Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

skkn Tìm hiểu một số phương pháp dạy học tôt môn tập đọc ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.51 KB, 31 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp GD nói chung, GD tiểu học nói riêng ,đây là một bậc học
vô cùng quan trọng . Nó là một hệ thống hoạt động phân công lao động xã hội
mà nhiệm vụ cơ bản của nó là truyền thụ kiến thức và kinh nghiệm thực tế có
liên quan đến kiến thức ấy là xã hôi hóa, là chuẩn bị cho các thành viên của xã
hội đi vào lao động nghề nghiệp. Song trước hết là việc truyền thụ có hệ thống
những kiến thức cơ bản khoa học mà việc nắm được những kiến thức ấychủ yếu
là dựa trên trình độ nhận thức bằng trừu tượng và lô gích những kiến thức và kĩ
năng đó được quy định mà học sinh có thể đạt được.Ta biết rằng khả năng trí tuệ
của mỗi con người phụ thuộc vào sự nghiệp tinh thần trong thời kì thơ ấu được
kích thích có hiệu quả đến mức độ nào .Vì rằng mọi sự thiếu sót đó do sự chăm
lo phát triển trong thời kì thơ ấu không đầy đủ, đúng mức, sau này sẽ phải bù lại
một cách rất khó khăn thậm trí không thể bù lại được những năm đó. Trong giai
đoạn từ 6 tuổi đến trường, nếu các em không được khen không được động viên
kịp thời về những năng lực đã đạt được thì các em sẽ có cảm giác về sự kém cỏi
và tự ti. Do vậy người giáo viên trong quá trình dạy học, nếu không nắm được
tâm sinh lí của các em thì mắc phải một khiếm khuyết lớn trong công tác giáo
dục. Để phù hợp với những biến đổi về cơ cấu trong giáo dục đã điều chỉnh và
bổ xung chương trình và nội dung các môn học đảm bảo 9 môn học bắt buộc .
Vì rằng học sinh tiểu học đã học đầy đủ các môn có ý nghĩa quan trọng, điếu đó
góp phần giáo dục toàn diện sự hình thành và phát triển những nền tảng cơ bản
của nhân cách con người. Chắc trong mỗi chúng ta ai cũng rõ trong 9 môn học,
chỉ có hai môn học nhiều tiết là Toán và Tiếng việt.
Từ đặc tâm lý của các em (lớp 1, lớp 2) dễ nhớ và cũng hay chóng quên đi
phần nào. Từ đó môn tập đọc góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào
tạo thế hệ trẻ ở bậc tiểu học theo đặc trưng bộ môn của mình. Việc giảng dạy bộ

3



môn tập đọc trong nhả trường nhằm tạo cho các em năng lực sử dụng Tiếng
Việt, văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập phát triển các kỹ năng đọc và
nghe cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn học để phát triển tư duy, mở
rộng sự hiểu biết của học học sinh về cuộc sống cụ thể. Làm giàu và tích cực hóa
vốn từ, vốn diễn đạt. Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc
sống cung cấp mẫu để hình thành một số kĩ năng để phục vụ cho đời sống và
việc học tập của bản thân như điền vào các tờ khai ( đơn giản), làm đơn, viết
thư, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của lớp.
- Phát triển một số tư duy cơ bản như: phân tích, tổng hợp, phán đoán…
- Bồi dưỡng tư duy, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu
cái đẹp, cái thiện thái độ ứng xử đúng mức trong cuộc sống, hứng thú đọc sách
và yêu thích Tiếng việt, cụ thể:
+ Bồi dưỡng trẻ yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông
bà cha mẹ, thầy cô, yêu trường yêu lớp, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè ,vị tha nhân
hậu.
+ Xây dựng và năng lực thể hiện những phép xã giao tối thiểu.
+ Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa,
hình thành phát triển ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học,
cảm thụ vể đẹp của Tiếng việt.
Tất cả những lý do trên theo tôi nghĩ không phải là một vấn đề hoàn toàn
đơn giản của môn tập đọc nói riêng và môn tiếng việt nói chung, mà nó là cả
một qúa trình tích hợp theo chiều ngang giữa kiến thức tiếng việt, với các mảng
kiến thức về văn học, về thiên nhiên, con người và xã hội. Xây dựng các đơn vị
kiến thức kỹ năng theo nguyên tắc đồng tâm. Kiến thức và kỹ năng của bài học
sau ở lớp trên bao hàm kiền thức, kỹ năng của bài học trước của lớp dưới, nhưng
được phát triển sâu rộng hơn. Xét về đặc điểm tâm lý, mỗi học sinh tiểu học là

4



một chỉnh thể nhận thức của các em mang tính tổng hợp và thiên về cảm tính.
Khả năng phân tích và nhận thức lý tính chưa cao, việc tiếp thu kiến thức, hình
thành kỹ năng, thái độ đối với lứa tuối các em cần được diễn ra trong một mối
liên hệ tương tác, trọn vẹn và liên tục bằng những hành động cụ thể và sống
động.
Do vậy môn Tiếng việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn
ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng
hoạt động tương ứng. Tương ứng với chúng là bốn kỹ năng “nghe, nói, đọc,
viết” là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng từ hình thức chữ
viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc thành
tiếng). Là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa
không có âm thanh ( ứng với đọc thầm ).
Trong đó đọc không phải là công việc giải bộ mã gồm hai phần chữ viết
và phát âm. Nghĩa là nó không chỉ là sự đánh vần lên tiếng theo những ký hiệu
đúng chữ viết và còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu khái
niệm “ đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử
dụng bộ mã chữ - âm, còn việc từ sang nghĩa đã không được chú ý đến.
Vì vậy phương pháp dạy tập đọc ở tiểu học nói chung và phương pháp dạy
tập đọc ở lớp 3 nói riêng đều mang tính tổng hợp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
nó là người giáo viên phải hình thành được kỹ năng đọc cho học sinh, đó là một
trong những kỹ năng cơ bản nhất. Yêu cầu một học sinh đọc có chất lượng tốt là
phải đọc đúng, ngắt nghỉ đúng, đọc nhẩm, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Hiện nay ở trường tiểu học cho ta thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa
đồng đều, một số đọc còn yếu, một số giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy cho
học sinh tiểu học, chưa tìm ra biện pháp dạy môn tập đọc để nâng cao hiệu quả
giờ dạy. Nguyên nhân của đọc yếu và đọc chưa tốt của học sinh là do nhiều tác
động như: phương pháp giảng dạy của giao viên, ngôn ngữ địa phương, do tài

