KB, 37 trang )

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết, môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ
hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực này được thể
hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kỹ năng :nghe, nói,
đọc, viết. Đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây
là phân môn có vò trí đặc biệt trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình
thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu
của học sinh ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thông .
Kỹ năng đọc được rèn luyện tập trung trong tiết tập đọc. Giảng dạy phân
môn này, người giáo viên có nhiệm vụ Rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc
ngày càng thành thạo. Đây là yêu cầu có tính đặc trưng của phân môn, đòi hỏi
người giáo viên phải chú ý đến nhiều mặt : rèn tốt cả hai hình thức đọc (đọc
thành tiếng và đọc thầm), nâng dần tốc độ đọc và trình độ thông hiểu - cảm
nhận văn bản theo mức độ yêu cầu đề ra ở từng lớp.
Vấn đề nêu trên đã khẳng đònh việc dạy đọc có một ý nghóa vô cùng to
lớn ở tiểu học, bởi đầu tiên, trẻ phải học đọc, sau đó các em phải đọc để học.
Nếu đọc tốt, các em sẽ dễ dàng chiếm lónh được ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập, đây là một công cụ để các em có thể học tốt các môn học khác.
Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng
tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là khả năng không thể thiếu được của
con người thời đại văn minh.
Kỹ năng đọc là một vấn đề rất phức tạp gồm nhiều mặt, nhiều khía
cạnh. Nó không chỉ đơn thuần là sự “ đánh vần “ lên thành tiếng theo đúng các
ký hiệu chữ viết (đọc trơn thành tiếng) mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá
trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc (đọc hiểu). Đọc
thành tiếng không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc.
Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản được đọc thì
học sinh mới có công cụ hữu hiệu để lónh hội những tri thức, tư tưởng, tình cảm


của người khác chứa đựng trong văn bản, có công cụ lónh hội tri thức khi học
các môn học khác của nhà trường.
Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng
đọc rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói
quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên.
Đích cuối cùng của việc dạy đọc là dạy cho học sinh có kỹ năng làm việc
với văn bản, chiếm lónh được văn bản. Biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử lý
thông tin. Chính vì vậy dạy đọc hiểu có vai trò đặc biệt trong dạy đọc nói riêng,
trong dạy học ở trường tiểu học nói chung và mỗi giáo viên phải có nhiệm vụ
dạy đọc cùng một lúc với cả hai hình thức đọc thành tiếng và đọc hiểu cho học
1


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

sinh một cách có kế hoạch và hệ thống. (đề tài chỉ đề cập đến hình thức đọc
hiểu)
Trong khi đó, việc dạy và học Tập đọc trên cả hai đối tượng giáo viên và
học sinh ở một số trường tiểu học, đặc biệt là ở những trường vùng nông thôn
sâu trong thời gian vừa qua cho thấy rằng việc dạy - học của cả thầy và trò còn
rất nhiều hạn chế:
Đối với giáo viên :
- Việc dạy đọc hiểu cho học sinh bậc tiểu học nói chung hiện nay có thể
phác họa như sau : Giáo viên nêu câu hỏi, học sinh trả lời, giáo viên đánh giá
câu trả lời của học sinh. Thực tế là giáo viên chỉ nêu câu hỏi và chờ đợi những
câu trả lời đúng mà không quan tâm đến chuyện quá trình đọc diễn ra như thế
nào, học sinh làm gì và cần làm gì để có được câu trả lời. Giáo viên chỉ quan
tâm đến kết quả - các nội dung, kiến thức bài đọc đem lại - mà không quan tâm
đến phương pháp để đạt được kết quả này.
- Trong các tiết dạy tập đọc trên lớp, một số giáo viên khi chuẩn bò bài

còn phụ thuộc nhiều vào nội dung câu hỏi ở sách giáo khoa, gợi ý của sách giáo
viên. Nhiều giáo viên còn lúng túng khi dạy nhất là làm thế nào để các em
hiểu văn bản được đọc, làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu;
làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các
em v.v…
- Dạy đọc hiểu cho các em, nhiều giáo viên chỉ dùng một phương pháp
hỏi - đáp và nếu có sử dụng phương pháp này thì chỉ duy nhất là hình thức thầy
hỏi - trò đáp với hệ thống câu hỏi mà sách giáo khoa thể hiện. Chính vì vậy,
bài dạy mang tính áp đặt, đơn điệu, chưa phù hợp với đối tượng học sinh, làm
cho học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ máy móc lời giảng của
giáo viên.
- Quá trình hướng dẫn học sinh luyện đọc hiểu, nhiều giáo viên chưa
quán xuyến đến tất cả các loại đối tượng trên lớp, chỉ tập trung chú ý đến các
em khá, giỏi .
- Việc chọn từ và giải nghóa từ trong quá trình dạy đọc hiểu, không ít giáo
viên còn lúng túng, chưa phân biệt được từ khó cần cung cấp và từ cần chọn để
giảng về nội dung và nghệ thuật. Giảng từ chưa kết hợp với giảng ý và gắn với
văn cảnh cụ thể.
- Một số giáo viên dạy tập đọc theo hai khuynh hướng mà tiết dạy thể
hiện rõ nét là : Tách đọc ra khỏi hiểu và đẩy hiểu sang phạm vi văn học.
Việc làm này thể hiện ở chỗ khi hướng dẫn học sinh luyện đọc, giáo viên
chỉ tập trung ở yêu cầu luyện đọc đúng, phát âm đúng, chỉ dựa vào hướng dẫn
đọc ở sách giáo khoa, sách giáo viên là chính mà ít tập trung hướng dẫn các em
đọc hiểu, mặc dù có bước yêu cầu đọc thầm. Nhưng vấn đề hiểu nội dung toàn
văn bản, từng ý, từng đoạn thì các em chưa biết. Việc hướng dẫn học sinh hiểu
2


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5


văn bản, giáo viên chưa quan sát hoặc xem đó là phần văn học, họ thường
chuyển sang diễn giải nhằm giúp các em hiểu nội dung nghệ thuật của bài,
nhưng yêu cầu của việc đọc là phải hiểu vì nếu có hiểu học sinh mới xác đònh
được đại ý của bài đọc. Đây là những trăn trở của đa số giáo viên trong mỗi giờ
Tập đọc.
 Đối với học sinh :
- Kết quả học đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình
thành kỹ năng đọc. Các em chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lónh hội
tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chưa đựng trong văn bản được đọc.
- Nhìn chung các em ít quan tâm đến việc rèn kỹ năng đọc hiểu, chỉ chú ý
việc rèn đọc thành tiếng. Nếu có học thì các em cũng chưa biết cách đọc, chỉ
đọc bài một cách qua loa, chiếu lệ, chưa có sự chuẩn bò bài chu đáo.
- Đến lớp, do phương pháp dạy học của thầy, đa số các em chưa phát huy
vai trò của cá nhân trong quá trình luyện đọc nhất là đọc thầm vì đọc thầm đòi
hỏi tính tự giác là chủ yếu.
Những vấn đề nêu trên cho thấy học sinh đọc mà không nắm được điều gì
là cốt yếu trong văn bản. Kết quả học đọc của các em chưa đáp ứng được yêu
cầu của việc hình thành một kỹ năng giao tiếp quan trọng. Nguyên nhân chính
của hạn chế này là do giáo viên chưa nắm chắc nội dung và phương pháp dạy
đọc hiểu.
Làm thế nào để tổ chức dạy tốt một tiết tập đọc trên lớp đặc biệt và việc
rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh một cách có hiệu quả nhất ?
Lớp 5 là lớp cuối cùng của bậc tiểu học, để tạo tiền đề tốt cho học sinh
tiếp tục học lên những lớp trên một cách có hiệu quả, việc rèn kỹ năng đọc
hiểu cho các em là rất quan trọng, người thầy có phương pháp tốt thì trò mới
đọc tốt, hiểu tốt những gì mình được đọc.
Từ những suy nghó trên, bản thân chọn đề tài “Rèn kỹ năng đọc hiểu cho
học sinh lớp 5” với dụng ý đề xuất một vài biện pháp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng dạy học, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân, cho
đơn vò trường mình sau này.

II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
Đề tài nhằm nâng cao hiệu quả của việc rèn kỹ năng đọc hiểu cho học
sinh lớp 5.Để đạt được mục đích này, đề tài đặt ra những nhiệm vụ cần giải
quyết sau :
1. Nghiên cứu các cơ sở khoa học mang tính lý luận và thực tiễn trong
việc tổ chức rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 5.
2. Đề xuất các phương pháp tích cực nhằm tổ chức tốt viêïc rèn kỹ năng
đọc hiểu cho học sinh lớp 5.
3


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

3. Tổ chức thực hiện và kiểm tra tính thực thi cũng như tính hiệu quả của
việc rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 5 trên cơ sở dựa vào các biện pháp
đề xuất.
III. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU :
- Các tài liệu có liên quan đến việc rèn kỹ năng đọc hiểu .
- Hoạt động dạy - học của giáo viên và học sinh lớp 5 trường tiểu học
Hòa Mỹ 2 - Huyện Phụng Hiệp - Tỉnh Hậu Giang trong giờ Tập đọc.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình nghiên cứu, bản thân đã phối hợp vận dụng những
phương pháp sau :
- Phương pháp tổng hợp và ứng dụng lý luận qua việc tham khảo các loại
sách, báo có liên quan với vấn đề.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm để kiểm tra đối chiếu.
- Phương pháp thống kê, phân loại.

