Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam _ 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.6 KB, 14 trang )

BÀI TẬP NHÓM
QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI


2

MỤC LỤC


3

I

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUỸ BHXH

I.1

Khái niệm quỹ BHXH
Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những bên tham gia BHXH

hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung nhằm để chi trả cho những người được BHXH và
gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị
mất việc vĩnh viễn.
Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một dự phòng, nó vừa mang tính
kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay phương tiện vật chất quan trọng
nhất đảm bảo cho toàn hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những “rủi ro xã
hội” của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc san sẻ rủi ro
được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu
thiệt hại về kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả NSNN và ngân sách
gia đình.


Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
− Phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước (đây là
nguồn lớn nhất và cơ bản nhất của quỹ BHXH);
− Phần tăng thêm do hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ;
− Phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH;
− Các nguồn vốn khác.
Theo mục đích sử dụng của BHXH, quỹ BHXH phải đảm bảo chi trả những khoản
chi chủ yếu như:





Trả trợ cấp cho các chế độ BHXH (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất);
Chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp;
Chi phí đảm bảo các cơ sở vật chất cần thiết;
Các chi phí quản lý khác.


4

I.2
I.2.1

Đặc trưng cơ bản của quỹ BHXH
Mục đích của quỹ BHXH
Mục đích của quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người lao động, người

sử dụng lao động và Nhà nước nhằm tạo lập quỹ tài chính để phân phối sử dụng nó, bảo
đảm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi có sự cố bảo hiểm xuất hiện như:

ốm đau, tai nạn, hưu trí, thất nghiệp,… làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập
thường xuyên từ lao động, nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ.
Như vậy hoạt động của quỹ BHXH không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì phúc
lợi, quyền lợi của người lao động, của cả cộng đồng.
I.2.2
-

Quá trình phân phối và sử dụng quỹ BHXH
Thực hiện chế độ hưu trí:
Phần thực hiện chế độ hưu trí mang tính chất bồi hoàn, mức độ bồi hoàn phụ thuộc

vào mức đóng góp vào quỹ BHXH. Vì vậy có thể nói rằng, quỹ BHXH là một quỹ “tiết
kiệm dài hạn” (bắt buộc hoặc thỏa thuận) đòi hỏi người lao động phải đóng góp đều đặn
liên tục mới đảm bảo nguồn chi trả. Quỹ BHXH khác với quỹ tiết kiệm là không được rút
tiền ra trước lúc nghỉ hưu. Nhưng quỹ lại tạo điều kiện cho việc đầu tư dài hạn để bảo
toàn và phát triển quỹ BHXH.
-

Thực hiện các chế độ khác:
Phần thực hiện các chế độ còn lại vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất

không bồi hoàn. Nghĩa là khi người lao đông đang trong quá trình lao động không bị ốm
đau, tai nạn… thì không được bồi hoàn, khi bị ốm đau, tai nạn… thì được bồi hoàn, mức
bồi hoàn phụ thuộc vào mức độ ốm đau, tai nạn… Phần này phản ánh tính chất cộng đồng
của quỹ BHXH.
Vì vậy để đảm bảo cho quá trình sản xuất phát triển bình thường và góp phần thực
hiện an toàn xã hội, đòi hỏi không chỉ người lao động mà còn là người sử dụng lao động
và Nhà nước phải có trách nhiệm đóng góp và tổ chức quản lý quỹ BHXH.
Tuy theo mô hình quản lý BHXH của từng nước, quỹ BHXH có thể bao gồm nhiều
quỹ thành phần như quỹ BHXH cho các chế độ BHXH dài hạn, quỹ BHXH cho các chế

độ BHXH ngắn hạn hoặc có nước chia ra từng loại quỹ như: quỹ bảo hiểm hưu trí, quỹ


5

bảo hiểm thất nghiệp, quỹ bảo hiểm ốm đau… Tuy nhiên dù có được tổ chức như thế nào
thì quỹ BHXH cũng nhằm mục đích chủ yếu là chi trả trợ cấp các chế độ BHXH cho
những trường hợp được bảo hiểm. Ngoài ra quỹ BHXH còn phải trang trải cho bộ máy
hoạt động BHXH chuyên nghiệp và các chi phí quản lý khác.
Tại Việt Nam, có 3 chế độ BHXH:
-

Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các quỹ thành phần: ốm đau và thai sản; tai nạn

-

lao động và bệnh nghề nghiệp; hưu trí và tử tuất.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ: hưu trí; tử tuất.
Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ: trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ học nghề; hỗ
trợ tìm việc làm.