5



liệu, sách giáo khoa, câu hỏi còn chung chung, chưa đi sâu vào nội dung bài,
cách kết hợp các phương pháp dạy còn hạn chế. Do vậy giờ dạy chưa đạy kết
quả cao, dẫn đến học tốt môn tập đọc còn hạn chế.
Là một giáo viên tiểu học, tôi thấy mình phải tự tìm tòi, nghiên cứu để tìm
ra những phương pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các em học tốt
môn học này, đồng thời từ đó các em học tốt các môn học khác. Để có phương
pháp dạy tốt môn tập đọc ở lớp ba với địa bàn miền núi, vùng cao khi học sinh
còn chậm hiểu cả tiếng phổ thông này, đòi hỏi giáo viên phải làm thế nào giúp
học sinh hiểu, yêu thích và hứng thú trong giờ học tập đọc. Chính vì những lý do
trên, tôi nghiên cứu viết đề tài này mong muốn đem lại những kinh nghiệm, tôi
đã thực hiện trong những năm dạy học, đặc biệt là trong phương pháp dạy phân
môn tập đọc ở lớp ba để góp phần nâng cao chất lượng dạy phân môn này nói
riêng và môn Tiếng việt nói chung. Đến với hội thi Giáo viên dạy giỏi cấp
trường đợt này tôi mạnh dạn báo cáo kết quả nghiên cứu sáng kiến kinh nghiêm:
“Tìm hiểu một số phương pháp dạy học tôt môn tập đọc ở lớp 3”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nhắc lại các phương pháp dạy học môn tiếng việt ở lớp 3 nói chung và
phương pháp dạy phân môn tập đọc lớp 3 nói riêng, đồng thời đề xuất những
biện pháp cụ thể ở một số bài học cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập đọc
học sinh lớp 3B trường Tiểu học Kiên Thành.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu phương pháp dạy học tốt ở môn tập đọc lớp 3 thuộc phân môn
tập đọc lớp 3 của tiểu học.
Tôi chọn học sinh lớp 3 trường tiểu học Kiên Thành là lớp tôi chủ nhiệm
và trực tiếp giảng dạy năm học 2013 - 2014 với:

6



Tổng số học sinh: 15 em.
* Kết quả khảo sát môn Tiếng việt đầu năm như sau:

Giỏi

Tổng số HS

Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

1


6,6

2

13,2

7

47,2

5

33

15

4. Thời gian thực hiện và triển khai sáng kiến
Từ tháng 8/2013 đến 3/2014
Để đạt được mục được mục đích nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số
phương pháp sau:
- Thu thập các tài liệu như: sách tham khảo, các tập san báo giáo dục thời
đại, giờ dạy mẫu trên Ti vi, sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng dạy tiếng việt
lớp 3.
- Phân tích tài liệu dạy học sách giáo khoa lớp 3 mới và sách hướng dẫn
về nội dung và cấu trúc.
- Phương pháp trao đổi với giáo viên và gia đình học sinh.
- Phương pháp dạy thực nghiệm, tổ chức giờ học sôi nổi và phương pháp
kiểm tra đánh giá.


7


PHẦN 2: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Môn tiếng việt ở tiểu học chia làm nhiều phân môn, trong đó tập đọc là
phân môn thực hành bằng lời nói, nếu dạy tốt môn tập đọc sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho các môn học khác.
Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần đạt được, nâng cao lên ở
mức đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc
đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lòng ham đọc sách, hình thành
cho trẻ thói quen làm việc với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo
khoa. Qua đó nhà trường là thực sự là trung tâm văn hóa cho các em. Thông qua
đọc giúp các em thích đọc và xác định đọc nhiều văn bản là có ích cho cuộc
sống và phát triển trí tuệ văn minh. Qua đó giáo dục cho các em tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ của các em.
Quan điểm biên soạn sách giáo khoa mới:
Dựa theo quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm phân tích và quan điểm
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
* Quan điểm giao tiếp.
Để thực hiện mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng
sử dụng tiếng việt: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi”. Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3 lấy nguyên tắc
dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản.
Có thể hiểu giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc

8



nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết và sự cộng tác giữa các thành viên trong xã
hội. Người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện
thông thường và quan trọng nhất là ngôn ngữ. Vì hành động giao tiếp bao gồm
các hành vi giải mã nhận thông tin và ký mã phát thông tin, trong ngôn ngữ mỗi
hành vi đều có thể thực hiện bằng hai hình thức là khẩu ngữ nghe, nói và bút
ngữ đọc viết.
Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện, nội dung
và phương pháp dạy học. Về nội dung thông qua phân môn tập đọc, kể chuyện,
chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn. Tiếng việt lớp 3 tạo ra những
môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng,
trang bị những kiến thức nền tảng và phát triển các kỹ năng tiếng việt trong giao
tiếp. Về phương pháp dạy học, các kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều
bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những giao tiếp tự nhiên.
* Quan điểm tích hợp.
Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm trí một tiíet học hay
một bài tập nhiều mảng kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm tăng
cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. có thể
thực hiện tích hợp theo chiều ngang và chiều dọc. Tích hợp theo chiều ngang là
tích hợp tiếng việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và
xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Hướng tích hợp này được sách giáo khoa tiếng
việt lớp 3 thực hiện thông qua các chủ điểm học tập. Theo quan điểm tích hợp,
các phân môn tập đọc, kể chuyện, chính tả, tập viết, luyện từ và câu, tập làm văn
trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp lại xoay quanh trục chủ điểm và
các bài đọc, các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng gắn bó
chặt chẽ với nhau hơn trước.
Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ năng đã
học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm đồng trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc, cụ