4



RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I :
CÁC CƠ SỞ ĐỂ XÁC ĐỊNH NỘI DUNG DẠY ĐỌC HIỂU
I. VĂN BẢN VỚI VẤN ĐỀ ĐỌC HIỂU :

1) Đặc điểm của văn bản :
1.1. Để làm rõ dạy đọc hiểu là làm gì, chúng ta cần hiểu rõ đối tượng mà
đọc hiểu tác động : văn bản.
Văn bản là một sản phẩm của lời nói, một chỉnh thể ngôn ngữ, thường
bao gồm một tập hợp các câu và có thể có một đầu đề, nhất quán về chủ đề và
trọn vẹn về nội dung, được tổ chức theo một kết cấu chặt chẽ nhằm một mục
đích giao tiếp nhất đònh.
1.2. Văn bản có tính chỉnh thể. Tính chỉnh thể này thể hiện ở hai phương
diện :
+ Về mặt nội dung, nó biểu hiện tính nhất quán về chủ đề, ở sự phát triển
mạch lạc, chặt chẽ của nội dung và bộc lộ ở tính nhất quán và rõ rệt ở mục tiêu
văn bản.
+ Về mặt hình thức, tính chỉnh thể thể hiện ở kết cấu mạch lạc và chặt
chẽ, giữa các bộ phận trong văn bản có các hình thức liên kết và toàn văn bản
có một tên gọi.
Tính nhất quán chủ đề thể hiện ở chỗ toàn văn bản tập trung vào một chủ
đề thống nhất, chủ đề này được triển khai qua các chủ đề bộ phận (các tiểu chủ
đề) của từng phần, từng chương, từng mục, từng đoạn. Ví dụ bài : Tình quê
hương (TV5 - Tập 1).
Chủ đề của văn bản này la øtình quê hương. Các bộ phận của văn bản đều
tập trung vào chủ đề và phát triển qua 3 phần :
 Tình cảm về quê hương của anh bộ đội.

 Những kỷ niệm về quê hương.
 Mùi vò quê hương.
Tất cả những bộ phận này của văn bản cùng cộng hưởng, phát triển làm
nổi bậc tình cảm mãnh liệt và sâu sắc của anh bộ đội đối với quê hương mình.
Để hiểu văn bản, phải làm rõ được chủ đề này. Đây là nhiệm vụ mà
trường tiểu học thường gọi là tìm đại ý hay xác đònh nội dung của bài.
Văn bản (bài) được dạy đọc ở tiểu học thường có dung lượng không lớn,
nên cấp độ dưới văn bản thường chỉ là đoạn văn, khổ thơ. Để xác đònh được nội
dung của bài cần phải tìm được nội dung của đoạn.

5


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

- Tính nhất quán của văn bản thể hiện ở mục tiêu văn bản. Văn bản là
sản phẩm của quá trình giao tiếp. Mục đích của giao tiếp cũng chính là mục
đích của văn bản. Hoạt động giao tiếp nhằm vào các mục đích : thông tin
(thông báo tin tức), tự biểu hiện, giải trí, tạo lập quan hệ và đích hành động.
Những mục tiêu này được thực hiện đồng thời trong từng văn bản nhưng trong
từng phong cách, kiểu loại văn bản, các mục tiêu không được thể hiện đồng
đều.
Tất cả các văn bản xét cho cùng đều hướng đến mục đích hành động, vì
dù là đích thông tin hay tự biểu hiện, tạo lập quan hệ hay giải trí, thực chất vẫn
là nhằm tác động vào lý trí để thuyết phục hoặc là tác động vào tình cảm để
truyền cảm, hướng người đọc, người nghe đến một hành động nào đó.
Chính mục đích giao tiếp làm cho văn bản luôn chứa đựng nội dung thông
tin và nội dung này tạo ra các bình diện ngữ nghóa của văn bản. Có hai nội dung
thông tin cần tìm hiểu :
+ Nội dung miêu tả hay còn gọi là nội dung sự vật , là những hiểu biết,

những nhận thức về thế giới xung quanh, về xã hội và về chính bản thân con
người. Nội dung này tạo thành nghóa sự vật của văn bản. Trong giờ Tập đọc,
các câu hỏi: Từ này nghóa là gì? Câu này nói gì? Bài này nói về điều gì?...
nhằm hướng đến xác đònh nội dung sự vật ở từng văn bản.
+ Nội dung thông tin về những cảm xúc, tình cảm, thái độ của người viết
đối với đối tượng, sự việc được đề cập đến, đối với người tham gia hoạt động
giao tiếp. Trong giờ Tập đọc có các câu hỏi: “ Cảm xúc, tình cảm của tác giả
như thế nào ?”, “ Những câu, từ nào bộc lộ cảm xúc của tác giả ?”, “Bài này
được viết với thái độ, tình cảm ra sao?” nhằm hướng đến xác đònh nội dung liên
cá nhân của văn bản.
Trong các loại văn bản khác nhau, tỷ lệ hai loại thông tin cũng khác
nhau. Các văn bản khoa học, hành chính, truyền thông (chương trình 2000 chú
trọng đưa vào nhiều hơn) thiên về loại thông tin thứ nhất. Các văn bản nghệ
thuật mang cả 2 loại thông tin nhưng thông tin về cảm xúc tình cảm là đặc trưng
cơ bản, thông tin này chưa được chú trọng khai thác đúng mức trong giờ Tập
đọc ở tiểu học.
Xét cách thức biểu hiện các thông tin ngữ nghóa thì cần phân biệt :
+ Nghóa tường minh : là các thông tin được biểu hiện bằng các từ ngữ có
mặt trong văn bản, và bằng các cấu trúc ngữ pháp của cụm từ, của câu, của
đoạn văn, của văn bản. Các thông tin này được biểu hiện trên bề mặt của câu
chữ và người đọc tiếp nhận nó thông qua nguyên văn từ ngữ và cấu trúc ngữ
pháp.
+ Nghóa hàm ẩn : là các thông tin được suy ra từ thông tin tường minh và
từ hoàn cảnh giao tiếp cụ thể của văn bản. Để hiểu được thông tin hàm ẩn của
văn bản, người đọc phải tiến hành phân tích và suy ý dựa vào các yếu tố ngôn
6


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5


ngữ hiện diện trong văn bản và hoàn cảnh giao tiếp để rút ra thông tin hàm ẩn.
Có thể nói đó là phương pháp đọc những gì ẩn dưới các hàng chữ.

2) Bản chất của quá trình đọc hiểu văn bản:
Văn bản có tính chỉnh thể, tính hướng đích và đồng thời với việc chỉ ra
tính chỉnh thể, hướng đích của văn bản, người ta đã chỉ ra khả năng phân tích
thành các yếu tố nhỏ hơn của văn bản .
Đây là những kết luận quan trọng mà giáo viên tiểu học cần phải nắm
chắc để dạy tiếp nhận - đọc hiểu - văn bản. Việc sản sinh và tiếp nhận văn bản
là hai quá trình của một hoạt động giao tiếp.
- Trong quá trình sản sinh văn bản, người viết phải có mục đích, động cơ
giao tiếp. Họ phải lập chương trình giao tiếp và triển khai ý đồ này một cách
cặn kẽ, cho đến khi văn bản đó đạt được những mục đích đặt ra trong một hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể với những nhân tố giao tiếp cụ thể.
- Trong quá trình tiếp nhận, người đọc phải hướng đến lónh hội nội dung
và đích của văn bản. Để đạt được mục tiêu này, họ phải phân tích văn bản trên
những gì đã được người viết triển khai : nghóa của từ, nghóa miêu tả và nghóa
của câu, của đoạn và nghóa của toàn bài rồi mới đi đến mục đích thông báo của
văn bản. Chính vì vậy, đọc hiểu là một cách đọc phân tích.
Quá trình phân tích văn bản trong đọc hiểu diễn ra theo hai cách ngược
nhau. Người đọc chọn cách phân tích nào tùy thuộc vào vốn sống, trình độ văn
hóa và kỹ năng đọc.
+ Người có trình độ văn hóa cao và có nhiều kinh nghiệm sống thường
chọn cách phân tích đi từ nghóa chung của văn bản đến nghóa của từng bộ phận
trong văn bản từ đó khái quát lên chủ đề, tư tưởng của văn bản.
+ Người đọc chưa có kinh nghiệm, vốn sống chưa nhiều thường chọn cách
phân tích đi từ nghóa của bộ phận nhỏ (từ, câu, đoạn) đến nghóa chung của văn
bản (đại ý, chủ đề, đích của văn bản)… Mặc dù vậy, dù chọn cách phân tích nào
thì để hiểu văn bản, người đọc vẫn phải biết nghóa của các bộ phận nhỏ trong
văn bản và lấy đó làm căn cứ để xác đònh chủ đề, đích của văn bản. Việc đọc

hiểu của người có trình độ cao nhanh hơn người có trình độ thấp là họ đã vượt
qua được giai đoạn đọc từng từ, từng chữ.
Khả năng đọc và vốn sống của học sinh tiểu học còn bò hạn chế nên về
cơ bản, dạy đọc ở tiểu học nên theo cách phân tích văn bản đi từ hiểu nghóa của
từng bộ phận nhỏ đến hiểu nội dung và đích của toàn bản. Song trong một số
bài tập đọc, nhất là ở phần cuối lớp 5, cần phối hợp dạy theo cả hai cách phân
tích nói trên nhằm giúp học sinh bắt đầu làm quen với kỹ năng quan sát toàn
bài để đọc lướt, đọc quét, đọc đoán nghóa. Đây là những kỹ năng mà chương
7


