"Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3"
Kiến thức lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân
môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so sánh gồm 8 bài
với các mô hình sau:
a) Mô hình 1:
So sánh: Sự vật - Sự vật.
b) Mô hình 2:
So sánh: Sự vật - Con người.
c) Mô hình 3:
So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
d) Mô hình 4:
So sánh: Âm thanh - Âm thanh.
Tác giả SGK đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng
bài tập.
II. Những giảI pháp chủ yếu
Vì trong SGK có ít bài tập sáng tạo và còn đơn điệu, kiến thức còn mang tính trừu tượng nên
giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể nói theo tình huống. Vì
khi giáo viên đưa, cần đưa lệnh bài tập rõ ràng để học sinh hiểu được mục đích yêu cầu của bài
tập.
* Ví dụ 1: Bài tập 1 (Trang 6): Tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong khổ thơ sau:
"Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai"
Ta có thể đặt lệnh bài như sau:
a) Tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong các khổ thơ sau:
b) Tím các từ ngữ chỉ vật mà con thường gặp hàng ngày (đồ dùng học sinh). Để học sinh sáng
tạo kể tên các sự vật thường gặp.
* Ví dụ 2: Bài tập 2: (Trang 117).
Lệnh của bài: Tìm các từ chỉ đặc điểm trong những câu thơ sau:
Ta có thể thay lệnh: Tìm các từ chỉ đặc điểm của sự vật trong những câu thơ sau.
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt người giáo viên cần lồng ghép giữa các phân
môn trong môn Tiếng Việt với nhau. Như khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt
3 tập I (Trang 7). Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để
gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn: "Luyện từ và câu".
Để học sinh học tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn: "Luyện từ và câu" dạng bài tu từ so
sánh học sinh cần nắm và làm theo các yêu cầu sau: Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài
sau đó mới làm bài.
Muốn học sinh của mình có một kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh vững vàng đòi hỏi
người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới như:
a) Mô hình 1:
- So sánh: Sự vật - Sự vật.
Mô hình này có các dạng sau:
A như B.
A là B.
A chẳng bằng B.
A x B; x triệt tiêu (Từ chỉ quan hệ so sánh triệt tiêu).
* Ví dụ: Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
"Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành"
(Huy Cận)
"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
"Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Lương Vĩnh Phúc)
"Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe"
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật, từ đó học sinh sẽ tìm được sự
vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là:
+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ".
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì
sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các
sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
(Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á")
+ Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có
thể cho học sinh nhìn vào vành tai bạn).
b) Mô hình 2:
- So sánh: Sự vật - Con người.
Dạng cuả mô hình so sánh này là:
A như B: + A có thể là con người.
+ B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
* Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan"
(Hồ Chí Minh)
"Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng".
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa
giải thích được "Vì sao?". Chính vì thế điều đó giáo viên giúp học sinh tìm được đặc điểm chung
của sự vật và con người, chẳng hạn:
"Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy
sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng.
"Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ già giặn có giá
trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
c) Mô hình 3:
- So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
Mô hình này có dạng như sau:
+ A x B.
+ A như B.
* Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau:
+ "Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đạp đất"
(Trần Đăng Khoa)
+ "Cau cao, cao mãi
Tàu vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi"
(Ngô Viết Dinh)
Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm
được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như".
d) Mô hình 4:
- So sánh: Âm thanh - Âm thanh:
Mô hình này có dạng sau:
A như B: + A là âm thanh thứ 1.
+ B là âm thanh thứ 2.
* Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ văn dưới đây:
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ
hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn:
+ "Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"
(Nguyễn Trãi)
"Tiếng suối" được so sánh với "Tiếng đàn cầm" qua từ "như".
Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và
hơn kém. Chẳng hạn:
+ Trong câu: "Cháu khỏe hơn ông nhiều!"
(Phạm Cúc)
Kiểu so sánh hơn kém:
+ Trong câu: "Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng"
(Phạm Cúc)
Kiểu so sánh ngang bằng:
+ Trong câu: "Trăng khuya trăng sáng hơn đèn"
(Trần Đăng Khoa)
Kiểu so sánh hơn kém:
+ Trong câu: "Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con"
(Trần Quốc Minh)