9



thể là kiến thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kỹ
năng của lớp dưới, bậc học dưới nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kỹ năng ở
lớp dưới.
Dĩ nhiên trong tích hợp vẫn có điểm nhấn, không nắm được điểm nhấn
này giáo viên hiểu lệch yêu cầu tích hợp, dẫn tới sa đà. Ví dụ: bây giờ tập đọc
thành giờ dạy đạo đức hay luyện từ và câu…Để nắm vững trọng tâm của mỗi
tiết học, bài học, giáo viên cần đọc kỹ phần mục đích, yêu cầu của mỗi tiết học,
mỗi bài học nêu trong sách giáo viên.
* Quan điểm tích cực hóa trong hoạt động học tập của học sinh.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới chương trình và
sách giáo khoa lần này là đổi mới phương pháp dạy và học. Chuyển từ phương
pháp truyền thụ sang phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, trong
đó thầy cô đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều
được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Để theo phương pháp tích cực hóa các hoạt động của học sinh, sách giáo
khoa Tiếng việt không trình bày kiến thức như là những kết quả sẵn có mà xây
dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động
nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng việt, sách giáo
khoa Tiếng việt 3 hướng dẫn giáo viên cách thức cụ thể tổ chức các hoạt động
này.
Nội dung sách giáo khoa Tiếng việt 3.
Sách giáo khoa tiếng việt lớp 3, hai tập, gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị
gắn với một chủ điểm, học trong 2 tuần trừ chủ điểm “ ngôi nhà chung” học
trong 3 tuần, cả năm học 35 tuần. Cụ thể như sau:
Tập 1 gồm 8 chủ điểm: Măng non; Mái ấm gia đình; Tới trường (trường

10



học); Cộng đồng ( sống với những người xung quanh); Quê hương; Bắc – Trung
– Nam (các vùng miền trên đất nước ta); Anh em một nhà (các dân tộc anh em
trên đất nước ta); Thành thị - Nông thôn.
Tập 2 gồm 7 chủ điểm: Bảo vệ Tổ quốc; Sáng tạo (hoạt động khoa
học,tri thức); Nghệ thuật; Lễ hội; Thể thao; Ngôi nhà chung (các nước, một số
vấn đề toàn cầu như hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bảo vệ môi trường); Bầu trời
và mặt đất (các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ, con người với thiên nhiên, vũ
trụ).
Môn tập đọc rèn cho học sinh kỹ năng đọc, nghe và nói. Bên cạnh đó
thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai
thác nội dung bài đọc; phân môn tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết
về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn, vốn diễn đạt, những
hiểu biết về tác phẩm văn học, đề tài, cốt chuyện, nhân vật…góp phần rèn luyện
nhân cách cho học sinh.
- Phân môn Kể chuyện: Rèn luyện kỹ năng nói, nghe.
- Phân môn Luyện từ và câu: cung cấp kiến thức sơ giản về tiếng việt
bằng con đường quy nạp và rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu, nói, viết.
- Phân môn tập làm văn: Rèn luyện cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
Trong một tuần học gồm:
- Tập đọc, kể chuyện ( 2 tiết ).
- Chính tả.
- Tập đọc (1 tiết): 1 bài thơ, hoặc một bài văn thông thường.
- Luyện TVC: 1 tiết.
- Tập viết (1 tiết).
- Tập làm văn ( 1tiết).
* Ưu điểm sách giáo khoa:
Nội dung tập đọc lớp 3 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với trình

11



độ của học sinh. sách giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và học, cấu
trúc rõ ràng nhằm tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các phân môn trong tiếng
việt, tạo ra tính tổng hợp, tính thống nhất của các phân môn. Nội dung sách giáo
khoa cũng thể hiện được yêu cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp theo một hệ thống, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, điều đó thể hiện
rất rõ tính khoa học của sách.
* Hạn chế của sách giáo khoa:
Một số kiến thức còn trìu tượng, tranh ảnh trong sách phục vụ bài còn sơ
sài. Phần hướng dẫn tìm hiểu bài ở sách giáo khoa là những câu hỏi, mà câu hỏi
lại mang tính khái quát trìu tượng, làm cho học sinh khó hiểu ngay. Đồng thời
câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh dùng một phương thức hành động duy nhất là “
dùng lời”. Điều này có những hạn chế số lượng học sinh làm việc trên lớp còn ít,
tại vì tại thời điểm đó chỉ có một em trả lời câu hỏi, các em khác chỉ được nghe,
giáo viên hầu như không kiểm soát được hết lớp, các em đã nghe và hiểu nội
dung như câu hỏi các em đã trả lời. Chính vì thế giờ dạy tập đọc chưa thực sự
tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh. Tất cả những điếu đó đều tác
động vào làm hạn chế trong giờ dạy tập đọc, chất lượng thấp hơn giờ toán.
* Khắc phục hạn chế này:
- Một số kiến thức trừu tượng này theo tôi, giáo viên nên cho tất cả học
sinh đều được hoạt động tự khám phá bằng cách giáo viên gợi mở cho học sinh
hoạt động theo nhóm để hiểu được hình thức trừu tượng đó.
- Với phần câu hỏi trừu tượng, giáo viên chia câu hỏi ra thành nhiều câu
hỏi nhỏ và cũng cho học sinh hoạt động theo nhóm, rồi giáo viên chốt ý bằng
câu hỏi trìu tượng trong sách.
Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phương pháp
dạy môn tập đọc lớp 3 nói riêng.