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

trình 165 tuần chưa có điều kiện rèn luyện. Tất nhiên để hình thành những kỹ
năng này, cần phải lựa chon những văn bản thích hợp.
Lựa chọn văn bản rất quan trọng trong việc thực hiện chương trình dạy
đọc. Một bài đọc không thích hợp không những có thể làm cản trở sự hiểu của
học sinh mà còn có thể làm các em mất hứng thú đọc. Không chọn được văn
bản thích hợp thì chúng ta cũng không thể hình thành được cho học sinh những
kỹ năng đọc mong muốn.
Đọc hiểu là một hoạt động có tính quá trình vì nó gồm 3 hành động được
trải ra theo tuyến tính thời gian và Dạy đọc hiểu là hình thành kỹ năng để tiến
hành những hành động này:
2.1. Hành động nhận diện ngôn ngữ của văn bản tức là nhận đủ các tín
hiệu ngôn ngữ mà người viết dùng để tạo ra văn bản, gồm những kỹ năng :
+ Nhận diện từ mới và phát hiện các từ quan trọng (từ chìa khóa)trong
văn bản.
+ Nhận ra các câu khó hiểu, các câu quan trọng.
+ Nhận ra các đoạn ý của văn bản : cấu trúc của văn bản, mối quan hệ
giữa các bộ phận trong bài, kiểu cấu trúc của đoạn.

+ Nhận ra đề tài văn bản: quan sát tên bài, chú ý dựa vào tên bài, các
hình vẽ minh họa, sơ đồ (nếu có) để phỏng đoán về nội dung văn bản; phán
đoán nội dung bài đọc đựa vào kiến thức vốn có về chủ điểm.
2.2. Hành động làm rõ nghóa nội dung của văn bản và ý đồ tác động của
người viết đến người đọc gồm những kỹ năng : Làm rõ nghóa từ : bằng ngữ
cảnh, bằng trực quan bằng đồng nghóa…; làm rõ nội dung thông báo của câu;
làm rõ ý của đoạn; làm rõ ý chính của văn bản : đọc lướt tìm ý chung của bài,
của đoạn để có thể xử lý bài đọc như một chỉnh thế trọn vẹn trước khi đi vào
chi tiết; khái quát hóa, tóm tắt nội dung đã đọc; làm rõ mục đích của người viết
vào văn bản và nhận biết những ẩn ý của tác giả.
II. TÁC PHẨM VĂN HỌC VỚI VẤN ĐỀ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
NGHỆ THUẬT :
Trong số các văn bản dùng để dạy đọc hiểu ở trường tiểu học, loại văn
bản nghệ thuật có một vò trí đặc biệt không những bởi tầm quan trọng của loại
văn bản này mà còn do tỉ lệ văn bản nghệ thuật được đưa vào chương trình rất
cao và nhiệm vò dạy hiểu loại văn bản này phức tạp hơn.
Đọc văn bản nghệ thuật, học sinh không chỉ hiểu nội dung văn bản mà
còn phải cảm thụ được một loại hình nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Vì
vậy, đọc văn bản nghệ thuật thực hiện một nhiệm vụ kép : dạy một kỹ năng
tiếng Việt và dạy văn. Từ đây có thể suy ra dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật
gồm công việc làm cho học sinh nắm được nội dung của văn bản, mục tiêu của
văn bản đồng thời dạy cho học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, hình
8


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

tượng văn chương làm nên nội dung văn bản. Với nghóa đó, dạy đọc hiểu văn
bản nghệ thuật là dạy cảm thụ văn học.
Để dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật, người giáo viên tiểu học phải hiểu

rõ đặc trưng văn chương và đặc trưng tiếp nhận văn chương. Lý thuyết tiếp
nhận văn học đã chỉ ra ba cấp độ trong tiếp nhận văn học của người đọc :
- Tri giác, hiểu ngôn từ, tình tiết, cốt truyện, thể loại để có cảm nhận hình
tượng trong sự toàn vẹn của các chi tiết, các liên hệ.
- Tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của người nghệ só, thâm nhập vào hệ thống
hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của tác giả.
- Đưa hình tượng vào đời sống và kinh nghiệm riêng của mình để thể
nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng nâng cấp lý giải tác phẩm lên cấp quan niệm và
tính hệ thống, hiểu được vò trí tác phẩm trong lòch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống
và truyền thống nghệ thuật.
Ba cấp độ trên có điểm tương đồng với ba bước trong quá trình đọc hiểu
văn bản và như vậy hiểu văn bản nghệ thuật là hiểu một kiểu văn bản. Tách
việc hiểu văn bản nghệ thuật ra khỏi cái chung, khỏi hiểu văn bản là không hợp
lý. Đồng thời những đặc trưng của văn bản nghệ thuật cũng cho ta thấy muốn
hiểu nó, ngoài bước đi chung còn phải nắm bắt được các đặc điểm riêng của
loại văn bản này. Vậy văn bản nghệ thuật là gì và chúng có những đặc điểm
nào ?
Văn bản văn học là một tổ chức nghệ thuật gồm từ, câu, đoạn tạo thành
một thế giới nghệ thuật mang tính khái quát nhằm phản ánh đời sống và biểu
hiện sự cảm nhận trước đời sống của tác giả, nhằm thức tỉnh những thái độ, tình
cảm nhất đònh đối với thực tại đời sống thông qua việc xây dựng nhân vật,
không gian, thời gian, qua việc sắp xếp các chi tiết để tạo thành bức tranh đời
sống sinh động nhằm biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả.
Giữa văn bản nghệ thuật và văn bản có những điểm giống nhau: cả hai
cùng có tính hoàn chỉnh trên cơ sở liên kết nội dung và hình thức; cùng nhằm
mục đích thông tin, cùng dùng ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt. Nhưng trên
cả ba điểm giống nhau này, giữa hai loại văn bản cũng có chỗ khác nhau:
- Về nội dung thông tin :
+ Thông tin trong các văn bản nói chung là thông tin sự vật, hiển ngôn.
+ Thông tin trong văn bản nghệ thuật, tác giả phải tổ chức ngôn ngữ và

gửi gắm thái độ của mình để tạo ra thông tin liên cá nhân và hàm ẩn.
- Về kết cấu :
+ Ở văn bản thông thường, kết cấu theo mẫu quy phạm và công thức.
+ Ở văn bản nghệ thuật vô cùng đa dạng, tùy theo loại thể và sự sáng tạo
của từng tác giả.
- Về ngôn ngữ :

9


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

+ Trong các văn bản khác, ngôn ngữ thường mang tính khái niệm, tính
khoa học, tính chính xác và vì thế từ thường được dùng đơn nghóa.
+ Trong văn bản nghệ thuật, ngôn ngữ mang tính đa nghóa, tính biểu
tượng, tượng trưng, gợi cảm.
1. Các đặc trưng cơ bản của văn học:
1.1. Tính nhân văn của văn bản nghệ thuật :
Nội dung văn bản nghệ thuật chủ yếu nói về con người, tư tưởng, tình
cảm, tâm hồn của con người. Dù nhà văn có quan tâm, có miêu tả hiện tượng
nào của cuộc sống đi nữa thì điều mà nhà văn tìm hiểu, điều làm họ ngạc
nhiên, xúc động như mình không phải là bản thân các hiện tượng đó mà là mối
liên hệ của chúng với con ngưòi, ý nghóa cuộc sống của con người trước những
hiện tượng cụ thể và trước cuộc sống.
Vì vậy, đoạn văn, câu chuyện, bài thơ dù có nói về con vật, về cây cối…
thì cũng nói về con người. Mà con người thì giàu xúc động, giàu tình cảm và
tình yêu. Cũng vì vậy, đích cuối cùng của dạy cảm thụ văn chương không chỉ là
cho thấy bài văn đã ghi chép hiện thực gì mà trước hết phải cho thấy bài văn là
kết quả của một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ những tình cảm, thái độ của
nhà văn trước hiện thực.