I.3

Vai trò của quỹ BHXH
Trong nền kinh tế thị trường việc tạo lập quỹ BHXH có vai trò rất to lớn, vai trò

được thể hiện trên các mặt sau đây:
*Về mặt kinh tế
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập ngoài NSNN do các bên tham gia bảo
hiểm đóng góp nhằm phân phối lại theo luật định. Thông qua quá trình phân phối lại quỹ

BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn xã hội về kinh tế cho mọi thành viên
trong xã hội trước những rủi ro. Mặt khác với chức năng phân phối lại theo nguyên tắc
“lấy của số đông bù cho số ít”, BHXH góp phần ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển,
cải thiện quan hệ sản xuất, khuyến khích động viên người lao động an tâm sản xuất.
*Về mặt chính trị xã hội
Việc hình thành quỹ sẽ tạo ra hệ thống an toàn xã hội. Bởi vì, khi người lao động
mất việc làm, hoặc không còn khả năng lao động phải nghỉ việc, nếu không có nguồn tài
chính đảm bảo cho họ sau khi mất thu nhập thì sẽ có có thể đưa họ tới con đường tệ nạn
xã hội… Tệ nạn đó là nguyên nhân làm cho xã hội rối ren, chính trị, xã hội mất ổn định sẽ
làm suy yếu đất nước. Nhưng nếu có BHXH chi trả khi hị gặp rủi ro để duy trì cuộc sống,
thì những hiện tượng tiêu cực xã hội sẽ được hạn chế. Trên góc độ có thể nói rằng thông
qua việc tạo lập phân phối và sử dụng quỹ BHXH sẽ góp phần tạo lập hệ thống an toàn
chính trị - xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội.
Ngoài ra quỹ BHXH cũng là một tụ điểm tài chính quan trọng của thị trường tài
chính để đầu tư phát triển kinh tế, xã hội. Một bộ phận lớn của quỹ BHXH có thời gian


6

nhàn rỗi tương đối dài có thể dùng để đầu tư phát triển kinh tế và sinh lợi. Việc sử dụng
quỹ bảo hiểm như vậy sẽ tạo ra sự gắn bó giữa lợi ích của Chính phủ với các tầng lớp
những người lao động khác nhau.
Như vậy BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không thể thiếu
của mỗi quốc gia nhằm bình ổn đời sống kinh tế - xã hội và góp phần làm vững chắc thể
chế chính trị.

II NỘI DUNG THU, CHI QUỸ BHXH
II.1 Nguồn thu các quỹ BHXH
-


Thu BHXH bắt buộc theo Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính

-

phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc.
Thu bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày
16/05/2005 của Chính phủ về ban hành Điều lệ BHYT và văn bản hướng dẫn của

-

cấp có thẩm quyền.
Thu BHYT tự nguyện theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/05/2005 của Chính
phủ về ban hành Điều lệ BHYT và văn bản hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.

II.2 Nguồn chi các quỹ BHXH
II.2.1 Quỹ BHXH bắt buộc
Qũy BHXH bắt buộc sử dụng để chi trả cho các đối tượng được hưởng các chế độ
BHXH từ ngày 01/01/1995 trở đi.
-

Chi lương hưu.
Trợ cấp cho người bị tai nạn lao động và người phục vụ người bị tai nạn lao động,

-

trang cấp dụng cho người bị tai nạn lao động.
Trợ cấp ốm đau, thai sản.
Trợ cấp bệnh nghề nghiệp và người phục vụ người bị bệnh nghề nghiệp, trang cấp

-


dụng cụ cho người bị bệnh nghề nghiệp.
Chi dưỡng sức và phục hồi sức khỏe.
Tiền tuất và mai táng phí.
Đóng BHYT cho đối tượng theo quy định.
Lệ phí chi trả và khen thưởng.
Các chi khác.