12



Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 3:
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi
nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp các kỹ năng giao tiếp không thể
được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát
triển kỹ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới
sự hướng dẫn của người thầy. Các kỹ năng về ngôn ngữ, văn hóa, tự nhiên và xã
hội đều có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được
những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý
thức của mình. Cũng như vậy những tư tưởng tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ
có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện thực tế. Đó là những lý
do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới - Phương pháp tích cực hóa
của người học.
- Tích cực hóa họat động của người học được hiểu là phương pháp dạy
học lấy người học làm trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò người tổ chức
hoạt động của học sinh. Mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều
được bộc lộ mình và được phát triển.
Hoạt động của học sinh trong giờ học theo phương pháp dạy mới. Trong
môn tiếng việt, hoạt động của học sinh có thể là hoạt động giao tiếp là đặc thù
của môn tiếng việt, hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết như ở các
môn học khác. Cả hai loại hoạt động trên có thể được ttổ chức theo nhiều hình
thức khác nhau:
- Làm việc độc lập.
- Làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo lớp.
Trong phần lớn các trường hợp, nhất là trong trường hợp câu hỏi, bài tập

13



đề ra rất cụ thể, học sinh được tổ chức làm việc độc lập. Trong trường hợp câu
hỏi, bài tập tương đối trìu tượng hoặc đòi hỏi một sự khái quát nhất định và
trong trường hợp nếu làm việc chung theo đơn vị lớp sẽ có ít học sinh được hoạt
động thì làm việc theo nhóm là giải pháp tốt nhất. Hình thức làm việc chung
theo đơn vị lớp được áp dụng chủ yếu trong trường hợp giáo viên thực hiện các
khâu: giới thiệu bài, củng cố bài, nêu những câu hỏi không yêu cầu phải suy
nghĩ lâu hoặc để học sinh trình bày kết quả làm việc.
Hoạt động của giáo viên trong giờ học theo phương pháp dạy học mới về
phần giáo viên chủ yếu là:
- Giao việc cho học sinh: cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, cho
học sinh làm mẫu một phần. Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò học sinh.
- Kiểm tra học sinh xem học học sinh có làm việc không? xem học sinh
có hiểu việc phải làm không? và trả lời thắc mắc của học sinh.
- Tổ chức báo cáo kết quả làm việc:
Các hình thức báo cáo đó là: báo cáo trực tiếp với giáo viên, báo cáo
trong nhóm, báo cáo trước lớp.
Các biện pháp báo cáo: bằng miệng, bằng bảng con, bằng bảng trên lớp,
bằng phiếu học, bằng giấy… hoặc thi đua giữa các nhóm và trình bày cá nhân.
- Tổ chức đánh giá.
Các hình thức đánh giá:
+ Tự đánh giá.
+ Đánh giá nhóm.
+ Đánh giá trên lớp.
Các biện pháp đánh giá như: khen, chê định tính, cho điểm định hướng.
Phương pháp dạy phân môn tập đọc ở lớp 3:
* Nội dung dạy học:
- Rèn luyện kỹ năng đọc: Rèn luyện năng đọc thành tiếng và đọc thầm

14



thông qua 93 bài tập đọc thuộc các loại văn bản khác nhau: văn bản nghệ thuật,
văn bản hành chính, văn bản báo chí vv… Trong đó có 30 bài thơ từ 4 - 5 đến 7
tiếng, thơ lục bát, thơ tự do, 63 bài văn xuôi, chuyện, văn miêu tả, văn bản khoa
học, nghị luận và văn bản thông thường.
Rèn kĩ đọc hiểu văn bản thông qua phần hướng dẫn văn bản sư phạm
cuối bài tập đọc chú thích và giải nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài, giúp
học sinh nắm được ý chính của đoạn, tập nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật,
chi tiết trong bài tập đọc.
Kết hợp rèn kỹ năng nghe, nói.
Qua việc hướng dẫn học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài, giáo viên giúp
các em có cơ hội rèn luyện kỹ năng nghe nói, nghe giáo viên và các bạn đọc,
nghe giáo viên hướng dẫn bài học hoặc các bạn trả lời câu hỏi, nói trước lớp
hoặc trao đổi với bạn bè về nội dung bài học.
Cung cấp và mở rộng vốn sống.
Các bài tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 3 phản ánh nhiều
lĩnh vực khác nhau là gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các
dân tộc anh em trên đất nước ta đến hoạt động các văn hóa giáo dục, khoa học,
thể thao và các vấn đề lớn của xã hội như bảo vệ hòa bình, phát triển tình hữu
nghị, sự hợp tác giữa các dân tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ.
Thông qua hệ thống bài tập đọc qua chủ điểm và các lĩnh vực khác nhau
qua những câu hỏi, bài tập khai thác nội dung bài, phân môn tập đọc còn cung
cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp
vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học như đề tài, cốt truyện,
nhân vật, qua đó rèn luyện nhân cách cho học sinh.
* Phương pháp tập đọc.
+ Phương pháp đàm thoại :
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ ở lứa tuổi tiểu học, các em thích
hoạt động và hoạt động bằng lời nói, giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm
hiểu bài, học sinh tự trả lời toát ra nội dung bài, muốn đọc diễn cảm được bài thì


15


trước hết phải cảm thụ được bài văn, phải tái hiện được các nhân vật có hình
tượng đẹp, hoặc nhân vật, nội dung chính trong bài. Vì vậy giáo viên cần hướng
dẫn các em bằng câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ, dễ trả lời.
+ Phương pháp trực quan:
Phương pháp này phù hợp với tư duy, với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu
học. Giáo viên có thể dùng nhiều hình thức trực quan: trực quan bằng lời nói,
trực quan bằng dáng điệu, trực quan bằng nét mặt, trực quan bằng các động tác
hình mẫu, trực quan bằng vật thực, trực quan bằng tranh ảnh, trực quan bằng
băng hình.
- Trong đó trực quan bằng giọng điệu của giáo viên là hình thức trực
quan sinh động và có hiệu quả cao nhất có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện
đọc, mỗi bài thơ, bài văn viết ở thể loại khác nhau, nên mỗi bài có giọng đọc
khác nhau, có bài giọng nghiêm trang, trầm lắng, có bài giọng đọc tình cảm, âu
yếm, có bài đọc với giọng phấn khởi, náo nức. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể
loại, ngữ điệu, tránh đọc một cách đều đều. Khi đọc phải biểu hiện tình cảm qua
ánh mắt, nụ cười.
- Trực quan bằng dáng điệu: Giáo viên thể hiện được dáng điệu đúng nội
dung bài học, giúp học sinh hiểu và dễ nhớ.
- Trực quan bằng nét mặt: Nét mặt giáo viên bộc lộ vui buồn theo giọng
đọc và theo nội dung bài.
- Trực quan bằng vật thực: Khi giảng giáo viên dùng vật thực để học sinh
minh họa theo bài.
- Trực quan bằng tranh ảnh: Giáo viên đưa tranh ảnh mẫu phù hợp với
nội dung bài.
- Trực quan bằng băng hình: Giáo viên cho học sinh nghe giọng đọc của
học sinh đọc, có thể cho học sinh luyện đọc theo.