Không chú ý đến đặc trưng này, nhiều giáo viên đã dạy đọc hiểu văn
chương như dạy một bài khoa học thường thức. Nhiều giáo viên đem đến cho
học sinh cỏ cây, rừng núi, còn nhân vật con người, lòng yêu cỏ cây, vạn vật của
họ dường như chẳng bao giờ được động chạm đến. Học bài “Hành trình của bầy
ong” (TV5 -T1) có giáo viên đã kết luận : “ Bài thơ cho chúng ta biết những
con ong rất chăm chỉ, chòu khó làm ra mật ong thơm ngon và bổ để phục vụ con
ngươi”. Còn những suy nghó của Nguyễn Đức Mậu (tác giả) về cuộc đời lao
động cần cù lặng lẽ có ích cho con người và có thể liên tưởng mở rộng đến cả
lao động sáng tạo không mệt mỏi của người nghệ só chẳng hề được nói đến.
Thế thì sao gọi là đọc hiểu thơ.
1.2. Tính chủ quan của văn bản nghệ thuật :
Tác phẩm nghệ thuật “là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan “, là
con đẻ tinh thần của nhà văn, là sự sáng tạo, là bản thông điệp để nhà văn gửi
gắm tâm tình của mình đến bạn đọc. Không nắm được đặc điểm “chủ quan”
trong phản ánh, chúng ta đã có những sai lầm đáng tiếc khi dạy đọc văn.
Nhiều giáo viên chúng ta không làm cho học sinh hiểu đằng sau một văn
bản, đằng sau những từ ngữ là một con người cụ thể. Họ đem đến cho học sinh
một văn bản trừu tượng, hoàn toàn đã được khách quan hóa, tách ra khỏi người
đã sáng tạo ra nó - tác giả, vì thế không giải đáp được nhiều điều và không làm
rõ được những nội dung thông tin liên cá nhân của văn bản.
10


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

Không thấy tính chủ quan này, không hiểu rằng nhà văn đã nhìn thế giới
theo lợi ích riêng ,tình cảm riêng của mình, có những giáo viên đã lấy thước đo
khoa học khách quan lạnh lùng để rọi vào văn, thậm chí có những nhận xét rất
không đúng. Ví dụ có giáo viên cho rằng trong câu “ Nhựa ngọt, mùi thơm, khí
ấm tràn trề “(Sau trận mưa rào -TV5, T1), Huygô nói “nhựa ngọt” (ở đây chỉ

nhựa cây).
Chính tính chủ quan, đặc điểm tình cảm, cảm xúc này của tác phẩm nghệ
thuật đòi hỏi khi tiếp nhận văn chương, học sinh không chỉ phải hiểu nội dung
sự việc của văn bản mà còn phải nắm nội dung liên cá nhân, giá trò biểu hiện,
chất trữ tình, tức thái độ, tình cảm, sự đánh giá sự việc của tác giả, cái làm nên
chức năng bộc lộ của văn bản. Không chú ý điều này chúng ta sẽ không hướng
dẫn học sinh hiểu được nghóa liên cá nhân của tác phẩm nghệ thuật. Khi dạy
bài Việt Nam (Lê Anh Xuân - TV5 - T1) nhiều giáo viên đã dạy như một giờ đòa
lý tự nhiên giới thiệu về một đất nước nhiệt đới gió mùa lắm mưa nhiều nắng,
độ ẩm cao nên cây cối xanh tốt. Họ chẳng làm cho học sinh nhận ra được phải
có tình yêu với quê hương đất nước như thế nào Lê Anh Xuân mới viết được
những lời ngợi ca như vậy.
1.3. Tính biểu trưng, hình tượng, độc đáo khác thường của văn bản nghệ
thuật:
Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, nó đi tìm cho mình một
ngôn ngữ riêng, một cách thể hiện riêng. Chính vì vậy, khi tiếp nhận văn
chương, học sinh phải tiếp nhận khác với logic thông tục của đời thường. Đó là
năng lực biết nghe được, đọc được những gì ẩn dưới những chuỗi âm thanh, ẩn
dưới các dòng chữ
Để hiểu văn chương, phải chú trọng các đặc điểm diễn đạt hàm ẩn, cách
nói biểu trưng, tính đa nghóa, những cách nói hướng đến “gây ấn tượng” khác
với ngôn ngữ đời thường. Nếu chỉ biết tư duy “thật thà” theo lối đời thường, ta
không thể hiểu được văn. Chẳng hạn, khi đọc hai câu thơ : “Con xót lòng mẹ
hái trấi bưởi đào, Con nhạt miệng có canh tôm nấu khế”, có giáo viên và học
sinh đã thắc mắc tại sao xót lòng lại cho ăn bưởi, như thế chỉ làm cho càng xót
lòng thêm. Trong khi đó, lẽ ra cần phải hiểu: mẹ lúc nào cũng sẵn sàng chăm
sóc con, lo lắng cho con, sẵn sàng làm tất cả những gì mà con cần.
Như vậy, không hiểu được cái nghóa, cái lý, cái tình của văn chương,
không hiểu được đặc điểm phản ánh hình tượng vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa
đa nghóa, vừa mang tính độc đáo, mới mẻ của văn chương, chúng ta sẽ không

tìm được chìa khóa mở cửa “văn”, không hướng dẫn học sinh hiểu văn bản văn
chương được.
1.4. Văn bản nghệ thuật - nghệ thuật của ngôn từ :

11


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

Một tác phẩm văn học có giá trò phải là sự hài hòa của nội dung và hình
thức, tình ý chứa chan mà lời lẽ phải dạt dào. Vì vậy, ngoài việc giải mã nghóa,
lý, tình, dạy đọc hiểu văn chương còn phải cho học sinh tiếp nhận được vẻ đẹp
của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, khả năng phát hiện được tín hiệu
nghệ thuật và cao hơn nữa là cho các em đánh giá được giá trò của các tín hiệu
nghệ thuật trong việc biểu đạt nội dung. Đây cũng chính là nội dung dạy cảm
thụ văn học ở trường tiểu học. Việc tìm hiểu tác phẩm văn học phải bắt đầu từ
việc khám phá văn bản ngôn từ của nó. Không có chìa khóa để mở cánh cửa đi
vào cấu trúc ngôn từ của tác phẩm thì chúng ta chỉ có thể đứng ngoài ngôi nhà
văn chương.
+ Phương diện âm thanh, nhạc tính góp phần tạo ra giọng văn, giọng thơ
giúp học sinh có hứng thú khi đọc diễn cảm. Trong các bài tập đọc, Khi cảm thụ
bằng chính giọng đọc, nhạc thơ của mình, học sinh sẽ nâng cao khả năng cảm
xúc thẩm mỹ và kích thích các em khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương.
+ Phương diện từ vựng tức những từ ngữ trong văn bản, chúng thường
mang tính gợi tả, gợi cảm làm cho ý của từng câu văn trong tác phẩm trở nên
sinh động, hấp dẫn kích thích khả năng tiếp nhận văn bản của học sinh.
+ Phương diện cú pháp, trước hết nhờ từ ngữ mang nghóa biểu trưng mà
tác phẩm văn học thường có những cách kết hợp từ bất thường, gây ấn tượng,
không hề có trong ngôn ngữ đời thường kiểu như “Sắc màu Việt Nam” (Sắc
màu em yêu) “Mùi vò quê hương” (Tình quê hương).

Cấu trúc ngữ pháp thơ không phải lúc nào cũng như cú pháp lời nói
thường. Lời thơ được nén lại, nên nhiều khi muốn giải mã câu thơ phải thêm từ
ngữ để lấp đầy. Không hiểu đặc điểm cú pháp của thơ, nhiều giáo viên đã
không cắt nghóa đúng.
Về phương diện ngữ pháp của câu văn nghệ thuật, cần phân biệt lời nhân
vật và lời tác giả, những nhận điònh, những lời bàn trực tiếp, những câu trực tiếp
bộc lộ cảm xúc, cần phân biệt những câu miêu tả và câu nhận đònh
Chẳng hạn, nhờ phát hiện những câu đổi vai nói, những câu trực tiếp bộc
lộ cảm xúc như câu “ Người đi hồn vẫn mơ màng đâu đây” của bài Đẹp thay
non nước Nha Trang, ta nhanh chóng xác đònh được nội dung liên cá nhân - chất
trữ tình cảm xúc của những bài thơ này.
Không xác đònh đúng vai nói, đối tượng nói năng của các câu trong văn
bản, nhiều khi ta sẽ bỏ quên những tình cảm, cảm xúc rất đáng yêu của bài
văn, bài thơ. Ở bài thơ Chú bé Kô-li-a (TV5), nếu không xác đònh được các câu
hội thoại, câu hỏi của tác giả và lời chú bé Kô-li-a trong đoạn thơ từ Tuổi mười
hai …nướng bánh đưa đường.), thì sẽ không đọc với sự uyển chuyển giọng cần
thiết và chính vì vậy cũng khó hiểu được nội dung đoạn thơ.
+ Phương diện bút pháp cũng cần phải quan tâm, điều này sẽ giúp chúng
ta tháo gỡ những vướng mắc khi đọc hiểu một cách dễ dàng hơn. Chẳng hạn,
12


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

chú trọng đến mạch ẩn dụ xuyên suốt từng bài Gửi các vì sao, Hành trình bầy
ong,, ta mới không dạy Gửi các vì sao như một bài tả cảnh trời đêm. Bài Hành
trình bầy ong không thể chỉ dừng lại ở chuyện những con ong chăm chỉ, có ích.