7

II.2.2 Quỹ BHYT bắt buộc và quỹ BHYT tự nguyện
Quỹ BHYT dùng để thanh toán chi phí khám, chữa bệnh cho những người có thể,
phiếu khám, chữa bệnh theo quy định hiện hành của Nhà nước.

III CÁC LUẬT BỔ SUNG SỬA ĐỔI Ở VIỆT NAM:
-

Luật số 58/2014/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 của Luật BHXH.
Luật số 46/2014/QH13 ngày 13 tháng 06 năm 2014 của Luật BHYT.
Đến 01/01/2016, Luật bảo hiểm xã hội 2014 mới bắt đầu có hiệu lực.

*Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Ngoài các đối tượng quy định tại Luật BHXH 2006, còn có thêm các đối tượng sau đây:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả
HĐLĐ được ký kết giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) với người đại diện theo pháp
luật của người dưới 15 tuổi theo quy định pháp luật về lao động.
- Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng.
- Người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu.

- Học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí.
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động (NLĐ)
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương.
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
- NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc
chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ.
Ngoài ra, cụ thể hóa các nội dung sau:
- NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị
vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ


8

kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động
theo hợp đồng lao động.
Trước đây: cụm từ này được sử dụng rất mơ hồ, “sử dụng và trả công cho người lao
động”.
- Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không
thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHXH.
Trước đây: không quy định cụ thể số tuổi mà quy định một cách chung chung“trong độ
tuổi lao động”
(Căn cứ Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Sửa đổi, bổ sung các thuật ngữ
- BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
Quy định trước đây bao gồm trường hợp mất thu nhập do thất nghiệp.

- BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải
tham gia.
- BHXH tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa
chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình vàNhà nước có chính
sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.
- Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập với NSNN, được hình thành từ đóng góp của NLĐ,
NSDLĐ và có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Giải thích thuật ngữ này được bổ sung nhằm làm rõ nội dung.
- Thân nhân là con đẻ, con nuôi, vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, cha vợ
hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng của người tham gia bảo hiểm xã hội hoặc thành
viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Bổ sung thêm đối tượng được xem là thân nhân theo Luật này.
- Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu
bổ sung cho chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp


9

của NLĐ và NSDLĐ dưới hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn và tích
lũy thông qua hoạt động đầu tư theo quy định pháp luật.
Đây là khái niệm mới được sử dụng tại Luật bảo hiểm xã hội 2014.
(Căn cứ Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Các chế độ bảo hiểm xã hội
Các chế độ BHXH bao gồm: BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm hưu trí bổ
sung.
Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ BHXH mới được áp dụng theo Luật bảo hiểm xã hội
2014. Trước đây, chế độ BHXH gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHTN.
(Căn cứ Điều 4 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Cụ thể hóa một số nguyên tắc bảo hiểm xã hội

- Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của NLĐ. Mức đóng
BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do NLĐ lựa chọn.
Quy định cụ thể tiền lương, mức thu nhập tháng so với trước đây.
- Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì không tính vào thời gian
làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH.
- Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được sử dụng
đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng
thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết
định.
(Căn cứ Điều 5 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Chính sách mới của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội
Ngoài các chính sách của Nhà nước đối với BHXH theo Luật bảo hiểm xã hội 2006, còn
mở rộng thêm các chính sách:
- Hỗ trợ người tham gia BHXH tự nguyện.
- Khuyến khích NSDLĐ và NLĐ tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung.
- Ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin trong quản lý BHXH.
(Căn cứ Điều 6 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội


10

Ngoài các nội dung quản lý nhà nước về BHXH theo quy định cũ, còn bổ sung thêm:
- Quản lý về thu, chi, bảo toàn, phát triển và cân đối quỹ BHXH.
(Căn cứ Điều 7 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Bổ sung cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội
Ngoài các cơ quan theo quy định cũ, còn bổ sung cơ quan:
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam tham gia, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Tài chính, UBND cấp tỉnh quản lý về thu, chi, bảo toàn, phát triển và cân đối quỹ
BHXH.