+ Phương pháp luyện đọc thực hành:
Là phương pháp chủ yếu trong giờ tập đọc. Dưới sự hướng dẫn của giáo

16


viên, học sinh được rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo về đọc, có thể đọc đồng thanh,
đọc cá nhân, đọc nhóm để phát hiện từ quan trọng, những hình ảnh tiêu biểu,
làm các bài tập để xác định cách đọc và trhông hiểu về nội dung, nắm ý chính.
Thông qua đọc đoạn, nắm được mục đích đọc chủ yếu, đọc cá nhân, trả lời câu
hỏi để thấy được kết quả ngay tại lớp.
+ Phương pháp trò chơi:
Đây là một phương pháp mới giúp cho học sinh có hứng thú khi đọc bài.
trong cuối mỗi tiết tập đọc giáo viên tổ chức cho học sinh đọc dưới hình thức
chơi trò chơi bằng cách: thi đọc phân vai theo nhân vật; thi đọc diễn cảm một
đoạn văn hoặc một đoạn thơ. Trước khi học sinh tham gia trò chơi thi đọc giáo
viên đưa ra tiêu chuẩn đánh giá để giúp học sinh nắm được cách chơi, luật chơi,
cách nhận xét đánh giá cho điểm để tạo cho học sinh tham gia chơi một cách tích
cực, vui vẻ, bổ xung cho giờ học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại: Muốn để phân môn tập đọc đạt kết quả cao, thì người giáo viên
phải kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp trên thì giờ dạy mới không
ngắt quãng, gián đoạn. Người giáo viên phải luôn biết lấy học sinh làm trung
tâm. Vai trò của người giáo viên trong tiết học chỉ là người hướng dẫn, tổ chức
tiết học sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh mình, giúp học sinh tìm ra
cách đọc tốt nhất, đọc hiểu nội dung trong bài tập đọc trong giờ tập đọc.
II. THỰC TRẠNG CỦA SÁNG KIẾN
* Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình viết đề tài.
1. Thực trạng nhà trường và địa phương.
Trường Tiểu học Kiên Thành là trường thuộc xã Kiên Thành, một xã
miền núi, diện tích tương đối rộng, dân cư thưa thớt, toàn bộ là dân tộc ít người

(dân tộc Tày, Dao, H’mông,…) và làm nghề nông nghiệp do đó kinh tế còn gặp

17


nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, cha mẹ ít quan tâm đến việc học tập của
con em mình, do vậy việc học tập của học sinh còn nhiều hạn chế.
Năm học 2013 – 2014 trường có 18 lớp với 3 điểm trường, các điểm
trường cách nhau từ 7-10 km với 304 học sinh trong đó khối lớp 3 có 3 lớp.
Nhưng được sự quam tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục – đào tạo, trực tiếp là
Ban giám hiệu nhà trường, tập thể luôn đoàn kết, đoàn kết giúp nhau hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
2. Điều tra khảo sát lớp 3.
Lớp 3 có 15 học sinh, trong đó 100% là dân tộc Dao, Tày. Học sinh
không đồng đều về trình độ nhận thức, giữa học sinh trong lớp bất đồng ngôn
ngữ. Vào đầu năm học nhà trường tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng học
sinh. Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3B, qua khảo sát chất lượng học sinh
cho thấy: số học sinh đọc được lưu loát chỉ có 3 em, 7 học sinh đọc được nhưng
chậm, còn lại số học sinh khi đọc rất chậm thậm chí có em còn phải đánh vần…
80% số học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng khi cần thiết, đọc chưa biết
ngắt nghỉ câu, nhất là đọc các câu thơ. Ví dụ: ngọng phụ âm đầu: ch/tr; r/gi/d
hoặc vần: ương/ ươi; an/at; các dấu sắc, ngã vv…và hầu như các em không hiểu
nội dung bài.
3. Dự giờ của giáo viên.
Trong thời gian nghiên cứu viết đề tài này, tôi tiền hành dự giờ của một
số đồng nghiệp khác dạy phân môn tập đọc, nói chung các giờ dạy đều thực hiện
đủ các bước lên lớp, nhưng phần luyện đọc chưa thích đáng, chưa đưa ra được
phương pháp cách đọc cho học sinh, chủ yếu là quam tâm đến đọc đúng câu,
đúng tiếng, từ, đọc trôi chảy. Khi nhận xét giáo viên chỉ đánh giá chung, ít chú ý
đến việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thể hiện cách đọc bài văn, bài thơ này

cần đọc như thế nào? tại sao phải đọc như vậy? hoặc giáo viên chưa hướng dẫn

18


học sinh tìm hiểu giá trị nghệ thuật của bài để khi đọc phô diễn nội dung bài đọc.
Chính vì những thiếu xót trên mà giờ học chưa đạt kết quả cao, học sinh chưa
đọc được tốt.
III. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Nhu cầu đổi mới phương pháp nói chung.
Thực tế dạy học đòi hỏi phải đổi mới theo xu hướng chung của Việt Nam
và thế giới trong mục đích đào tạo con người. Nhu cầu đổi mới ấy được đặt ra
rất cấp thiết trong các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Trường
tiểu học phải rèn luyện tính cách cơ bản cho trẻ.Vì vậy đòi hỏi phải dạy học theo
hướng tích cực hóa này, đó là dạy tập trung vào người học. Vì nền kinh tế, văn
hóa xã hội đang đổi mới từng giờ, từng ngày, nên đòi con người phải năng động,
sáng tạo, do đó mục tiêu đào tạo phải đồng thời đổi mới về phương pháp giảng
dạy.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh và cũng là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục có chất lượng ở tiểu
học, điều đó cũng đòi hỏi phải nâng cao trình độ của giáo viên.
2. Vấn đề nâng cao trình độ của giáo viên.
Trong thời kỳ giáo dục đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên
phải đạt một trình độ chuẩn về nhận thức văn hóa và phương pháp thì mới có thể
có những câu hỏi xác đáng, dễ hiểu, phải kết hợp hài hòa giữa hỏi và giảng.
Giáo viên cần hiểu rõ mục đích của bài giảng thì mới có thể xây dựng được
phương pháp đúng.
3. Biện pháp dạy học chủ yếu của phân môn tập đọc đã ứng dụng
trong thực tế và có hiệu quả.
- Đối với học sinh vùng miền núi, dân tộc ít người, biện pháp dạy tập

trung cần thực hiện yêu cầu tối thiểu, đó là đọc đúng, đọc rành mạch, tốc độ dọc
từ 60-> 70 tiếng/ phút, nắm được ý cơ bản của bài học, để đạt được yêu cầu này