1.5. Thể loại của tác phẩm văn học và vấn đề dạy đọc hiểu :
Văn bản nghệ thuật và các kiểu văn bản khác đòi hỏi có những cách dạy

đọc hiểu khác nhau :
- Để luyện đọc thành tiếng, việc phân biệt tác phẩm theo cách tổ chức
phương tiện ngôn ngữ (hình thức tác phẩm) là quan trọng bởi văn vần có tính
nhạc, cách đọc khác văn xuôi hoàn toàn dựa vào nghóa.
- Để đọc hiểu, việc phân biệt phương thức tự sự hay trữ tình là quan
trọng. Thường tác phẩm tự sự có hình thức văn xuôi, tác phẩm trữ tình, có hình
thức thơ nhưng cũng có những bài thơ viết theo thể văn xuôi và có những câu
chuyện viết theo thể văn vần.
học :

2) Đặc điểm của tiếp nhận văn học và dạy đọc hiểu cho học sinh tiểu

Văn bản được cụ thể hóa trong tác phẩm văn học. Dạy đọc hiểu văn bản
văn chương hay dạy tiếp nhận tiếp nhận văn chương là quá trình biến văn bản
thành tác phẩm của mỗi học sinh bởi “Mỗi quyển sách đều có số phận riêng
của mình trong đầu bạn đọc cuả nó” (L.Tônxtôi). Đây là một qúa trình phức tạp
do tính đa nghóa, hàm súc, tính đối thoại của ngôn từ, tính không nói hết của
hình tượng nghệ thuật cũng như do sự liên tưởng, tưởng tượng, khám phá sáng
tạo hết sức phong phú của người đọc. Học sinh sẽ bắt đầu đọc tác phẩm, tri giác
toàn bộ tác phẩm, từ những yếu tố nhỏ nhất như tiếng, từ, câu đến việc tiếp
nhận ý nghóa của toàn bộ tác phẩm, cụ thể hóa, khái quát hóa nghệ thuật để
hiểu giá trò đích thực của tác phẩm, chuyển nội dung văn bản thành tác phẩm
của mình. Qua trình tiếp nhận văn bản văn chương rất phức tạp bởi :
- Nó phối hợp cả cảm xúc và lý trí, nó thường đi từ những cảm thụ có tính
chất trực giác, trực cảm ban đầu đến những tiếp nhận chiều sâu giải nghóa,
phân tích một cách khoa học để học sinh có trong mình một tác phẩm gắn với
sản phẩm mà tác giả muốn gửi gắm qua văn bản.
- Nó vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Nếu văn bản
nghệ thuật có tính chủ quan thì việc tiếp nhận nó cũng mang tính chủ quan vì
nó phụ thuộc vào vốn sống, vốn văn chương, tình cảm, thò hiếu tâm lý của

người tiếp nhận. Điều đó cho phép chủ quan sáng tạo khi tiếp nhận. Đặc điểm
này đòi hỏi khi dạy đọc văn chương, giáo viên phải tổ chức cho các em nhập
thân vào tác phẩm .Không có sự nhập thân thật sự thì không thể có hoạt động
tiếp nhận văn học. Chính tính chủ quan trong tiếp nhận quyết đònh chuyện một
13


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

đứa trẻ thích hay không thích một bài tập đọc nào đó trong chương trình. Và
việc tìm hiểu điều này sẽ giúp chúng ta chọn văn bản dạy đọc cho thích hợp.
Từ đây, giáo viên cần rút ra bài học là trong dạy hiểu văn chương có
nhiều phương án và cần chấp nhận sự khác biệt trong tiếp nhận. Giáo viên cần
tôn trọng những cảm xúc, cảm nhận, suy nghó tuy còn thơ ngây, non nớt nhưng
rất riêng của học sinh, không gò ép các em hiểu theo cách duy nhất hoặc nói
theo lời lẽ của mình. Tôn trọng cái riêng của học sinh trong giờ học, ta nên có
những bài tập yêu cầu học sinh nêu những từ ngữ, hình ảnh, tình tiết mà mình
thích nhất và cho các em tập lý giải vì sao mình lại thích những từ ngữ, hình
ảnh, tình tiết đó.
Đồng thời với tính chủ quan, tiếp nhận văn học có tính khách quan bởi tác
phẩm là sản phẩm tinh thần của một nhà văn, tồn tại độc lập, khách quan với
người đọc. Nó mang trong mình những nghóa hiển ngôn và hàm ngôn.. Việc chỉ
ra tính đa nghóa của tác phẩm hoàn toàn không cho phép hiểu tác phẩm một
cách tùy tiện. Nó đòi hỏi tiếp nhận của người đọc, dù chủ quan đến mấy cũng
phải căn cứ vào ý nghóa khách quan của hình tượng trong văn bản. Vì vậy trong
dạy học lại phải dự tính, điều chỉnh những nhận thức tản mạn không có cơ sở
của học sinh khi hiểu tác phẩm.
Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương là chuyển hóa từ văn bản của tác giả
sang sự tiếp nhận của học sinh. Vì vậy, mỗi giáo viên chúng ta không thể làm
cho học sinh hiểu tác phẩm nếu không tính đến đặc điểm cá tính của từng học

sinh tiểu học.
Việc xem xét bình diện ngữ nghóa của văn bản đã giúp cho chúng ta có
căn cứ để dạy nghóa những từ, ngữ, câu trong văn bản, xác đònh được ý nghóa
của cả đoạn, cả bài, hình tượng tác phẩm. Nói cách khác, nó giúp chúng ta xác
đònh được nội dung dạy đọc hiểu ở tiểu học. Trong giáo án, nội dung này tương
ứng với mục “hiểu”. Những hiểu biết về văn bản, cấu trúc và các bình diện văn
bản, các thể loại văn bản, đặc biệt là các đặc trưng của tác phẩm văn chương là
những cơ sở khoa học để xác đònh nội dung dạy đọc hiểu cũng phần nào giúp
chúng ta hình dung phương pháp dạy tập đọc nói chung dạy đọc hiểu nói riêng.

14


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

CHƯƠNG II :
NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
I. NỘI DUNG DẠY HỌC (Chương trình cải cách giáo dục )

1. Về nội dung các bài tập đọc :
Từ năm học 1994 - 1995 trở về đây, các bài tập đọc được đưa vào phân
môn Tập đọc và được trình bày ở đầu sách Tiếng việt mỗi tập. Mỗi tuần có hai
bài tập đọc cũng là hai tiết. Về nội dung, các bài tập đọc lớp 5 xoay quanh 3
trục chủ điểm chính : Măng non: 14 bài ; Đất nước : 52 bài.
Ở lớp 5, chủ điểm “Măng non” ( học kì 1) gồm các bài tập đọc về nghóa
vụ của người học sinh, về hình ảnh người thiếu niên dũng cảm trung thực. Chủ
điểm “Đất nước (học suốt cả hai học kì)”, gồm những bài tập đọc nói về đất
nước tươi đẹp, về lòng yêu quê hương đất nước và về những con người chiến
đấu, lao động anh dũng, vẻ vang. Trong đó ở cuối năm học, học sinh được học 3
bài tập đọc nói về Bác Hồ và hai bài thơ của Bác - Người kết tinh những tinh

hoa của dân tộc Việt Nam.
2. Về cách trình bày các bài tập đọc :
Các bài tập đọc được trình bày gồm các phần như văn bản (bài văn hoặc
bài thơ), chú giải, hướng dẫn đọc : chỉ dẫn cách đọc một số câu khó, đoạn khó
về cách ngắt nhòp, nhấn giọng hoặc gợi ra những đặc điểm nội dung, những sắc
thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc. Phần tìm hiểu bài gồm những câu
hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trò nội dung và nghệ thuật của bài văn, bài
thơ. Ở những bài còn có thêm yêu cầu học thuộc lòng.
Nhận xét chung về nội dung và cách trình bày các bài tập đọc trong sách
giáo khoa Tiếng Việt 5 :
Nội dung, chương trình sách giáo khoa dạy tập đọc (Chương trình CCGD),
đã thực hiện được mục tiêu trang bò các kiến thức tiếng Việt và phát triển các kó
năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm lớn
đó, vẫn còn một số hạn chế mà các nhà khoa học giáo dục đã nhìn thấy và đang

15


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

có hướng khắc phục thông qua Chương trình tiểu học 2000, cụ thể những hạn
chế đó là :
- Việc phân chia chủ điểm quá rộng và có sự trùng lắp quá nhiều ở các
lớp. Cách đặt tên chủ điểm lại khô khan tẻ nhạt. Vì vậy tên gọi của các chủ
điểm chỉ ràng buộc các tác giả lựa chọn bài tập đọc mà không đònh hướng được
nhiều cho giáo viên và học sinh khai thác, tìm hiểu nội dung bài. Trong thực tế,
hầu hết giáo viên và học sinh không quan tâm đến việc bài tập đọc nằm trong
chủ điểm nào. Có những bài lại được chọn không phù hợp với chủ điểm. Có
những bài tập đọc lại quá khó đối với học sinh, ví dụ bài “Bà cụ bán hàng nước
chè”, bài văn giới thiệu một phong tục rất đáng yêu của người dân làng quê