19


giáo viên cần chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn học sinh kết
hợp hình thức đọc theo nhóm để học sinh tham gia nhiều lần đọc trong một tiết
học, xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh yếu, học sinh còn
rụt rè vào hoạt động học, đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và
đọc được càng nhiều càng tốt, giáo viên hạn chế đọc phân vai, đọc thầm.
Đối với phần tìm hiểu bài, cần chú ý giải nghĩa từ khó chưa gần gũi với
học sinh dân tộc. Tận dụng tối đa tranh minh họa và đồ dùng dạy học, giáo viên
cần giải nghĩa một cách cụ thể để học sinh dễ nhận biết, cũng vì vốn từ tiếng việt
của các em còn hạn chế, giáo viên cần phải chú ý ghi rõ lên bảng các từ khó khi
phát âm để học sinh theo dõi một số câu hỏi khó giáo viên chia nhỏ và gợi mở
cho học sinh, dành nhiều thời gian vào đọc rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ: Bài tập đọc “ Người con của Tây Nguyên” tuần 13, giáo viên cần
tập trung cho học sinh học đọc đoạn, còn những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1
và 4 dễ ngắt hơi. Những học sinh khá giỏi đọc đoạn 2, 3 dài hơn, cần có thái độ
biểu cảm. Để tăng thời gian cho việc đọc rõ ràng, mạch lạc giáo viên phải giảm
bớt phần tìm nội dung bài, những câu hỏi dài như câu 4 nên tách ra làm 2 câu
hỏi nhỏ như: Đại hội tặng dân làng Kông Hoa những gì? Giáo viên cho học sinh
theo dõi sách giáo khoa và nên gọi học sinh đọc đoạn: “ Đại hội tặng dân làng
Kông Hoa một ảnh Bác Hồ vác cuốc đi làm rẫy…cho Núp”. Khi xem những vật
đó thái độ của dân làng như thế nào? yêu cầu học sinh đọc đoạn: “ Khi xem
những vật đó thái độ của mọi người hết sức trân trọng xem đó là những vật tặng
thiêng liêng. Ai nấy đều rửa tay sạch trước khi cầm lên xem từng thứ, coi đi coi
lại mãi đến nửa đêm”. Ngoài ra ở những bài tập tập đọc khác, những câu hỏi
khác được giáo viên gợi mở, hoặc chủ động giải thích… Đó cũng chính là

những kinh nghiệm của tôi dạy môn tập đọc mới lớp 3 đối với vùng miền núi.
Còn những biện pháp dạy học chủ yếu vẫn là theo mục đích đề ra. Đó là:
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “ tạo tình huống” để học
sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc, có thể đọc vài lần trong quá trình

20


dạy học.
- Đọc cụm từ, từ: Nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng góp phần
nâng cao về ý thức viết đúng cho học sinh.
Học sinh tìm hiểu nghĩa của từ: Giáo viên phải xác định những từ ngữ
trong bài cần tìm hiểu, đó là những từ ngữ chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ
phổ thông mà học sinh chưa quen, vì từ ngữ đóng vai trò quan trọng để học sinh
hiểu nội dung bài đọc, nên giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại phần giải nghĩa
trong sách giáo khoa hoặc giáo viên dùng đồ dùng dạy học như: tranh, ảnh,vật
thật, mô hình để giải nghĩa từ giúp học sinh hiểu hơn, song không nên giải nghĩa
quá nhiều từ hoặc áp dụng các biện pháp kồng kềnh làm cho giờ tập đọc thiên về
học từ ngữ một cách nặng nề.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Giáo viên căn cứ vào câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa để hướng dẫn
học sinh tìm hiểu nội dung bài, có thể nêu nguyên văn hoặc gợi dẫn bằng 1,2 câu
hỏi phụ để học sinh dễ trả lời, tùy thuộc vào học sinh trong lớp, tránh đặt thêm
câu hỏi khai thác nội dung một cách quá yêu cầu bài học và không phù hợp với
trình độ học sinh lớp 3.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi trực tiếp để định hướng cho học sinh đọc
thầm và trả lời đúng nội dung, đôi khi có thể kết hợp cho học sinh đọc thành
tiếng, những học sinh khác đọc thầm, sau đó trao đổi, thảo luận những vấn đề
giáo viên nêu ra.
Bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, giáo viên tạo điều kiện cho học

sinh luyện tập một cách tích cực như: tự cá nhân trả lời câu hỏi, trao đổi theo cặp
để trả lời. Trong quá trình trả lời câu hỏi, giáo viên cần nêu cho học sinh cách trả
lời ngắn gọn, diễn đạt lưu loát, sau đó giáo viên nhận xét, chốt lại ý chính.
4. Những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng học sinh cần đạt được khi
học môn tập đọc.

21


- Trau dồi về kiến thức văn học.
- Yêu cầu kĩ năng khi học môn tập đọc.
- Môn tập đọc là môn thực hành tiếng việt, do vậy khi dạy môn tập đọc
cần rèn cho học sinh 4 kỹ năng đọc như sau:
+ Đọc đúng.
+ Đọc nhanh.
+ Đọc thầm, đọc hiểu.
+ Đọc diễn cảm.
5. Các biện pháp thực hiện.
Để thực hiện được tốt 4 kỹ năng trên, người giáo viên cần phải có những
biện pháp thực hiện như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Mọi sự thành công
trong tiết học phụ thuộc rất nhiều vào việc thiết kế một bài dạy tùy từng nội
dung của từng bài, từng tiết học. Do đó giáo viên cần thiết kế giáo án cho phù
hợp thì tiết học mới đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ, những kinh nghiệm
đã từng vận dụng xen lẫn vào các tiết dạy.
a. Luyện đọc đúng.
Đọc đúng là sự tái hiện không đọc thừa, không xót từng âm, vần , tiếng,
đọc đúng phương pháp, thể hiện đúng hệ thống ngôn ngữ chuẩn, tức là đọc đúng
chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn.
Đọc đúng bao gồm đọc đúng, thanh, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ ( đọc đúng ngữ

điệu). Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị tiếng
việt. Học sinh trường tôi thường khi đọc hoàn toàn đọc sai thanh ngã, thanh sắc,

22


vần ương -> ươc, an -> at, ot ->on, là do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương.
Như vậy cần luyện cho học sinh cách đọc như sau.
- Luyện đọc đúng các tiếng, từ có dấu ngã, có ý thức phân biệt sai nghĩa
của từ, nếu như sai dấu thanh; Không đọc “ cây sứa”, “ giá gạo”, “ em bé ngá”
mà phải đọc “ cây sữa”, “giã gạo”, “ em bé ngã”. Khi học sinh đọc sai giáo viên
cần hướng dẫn các em đọc phát âm những tiến từ có dấu ngã là: luồng hơi bật ra,
lưỡi chạm nhẹ vào hàm trên, độ mở của miệng rộng để hơi thoát ra ngoài.
- Luyện đọc đúng các tiếng, từ có vần an/at, ương/ ươc, ot/on, anh/ang
khi học sinh phát âm sai do ảnh hưởng của phương ngữ, giáo viên nên phát âm
mẫu chuẩn cho học sinh đọc theo, nếu học sinh nào yếu thì giáo viên nên đánh
vần những vần đọc sai đó. Ví dụ: vần ương trong từ “ Phú Thượng” học sinh
thường đọc và viết là “ Phú thược”, “ Đồng Lạn” đọc là “ Đồng Lạt”… giáo viên
yêu cầu đánh vần ương, ươc, an, at để học sinh phân biệt và khắc sâu dẫn đền
việc đọc đúng.
- Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi đúng ngữ điệu của câu cần
phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt nghỉ hơi
cho đúng, khi đọc không được tách một từ ra làm hai.Ví dụ: Trời thu bận xanh;
không ngắt hơi: Trời / thu bận xanh.
Không tách với danh từ đi sau. Ví dụ không đọc: trăm cô/ gái tựa/ tiên
sa, mà đọc: trăm cô gái / tựa tiên sa.
Dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp sẽ giúp các em xác định cách ngắt
nhịp đúng các câu: “Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải/ rất đẹp”. “ Bãi biển cửa
Tùng như một chiếc lược đồi mồi / cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển”.
Không đọc: “Cảnh bên bờ sông Bến / Hải rất đẹp”.

“Bãi biển Cửa Tùng như một chiếc lược đồi / mồi cài vào mái / tóc bạch

23


kim của sóng biển”.
Với cách dạy như trên số học sinh đọc sai giảm xuống rõ rệt.
b. Luyện đọc nhanh.
Đọc nhanh còn gọi đọc lưu loát, đọc trôi chảy, biện pháp đọc nhanh giáo
viên hướng dẫn cho học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm,
từ, câu, đoạn bài. Giáo viên cần điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo tốc độ đọc
bằng cách soạn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính trong bao nhiêu phút,
định tốc độ như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
c. Luyện đọc thầm, đọc hiểu.
Đây là kỹ năng được chuyển từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ,
đọc mấy máy môi đến đọc bằng mắt, không mấp máy môi. Giáo viên phải tổ
chức quá trình từ ngoài vào trong, cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh
bằng cách xác định đọc thầm cho học sinh từng đoạn, khi học sinh đọc thầm
giáo viên cũng phải đọc thầm theo để đề phòng hoặc phát hiện những học sinh
không đọc thầm mà đã giơ tay ( nếu thấy học sinh đọc quá nhanh, nhanh hơn cả
cô), giáo viên đưa ra câu hỏi từ đoạn đó. Nếu thấy học sinh lúng túng thì có
nghĩa là em đó không đọc bàì.
Ví dụ: Bài “ Đôi bạn”, giáo viên đọc thầm một đoạn, thấy học sinh đọc
quá nhanh thì giáo viên đưa ra câu hỏi ở đoạn đó (Thành và Mến kết bạn vào dịp
nào?).
Với những biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải đọc thầm để tìm
hiểu nội dung bài. Giờ tập đọc cũng kiểm tra như vậy, từ đó giúp các em tích
cực tự giác học tập. Đối với học sinh yếu, tôi luôn động viên, khuyến khích các
em đó gây được phong trào đọc thầm cho học sinh.
d. Luyện đọc diễn cảm.


24


- Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc của bài
đọc, đọc diễn cảm không những đạt được yêu cầu đọc đúng mà còn kèm theo cử
chỉ, lời nói để góp phần diễn tả nội dung bài.
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy để đọc được diễn cảm người giáo
viên cần chuẩn bị các bước sau:
+ Soạn bài chu đáo, nắm được nội dung bài, đọc kỹ bài để thể hiện được
ngữ điệu đọc, cường độ đọc bài đó ra sao? đọc cao giọng, nhấn giọng ở những từ
nào? nét mặt vui, buồn thể hiện ở những từ ngữ nào trong bài.
+ Yêu cầu học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà, tập đọc theo ngữ điệu sao
cho phù hợp với nội dung bài đọc đó. Khi đến lớp giáo viên hướng dẫn học sinh
có thể tiếp thu nhanh cách đọc đúng và đọc diễn cảm.
Ví dụ: bài “Cuộc chạy đua trong rừng” ( tuần 28 – sách giáo khoa Tiếng
việt lớp 3 tập 2). Đọc toàn bài chú ý giọng đọc của mỗi đoạn.
Đoạn 1: Giọng đọc sôi nổi, hào hứng, nhấn giọng ở những chi tiết miêu
tả hình ảnh vui thích của ngựa con khi soi bóng mình dưới nước: “ sửa soạn”, “
mải mê”, “ chải chuốt”,…
Đoạn 2: Giọng đọc âu yếm, ân cần đối với ngựa cha, ngựa con tự tin,
ngúng ngẩy: “ cha yên tâm”, “ chắc chắn”, “ sẽ thắng”.
Đoạn 3: Giọng đọc chậm, nhấn giọng ở các từ ngữ tả muông thú chuẩn
bị cuộc đua: “ sốt ruột”, “ ngắm nghiá”, “ giữ trật tự”, “ ung dung”.
Đoạn 4: Giọng đọc nhanh, hồi hộp, đoạn cuối đọc chậm thể hiện sự nuối
tiếc vì chủ quan của ngựa con.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng, tranh ảnh, vật thực cho giờ
học, bảng phụ ghi câu văn, đoạn văn khó cần luyện cho học sinh.