Bắc Bộ, nhưng học sinh lớp 5 hiện nay, nhất là học sinh vùng nông thôn Nam
bộ khó lòng cảm nhận được.
- Nội dung giáo dục đưa vào một số bài còn mang tính gượng ép, thiếu tự
nhiên, ví như lấy một đoạn trích của bài “Nhà mẹ Lê” (Cảnh đông con - TV5
trang 27) để giáo dục dân số là không thích hợp.
- Hầu hết các bài tập đọc được chọn đưa vào chương trình đều là các
đoạn trích hoặc tác phẩm văn học trọn vẹn thuộc thể loại thơ trữ tình, thơ tự sự,
đoạn miêu tả, truyện ngắn, truyện danh nhân… mà không có các kiểu văn bản
phổ biến thường gặp trong đời thường (văn bản hành chính, khoa học…)
- Nhiều bài tập đọc chưa được lựa chọn xây dựng theo những yêu cầu
chặt chẽ của một văn bản về sự liên kết bề mặt cũng như liên kết nội dung, ví
như bài “Núi rừng Trường Sơn sau cơn mưa TV5 trang 46” không chia thành
đoạn nhỏ, học sinh khó tìm ý chung của bài. Vì vậy, có nhiều bài tập đọc chỉ có
thể dạy “đọc nhớ”, khó dạy “đọc hiểu”Cũng vì vậy, các bài tập đọc trong sách
giáo khoa chưa cung cấp cho học sinh những tri thức phong phú về khoa học,
những thông tin về các vấn đề bức xúc của thời đại để học sinh làm giàu vốn
hiểu biết, vốn sống của mình qua việc học đọc.
- Về kênh hình, rất hạn chế, nếu có thì sách in chưa đep, chỉ có hai màu,
có lúc lại minh họa chưa chính xác. Các Bà tập đọc lớp 5 như : “Hoa học trò”
vẽ những mặt người xấu xí, bài “Tiếng hát mùa gặt” vẽ những người cầm liềm
hái gặt lúa nhưng lời bài thơ lại là “Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời”.
Vẽ như vậy góp phần tạo ra cái sai trong việc giải nghóa từ của một số giáo
viên thiếu kiến thức thực tế “Hái là tên gọi khác của cái liềm”
- Phần “Hướng dẫn tìm hiểu bài” chủ yếu thông qua hệ thống câu hỏi và
bài tập, mức độ chỉ yêu cầu học sinh một phương thức hành động duy nhất :
dùng lời. Điều này có những hạn chế : số lượng học sinh được làm việc trên lớp
ít, bởi vì người nói phải có người nghe, tại một thời điểm chỉ có một em có thể
trả lời, tất cả học sinh trong lớp không thể nói cùng một lúc. Khi một em trả lời,
những học sinh khác làm gì, giáo viên hầu như không kiểm soát được và chính
vì thế giờ tập đọc không tích cực hóa được hoạt động của học sinh, không gây

16


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

cho các em hứng thú làm việc. Hệ thống câu hỏi còn mang tính áp đặt của bài
đọc, chưa tạo tình huống cho học sinh tư duy, sáng tạo trong việc tìm hiểu bài.
3) Về phương pháp dạy học phân môn Tập đọc :
Hiện nay cách dạy tập đọc theo chương trình CCGD còn đơn điệu. Nhiều
kiến thức giáo viên còn áp đặt, nặng về truyền đạt, ít gợi ý để học hiểu và
khám phá. Học sinh còn đóng vai trò thụ động trong giờ học. Điều này dẫn đến
chất lượng dạy - học chưa cao.

3.1. Về quy trình giảng dạy :
Một vấn đề có thể dễ thấy nhất là phần hướng dẫn luyện đọc : sau khi
giáo viên đọc mẫu xong, chỉ cho 1 - 2 học sinh khá giỏi của lớp đọc lại và tiến
hành hướng dẫn cho các em tìm hiểu bài (đọc hiểu) trong khi học sinh của lớp
có em chưa đọc đúng từ, đúng đoạn thì làm sao dễ hiểu bài được.
+ Việc dạy và học của giáo viên, học sinh trong các giờ tập đọc diễn ra
thường là một chiều : thầy - trò chính vì vậy hạn chế rất nhiều việc phát huy
năng lực của từng học sinh.
Những vấn đề trên, có thể nói nếu người giáo viên không quan tâm thì
trong giảng dạy sẽ khó lòng đổi mới được phương pháp dạy học nhất là những
giáo viên còn hạn chế về tuổi nghề, hạn chế về năng lực chuyên môn… Còn 2
năm học nữa mới thực hiện được chương trình thay sách lớp 5, các trường tiểu
học vẫn phải thực hiện chương trình CCGD này, chính vì vậy, mỗi giáo viên
chúng ta hãy tập trung tìm hiểu chương trình tiểu học mới hiện nay (từ lớp 1
đến lớp 3) đặc biệt chú ý đến phân môn Tập đọc để học hỏi đổi mới dạy và học
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
II. NHỮNG ĐIỂM CẦN CHÚ Ý KHI THỰC HIỆN VIỆC ĐỔI MỚI

CÁCH DẠY VÀ HỌC MÔN TIẾNG VIỆT NÓI CHUNG Ở TIỂU HỌC :
1 .Tổ chức để học sinh hoạt động độc lập hoặc hoạt động theo nhóm
khi học các bài học khác nhau của môn Tiếng Việt.
Nếu có phiếu bài tập Tiếng Việt, giáo viên có thể giao cho từng học sinh
thực hiện các hoạt động học tập khác nhau. Cùng một lúc, nhóm thứ nhất có thể
đọc thầm bài tập đọc và làm các bài tập có liên quan, nhóm thứ hai tìm hiểu
các từ ngữ và làm các bài tập từ ngữ. Việc làm này nhằm cá thể hóa việc dạy
học, thúc đẩy học sinh hoạt động trí tuệ thực sự. Như vậy, phiểu bài tập không
chỉ đóng vai trò của một phương tiện giúp học sinh chuẩn bò bài trước ở nhà mà
17


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

nó trở thành một phương tiện dạy học theo hướng thực hành giao tiếp ngôn
ngữ .
Sử dụng các từ ngữ liên quan đến bài tập đọc, giáo viên cần nhận rõ trình
độ đọc của học sinh được rèn luyện qua hai hình thức đọc: đọc thầm và đọc
thành tiếng. Đọc thành tiếng (trơn tru, lưu loát) chỉ là một giai đoạn cần phải
trải qua tiến tới đọc thầm. Đọc thầm càng nhanh, càng thạo càng chính xác,
người đọc càng có điều kiện hiểu nội dung bài đọc. Đọc diễn cảm và mức độ
am hiểu nội dung bài học là những chỉ số nêu rõ trình độ học của học sinh.
Song giữa hai chỉ số này, chỉ số thứ hai cần được giáo viên chú ý nhiều hơn
nữa. Đa số bài tập đọc đều hướng tới rèn luyện cho học sinh ngày càng hiểu
đúng, hiểu rõ, hiểu sâu nội dung bài học.

2. Kết hợp sử dụng các hình thức trò chơi về tiếng làm phương tiện hỗ
trợ cho việc phát triển Tiếng Việt của học sinh.
Đối với học sinh tiểu học nói chung, việc sử dụng các trò chơi khá thích
hợp với đặc điểm sinh lý, tâm lý của các em, đồng thời giúp các em bộc lộ và

rèn luyện một cách tự nhiên các kó năng. Một số bài tập trong vở BTTV, người
biên soạn đã chú ý kết hợp với một vài hình thức trò chơi. Vì vậy, giáo viên cần
tìm cách phát huy trong tiết dạy của mình, tạo cho học sinh sự hấp dẫn và thoải
mái.
3. Cải tiến cách đánh giá và cho điểm .
Dựa trên các kiểu bài tập, giáo viên ra các đề kiểm tra tương tự để việc
đánh giá bài làm của học sinh bảo đảm tính khách quan, chính xác. Như vậy,
kiểm tra bài tập đọc không phải chỉ có hình thức đọc thành tiếng hoặc đọc diễn
cảm. Bài tập đọc có thể được kiểm tra qua các bài tập nhằm đo mức độ thông
hiểu nội dung của bài, trình độ đọc thầm..
Các loại bài tập theo hình thức trắc nghiệm cho ta cách đánh giá chính
xác hơn kết quả bài làm của học sinh. Nhờ vậy, điểm số mang tính khách quan,
đảm bảo sự công bằng và cổ vũ học sinh ham học hơn.
III. CÁC CÔNG VIỆC CẦN LÀM ĐỂ TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH ĐỌC
HIỂU CHO HỌC SINH TIỂU HỌC:
1) Tìm hiểu đề tài của văn bản:
Đề tài là phạm vi hiện thực được đề cập tới trong văn bản. Học sinh nhận
ra được đề tài văn bản khi các em trả lời được các câu hỏi: Văn bản nói về cái
gì, về việc gì, về ai ?
18