25



Đối với bài tập có lời đối thoại, giáo viên nên xây dựng màn kịch ngắn
với nội dung của bài, học sinh sắm các vai nhân vật đó để đọc bài.
Ví dụ bài: “Cuốn sổ tay” của nhân vật trong chuyện rất phù hợp với lứa
tuổi các em, sôi nổi, hào hứng, hồn nhiên, các em sắm vai :(Thanh, Tuấn, Lân,
Tùng). Lời nói của người dẫn chuyện giọng điệu hồn nhiên, giọng của Lân có vẻ
ngại ngần, giọng của Thanh quả quyết, dứt khoát, hào hứng; giọng của Tùng vẻ
thách thức, dí dỏm và rất tự tin…
Sau đó giáo viên gọi từng nhóm học sinh lần lượt lên bảng nhập vai đọc
bài, như vậy tất cả học sinh trên lớp đều làm việc, được luyện nói và được thể
hiện nét mặt thông qua các nhân vật mà mình nhập vai. Qua các giờ học như
vậy, học sinh sẽ tiến bộ dần, các em sẽ tự tin hơn ở bản thân mình, tạo ra tiết học
đạt kết quả cao.
e. Luyện đọc thuộc lòng.
Ở những bài dạy có yêu cầu luyện đọc thuộc lòng, giáo viên chú ý kết
hợp luyện đọc thành tiếng bằng cách tổ chức đọc cá nhân riêng lẻ, hoặc nối tiếp
đọc đồng thanh theo nhóm, tổ, cả lớp, đọc theo vai phối hợp nhiều học sinh.
Giáo viên cần biết nghe khi học sinh đọc để có cách rèn luyện thích hợp
với từng em, gợi ý, khuyến khích trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được, chỗ
chưa được của bạn giúp học sinh biết rút kinh nghiệm để tự tin và đọc tốt hơn.
Bên cạnh luyện đọc thành tiếng giáo viên giúp học sinh luyện đọc kỹ hơn, có thể
kết hợp hướng dẫn học sinh vừa ghi nhớ nội dung bài, vừa dựa vào một số từ
ngữ trên bảng làm điểm tựa để học thuộc toàn bài. Khi đọc cá nhân hoặc đọc
đồng thanh phải đọc nhịp nhàng, vừa phải, gây hứng thú cho học sinh.
Phần ghi bảng: Nội dung ghi bảng nói chung cần ngắn gọn, xúc tích đảm
bảo tính khoa học và tính sư phạm, hình thức trình bày mang tính thẩm mỹ có
tác dụng giáo dục học sinh, Việc ghi bảng cần kết hợp nhịp nhàng với tiến trình

26



của tiết dạy nhằm đem lại hiệu quả trực quan cao nhất.
g. Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực.
Theo tôi, đây là một biện pháp mới, rất có ý nghĩa trong các giờ học đối
với vùng miền núi, dân tộc ít người. Ở đây học sinh thường đi học theo cảm
tính, thích đi thì đi, không thích thì nghỉ, học sinh chưa thấy được mục đích và
nhiệm vụ phải đi học đều, đầy đủ, hơn nữa ở lứa tuổi này học sinh thường hiếu
động, nếu giờ học chỉ đọc và trả lời không thôi thì học sinh không hứng thú học
tập, không khích lệ được học sinh yếu vươn lên, không tạo được môi trường
thân thiện để các em thích đến học . Chính vì vậy trong giờ học giáo viên cần
kết hợp cho học sinh tham gia các trò chơi học tập mang tính chất hòa đồng thân
thiện giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Nếu là bài học có hội thoại thì giáo viên
cùng sắm vai với học sinh đọc theo nhân vật và đọc ngắn gọn. Còn đối với các
thể loại khác, giáo viên tổ chức trò chơi đọc truyền điệu. Giáo viên đọc câu 1,
gọi một em khác đọc tiếp, sau đó em đó lại chỉ bạn bên cạnh và đọc tiếp, cứ như
vậy lần lượt đọc hết bài. Với phương pháp này học sinh tham gia đọc được
nhiều, các em lại chú ý vào bài đọc một cách vui vẻ, nếu không chú ý không đọc
được. Khi đọc truyền điệu của các em rất chăm chú và trật tự, nên giờ học đạt
kết quả cao, các em thoải mái học bài, mà không gây áp lực, nên tạo được môi
trường thân thiện, học sinh tích cực.
Phương pháp đọc trên có thể chia thành 2 tổ, các tổ thi nhau đọc hay, đọc
lưu loát, diễn cảm. Từ hình thức đọc trên tôi thấy các em trước đây đọc yếu, giờ
đã đọc tốt hơn rất nhiều và có ý thức vươn lên trong các môn học khác. Ngoài ra
tôi còn tổ chức cho các em học nhóm ở gia đình, giao nhiệm vụ cho em đọc tốt
kèm cặp bạn đọc yếu ở tại địa phương vào ngày nghỉ, giúp các em được giao lưu
học hỏi nhiều hơn.
f. Kết hợp với chuyên môn nhà trường và học hỏi ở đồng nghiệp.

27



×