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

Để xác đònh đề tài của văn bản, có thể dựa vào chủ điểm của bài tập đọc,
dựa vào tranh minh họa để đoán, thường đề tài được thể hiện ở tên bài, tên
người, tên vật, tên việc nêu trong văn bản.
1.1) Tìm hiểu tên bài :
Bài tập đọc bao giờ cũng có một cái tên. Tên bài không phải không phải
là một cái gì được gắn vào văn bản một cách ngẫu nhiên mà có lý do. Vì vậy,

tên bài thường ngắn nhưng nói với chúng ta được nhiều điều. Nó giúp chúng ta
xác đònh được đề tài văn bản và phần nào đoán đònh được nội dung của văn
bản. Vì vậy, khi tìm hiểu văn bản, học sinh cần chú ý khai thác tên bài.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý bám vào câu chữ của tên
gọi để hiểu được điều về nội dung bài một cách nhanh chóng hơn. Chẳng hạn
Tình quê hương (TV5) khác với Quê hương hay Cảnh quê hương; Gửi các vì sao
(TV5) khác với Các vì sao…
Tên bài thường gắn với chủ đề, nội dung bài nên việc khai thác tên bài
sẽ giúp ta xây dựng bài tập cho học sinh xác đònh đề tài, nội dung chính của
bài. Với những bài có tên gọi không gợi ra chủ đề, ta có thể yêu cầu HS đặt lại
tên khác. Với những bài có tên gọi phù hợp với chủ đề, tên bài hay, có nhiều ý
nghóa thì chúng ta yêu cầu HS chỉ ra những ý nghóa này bằng cách đặt tên bài
đã có trong thế đối lập với những tên bài khác. Việc làm này sẽ giúp HS nhận
ra cái hay, điều thú vò trong những cái tên.Ví dụ: HS lớp 5 sẽ tranh luận sôi nổi
khi giải bài tập: Lựa chọn 1 giữa 3 cái tên Quê hương, Cảnh đẹp quê hương và
Tình quê hương Bài Tình quê hương) để đặt tên cho bài.
1.2) Tìm hiểu từ ngữ trong bài :
1.2.1. Phát hiện ra từ mới và từ ngữ quan trọng của bài:
+ Từ mới : là những yếu tố của thông tin mới trong văn bản. Nhận ra được
từ mới tức là người đọc đã chú ý đến những thông tin mới trong văn bản.
Để tìm từ mới, trong giờ học, GV thường đặt vấn đề “Hãy chỉ ra những
từ em chưa hiểu nghóa trong bài”. Câu trả lời - cũng chính là việc chọn từ nào
để giải thích - phụ thuộc vào đối tượng HS( ở đòa phương nào, thuộc dân tộc
nào, có vốn từ cá nhân như thế nào…). Điều quan trọng là GV phải có hiểu biết
về từ đòa phương cũng như có vốn từ của tiếng mẹ đẻ vùng dân tộc mình dạy
học để chọn từ thích hợp. Đồng thời GV phải chuẩn bò để sẵn sàng giải đáp cho
HS về bất cứ từ nào trong bài mà các em cần hiểu.Tuy nhiên không phải từ mới
nào cũng đều có vai trò quan trọng như nhau, GV cần phải biết sàng lọc cac từ
mới theo vùng phương ngữ đẻ giúp HS hiểu nghóa nhằm đảm bảo lượng thời
gian trong tiết học.

+ Từ quan trọng (từ chìa khóa) là những từ có quan hệ trực tiếp với đề tài,
chủ đề, đích của văn bản. Nhờ những từ này ta có thể đoán được đề tài và chủ
đề của văn bản.
1.2.2) Làm rõ nghóa của từ ngữ :
19


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

Xác đònh nghóa của từ là một việc làm quan trọng trong việc giúp HS
hiểu văn bản. Hiểu rõ nghóa từ, HS mới có cơ sở để nắm nghóa của câu trong
văn bản và từ đó nắm được nội dung chính của bài.
Các biện pháp giải nghóa từ được sử dụng ở tiểu học là : bằng phần chú
giải ở SGK, bằng trực quan, bằng ngữ cảnh, bằng từ đồng nghóa, trái nghóa,
bằng cách miêu tả sự vật … Điều mà mỗi GV cần chú ý là khi giúp HS giải
nghóa từ phải biết giới hạn trong nghóa cụ thể của bài, không nên mở rộng,
tránh dẫn đến tình trạng lan man, quá tải.
2) Tìm hiểu nội dung bài :
Căn cứ vào các câu hỏi, bài tập trong SGK, giáo viên tùy theo đối tượng
học sinh có thể nêu thêm câu hỏi phụ, điều cần chú ý là không nên tự đặt thêm
câu hỏi vượt quá yêu cầu, không phù hợp với đối tượng học sinh. Trước khi nêu
câu hỏi, cần có đònh hướng cho các em đọc thầm, trao đổi, thảo luận để trả lời.
Tùy theo từng câu hỏi, GV nên tổ chức bằng nhiều hình thức học tập (cá nhân,
nhóm, cả lớp), nhằm tạo điều kiện để mọi học sinh đều tham gia tìm hiểu nội
dung bài.
II. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC:
1) Cải tiến phương pháp hỏi - đáp :
Khi dùng phương pháp này, nếu trước kia chỉ duy nhất một hình thức
“Thầy hỏi-Trò đáp ” thì bây giờ nên trao quyền hỏi cho học sinh :
+ Học sinh đặt câu hỏi cho bạn mình trả lời (nêu nội dung).

+ Học sinh đặt câu hỏi cho thầy trả lời (nêu thắc mắc hoặc nhờ giải
thích).
+ Thầy hỏi, học sinh trả lời.
Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên có thể cho học sinh nêu câu hỏi,
tìm từ ngữ hay, hình ảnh nổi bật, đặt tên cho đoạn văn, bài văn… Việc nêu câu
hỏi và đặt tên cho đoạn văn, bài văn sẽ giúp cho học sinh động não, chòu khó
tìm tòi.
Tất nhiên sẽ có những câu hỏi chưa thật sự phù hợp, có thể còn lủng
củng, chưa hoàn chỉnh và chưa đạt yêu cầu, vì thế giáo viên nên cho nhiều em
hỏi. Trong số các câu hỏi đó, câu nào đạt yêu cầu thì giáo viên có thể hướng
dẫn dừng lại để các em tự trả lời. Nội dung câu trả lời, cũng không phải một lần
là hoàn chỉnh, có thể mỗi em chỉ đóng góp được một ý, thì nên cho nhiều em
hỏi để cuối cùng có ý hoàn chỉnh nhất. Như thế mới tạo được cơ hội cho các em
tham gia hoạt động tìm hiểu bài, là cơ sở giúp giáo viên đánh giá mức độ cảm
thụ của học sinh nhằm điều chỉnh tiến trình tiết dạy cho hợp lý.
Cũng cần lưu ý, bước đầu dùng phương pháp vấn đáp này, giáo viên chỉ
nên chọn một ý trong nội dung bài để các em tập làm quen với hoạt động hỏiđáp, không nên ý nào cũng sử dụng phương pháp này để đảm bảo tính sư phạm
20


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

(vừa sức), tính khoa học (trọng tâm kiến thức) và quy đònh về thời gian của tiết
học.
2. Tổ chức để học sinh hoạt động độc lập hoặc hoạt động theo nhóm khi
học các bài học khác nhau của môn Tiếng Việt thông qua việc sử dụng phiếu
bài tập:
Nếu có phiếu bài tập Tiếng Việt, giáo viên có thể giao cho từng học sinh
thực hiện các hoạt động học tập khác nhau. Cùng một lúc, nhóm thứ nhất có thể
đọc thầm bài tập đọc và làm các bài tập có liên quan, nhóm thứ hai tìm hiểu

các từ ngữ và làm các bài tập từ ngữ. Việc làm này nhằm cá thể hóa việc dạy
học, thúc đẩy học sinh hoạt động trí tuệ thực sự. Như vậy, phiếu bài tập không
chỉ đóng vai trò của một phương tiện giúp học sinh chuẩn bò bài trước ở nhà mà
nó trở thành một phương tiện dạy học theo hướng thực hành giao tiếp ngôn
ngữ .
Khi xây dựng bài tập dạy đọc hiểu, giáo viên phải xác đònh được mục
đích, cơ sở xây dựng bài tập, phải có lời giải mẫu, phải dự tính trước được khó
khăn và sai phạm của HS mắc phải khi giải bài tập và biết chuyển đổi hình
thức bài tập khi cần thiết. Điều quan trong khi xây dưng bài tập là phải căn cứ
vào đối tượng học sinh của lớp, có như vậy HS cả lớp mới cùng hứng thú và
cùng hoạt động.
3) Gắn liền nội dung giảng từ và ý.
Có ba công việc chính giáo viên chúng ta cần chuẩn bò tốt trong quá trình
giảng từ đó là :
3.1. Chọn từ : Chúng ta cần phân biệt hai loại từ cần giúp học sinh nắm
được trong giờ tập đọc đó là từ khó mà học sinh cần hiểu khi tiếp xúc với bài
tập đọc (thường được chú thích ở cuối bài), và từ giáo viên chọn để giảng về
nội dung và nghệ thuật ( GV có thể tự chọn hoặc dựa vào một số từ đã gợi ý ở
SGV)
Ngoài những từ được chú thích ở sách giáo khoa, một số bài tập đọc vẫn
còn những từ khó học sinh chưa nắm được. Vì vậy, giáo viên có thể cho học
sinh nêu thêm những từ khó, từ chưa hiểu để các em khác giải nghóa.
Ví dụ : Bài Mùa hoa bưởi (Tiếng Việt 5)
Sau khi học sinh hiểu được các từ chú thích ở SGK : sông Ngàn Phố, bưởi
đào, chiết, giáo viên có thể nêu câu hỏi :
Ngoài các từ khó đã được chú thích ở SGK, trong bài còn những những từ
nào các em chưa hiểu? (học sinh có thể nêu : giếng khơi, trắng phau…). Việc
nêu được các từ khó cần giải thích cũng giúp cho giáo viên có thể kiểm tra sự
chuẩn bò bài ở nhà của học sinh.
Đối với những từ được chọn để giảng về nội dung nghệ thuật (thông

thường mỗi bài tập đọc, giáo viên chọn từ 3 đến 4 từ), cần chọn từ ngữ có nhiều
21


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

nét nghóa, từ gợi tả, gợi cảm, từ thể hiện nội dung, chủ đề đang học… Từ được
chọn để giảng thường được rút ra từ câu trả lời của học sinh theo sự gợi ý của
giáo viên và được ghi lên bảng.
3.2. Nắm nghóa của từ : Giáo viên cần nắm nghóa của từ một cách khái
quát và nghóa trong văn cảnh trên cơ sở hướng vào nội dung chính của bài tập
đọc.
3.3. Chọn phương pháp giảng:
Đối với từ khó: từ khó đã được chú thích ở SGK, Gv nên cho HS tự giải
thích, các em khác bổ sung, tạo cho các em thói quen phải có sự chuẩn bò bài ở
nhà, không nhất thiết GV phải cung cấp.
Đối với những từ giáo viên chọn để giảng về nội dung, nghệ thuật: nên
kết hợp nhiều phương pháp như trực quan, miêu tả, vấn đáp, so sánh, biến đổi
đồng nghóa, tìm từ trái nghóa, đặt câu… Tuy nhiên, dù chọn phương pháp nào,
GV cũng cần chú ý giảng từ gắn với văn cảnh cụ thể và giảng từ kết hợp với
giảng ý, tránh giảng từ theo lối đònh nghóa, áp đặt cho học sinh.
4) Tổ chức cho HS luyện đọc câu, đoạn, cả bài thật tốt trước khi đi vào
nội dung tìm hiểu bài, bởi nếu có đọc tốt, HS mới dễ dàng tiếp thu nội dung bài
đọc được.
5) Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong quá trình dạy đọc hiểu bằng
các cách sau đây :
5.1. Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học .
5.2. Tổ chức giờ học vui thông qua các trò chơi học tập.
6) Khi giao lưu với học sinh, giáo viên chỉ nên nói từ 30 - 35 % thời
lượng của cả tiết dạy.

Nội dung nói là :
+ Gợi mở, dẫn dắt tư duy của HS theo logic của bài giảng, bằng những
câu hỏi vừa sức HS.
+ Nói khi cần kết luận, nhấn mạnh, điều chỉnh, giao việc.
+ Lời nói cần nhẹ nhàng, rõ ràng ,thu hút HS.
7) Cải tiến cách đánh giá và cho điểm
Dựa trên các kiểu bài tập, giáo viên ra các đề kiểm tra tương tự để việc
đánh giá bài làm của học sinh bảo đảm tính khách quan, chính xác. Như vậy,
kiểm tra bài tập đọc không phải chỉ có hình thức đọc thành tiếng hoặc đọc diễn
cảm. Bài tập đọc có thể được kiểm tra qua các bài tập nhằm đo mức độ thông
hiểu nội dung của bài, trình độ đọc thầm..
Các loại bài tập theo hình thức trắc nghiệm cho ta cách đánh giá chính
xác hơn kết quả bài làm của học sinh. Nhờ vậy, điểm số mang tính khách quan,
đảm bảo sự công bằng và cổ vũ học sinh ham học hơn.
Tóm lại, việc tổ chức các biện pháp trên trong tiết học không hết quá
nhiều thời gian. Tuy nhiên, mỗi bài học có nội dung khác nhau nên GV cần
22


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

nghiên cứu và linh hoạt chọn biện pháp tổ chức nào là tối ưu và phù hợp nhất
thì hiệu quả sẽ cao hơn.

CHƯƠNG III : THỰC NGHIỆM VẤN ĐỀ
1) Mục đích thực nghiệm :
Thực nghiệm tiến hành nhằm mục đích nâng cao chất lượng đọc hiểu cho
học sinh trong giờ tập đọc lớp 5 theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập.
2) Đối tượng, đòa bàn thực hiện:
- Giáo viên : Tất cả các thầy cô dạy lớp 5 và Ban giám hiệu của trường .

- Học sinh : Hai lớp 5A2 và 5A5 ( Lấy từ kết quả phần đọc hiểu ở bài thi
kiểm tra đònh kì cuối năm học lớp 4)
3) Nội dung :
- Xây dựng hệ thống câu hỏi đáp kết hợp sử dụng phiếu bài tập qua bài “
Bài học quý ” - TV5 - SGK trang 13
- p dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học nhằm phát
huy tính chủ động, hứng thú học tập của học sinh.
4) Cách tiến hành :
- Soạn giáo án, xây dựng phiếu bài tập cho bài “Bài học quý” trên cơ sở
vận dụng hợp lý các phương pháp dạy học theo đặc trưng phân môn để dạy lớp
5A2 .
- Soạn giáo án, vận dụng các phương pháp truyền thống để dạy lớp 5A5.
- Tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm 2 tiết dạy trong khối .
- Thông kê kết quả đạt được ở từng tiết dạy để đối chiếu.
23


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

GIÁO ÁN DẠY THỰC NGHIỆM DẠY LỚP 5A2
Môn :
Tiếng Việt
(phân môn Tập đọc)
Bài dạy :
Bài học quý
Ngày soạn :……………………………………………………………………………………………………..
Ngày dạy :……………………………………………………………………………………………………….
I. Mục đích - Yêu cầu :
1) Luyện đọc :
- Đọc đúng các từ : quẳng hộp đi, Sẻ rất xấu hổ, ngượng nghòu.

- Biết đọc phân biệt giọng của Sẻ và của Chích, cụ thể :
+ Đoạn 1 : nhấn mạnh các từ ngữ chơi với nhau rất thân, không hề nói với
bạn một lời nào, ăn hạt kê một mình.
+ Đoạn 2 :
- Chú ý đọc giọng vui, câu : “ Vừa gặp Sẻ, Chích đã reo lên…”
- Đọc giọng băn khoăn (tỏ ý không bằng lòng) câu trả lời của Sẻ : “Chia
làm gì …”
- Câu cuối cần ngắt giọng :
“ Mình rất cảm ơn cậu / cậu đã cho mình những hạt kê ngon lành này /
còn cho mình một bài học quý về tình bạn.”
2) Hiểu và cảm thụ :
24


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 5

- Hiểu các từ ngữ : ngượng nghòu, bài học quý
- Nhắc lại được nội dung bài. Thấy rõ tính ích kỷ của Sẻ, tình bạn chân
thành của Chích. Qua đó giáo dục học sinh biết thân ái giúp đỡ nhau để tình
bạn được sâu sắc, bền chặt.
- Biết hỏi đáp lẫn nhau, liên hệ thực tế, kể hoặc đọc một vài mẫu chuyện
ngắn, câu thơ nói vềà tình bạn.
II. Đồ dùng dạy học:
+ Giáo viên: Tranh vẽ có nội dung câu chuyện phóng to, Phiếu bài tập,
bảng phụ giúp HS luyện đọc một số từ khó, câu khó.
+ Học sinh : SGK, bút chì, bảng con, phấn.
III. Các hoạt động trên lớp:
Hoạt động của Thầy
Hoạt động của trò
1) Khởi động lớp học (1 phút)

- Tổ chức cho HS hát vui bài : Lớp - Cả lớp cùng tham gia hát vui
chúng mình đoàn kết
2) Kiểm tra bài cũ:( 2 - 3 phút)
- Tổ chức cho học sinh tham gia trò
chơi “ Đọc tiếp sức” bài HTL “Sắc
màu em yêu”(có nêu yêu cầu cuộc
chơi cụ thể)
- GV kết luận, biểu dương, khen
thưởng.
3) Dạy bài mới: ( 32 phút)
Hoạt động 1: Giới thiệu bài
- GV treo tranh kết hợp giới thiệu :
Tranh vẽ Sẻ và Chích là đôi bạn
cùng sống chung với nhau trong một
khu rừng, tình bạn của chúng khắn
khít ra sao, bài tập đọc “Bài học quý”
trong tiết tập đọc hôm nay sẽ giúp các
em biết được điều này .
- Ghi bảng : Bài học quý - S.13
Hoạt động 2 : Hướng dẫn HS luyện
đọc
- GV đọc diễn cảm toàn bài.
- YC 2 học sinh khá, giỏi đọc - cả lớp
đọc thầm.

25

- 2 dãy bàn bốc thăm ngẫu nhiên tham
gia cuộc chơi. (mỗi HS đọc … câu)
- Cả lớp theo dõi, nhận xét


- HS quan sát tranh

- Vài em lặp lại tựa bài - Mở SGK
- HS chú ý lắng nghe
- HS 1 : đọc từ đầu … gốc cây xa lạ
HS 2 : đọc phần còn lại
Cả lớp đọc thầm theo


×