(Căn cứ Điều 8 Luật bảo hiểm xã hội 2014)
*Hiện đại hóa quản lý bảo hiểm xã hội
- Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến để
quản lý, thực hiện BHXH.
- Đến năm 2020, hoàn thành việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý
BHXH trong phạm vi cả nước.
Đây là nội dung mới, đồng thời là mục tiêu phát triển việc quản lý BHXH trong tương lai
gần.
(Căn cứ Điều 9 Luật bảo hiểm xã hội 2014)

IV NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ QUỸ BHXH
Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm xã hội Việt Nam là những tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật bảo hiểm xã hội. Bảo
hiểm xã hội luôn chứa đựng và đan xen hai yếu tố kinh tế và xã hội. Vai trò của pháp luật
là xác lập được một hình thức pháp luật nhất định và bảo đảm thực hiện bởi một cơ chế
pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa nội dung kinh tế và nội dung xã hội trong bảo
hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, trên cơ sở quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng các bên trong quan hệ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an sinh
xã hội. Cụ thể là:


11

IV.1 Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng an sinh xã hội
Quyền được hưởng an sinh xã hội của người lao động là một trong những biểu hiện
cụ thể của quyền con người. Tuy nhiên, để được hưởng một chế độ trợ giúp nào đó thì đối
tượng được trợ giúp phải thỏa mãn những điều kiện nhất định. Ví dụ, đối tượng để hưởng
bảo hiểm xã hội là người lao động và phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. Đối tượng
được hưởng trợ cấp xã hội phải là người đang gặp hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh mà bản thân

không thể tự khắc phục được. Tương tự như vậy, được hưởng trợ cấp ưu đãi xã hội phải là
những người đã có cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.
Nhưng giữa nguyên lí và thực tiễn luôn luôn có một khoảng cách rất xa. Mặc dù
việc được hưởng an sinh xã hội là quyền của mọi thành viên trong xã hội nếu họ thỏa mãn
các điều kiện về đối tượng được hưởng, tuy nhiên có nhiều trường hợp dù đủ điều kiện,
nhưng một số đối tượng vẫn không được hưởng những chế độ an sinh xã hội này. Bởi
vậy, cần căn cứ vào các điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn
phát triển về tổ chức và hoàn thiện dần việc đảm bảo nguyên tắc trên được thực hiện đầy
đủ và đúng đắn.

IV.2 Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề an sinh xã hội
Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay chính ở chức năng xã hội của nhà nước. Nhà
nước, người chủ sở hữu cao nhất đồng thời là người chủ sử dụng lao động lớn nhất, người
đại diện cho toàn xã hội phải là người thống nhất quản lý toàn bộ lĩnh vực an sinh xã hội.
Sự thống nhất quản lí an sinh xã hội thể hiện ở chỗ, trước hết, Nhà nước định ra các
“chính sách xã hội”, cùng với các chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, an ninh quốc
phòng. Đồng thời, Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật an sinh xã hội nhằm thể chế hóa
các chính sách xã hội ấy. Để thực thi có hiệu quả các văn bản pháp luật, Nhà nước thành
lập hệ thống các cơ quan chức năng về an sinh xã hội cũng như kiểm tra việc tổ chức,
thực hiện các chính sách, chế độ an sinh xã hội của các cơ quan này.
Là người chủ sở hữu lớn nhất, Nhà nước còn trực tiếp đóng góp hoặc hỗ trợ vào
nguồn thực hiện các chế độ an sinh xã hội. Ví dụ, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm quỹ bảo
hiểm xã hội để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bên cạnh sự đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động. Phần lớn quỹ dùng để ưu đãi cho người có công với
cách mạng và quỹ cứu trợ xã hội cũng chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp.


12

Tuy nhiên, nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý an sinh xã hội không có nghĩa

là hoàn toàn loại trừ sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức, đoàn thể
xã hội. Tùy theo vị trí, chức năng của từng tổ chức, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Công đoàn, Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội chữ
thập đỏ… mà pháp luật trao cho họ một số quyền và cả trách nhiệm tương ứng trong việc
tham gia tổ chức quản lí một số mặt hoạt động thuộc an sinh xã hội.

IV.3 Kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Nguyên tắc kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội xuất phát từ
quan niệm “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chính sách xã hội” của nhà
nước ta. Mục tiêu của chính sách xã hội là nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con
người và vì con người. Trong khi đó, nguồn lực của con người lại được xác định là “yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Đến lượt nó, phát
triển kinh tế lại đóng vai trò là cơ sở, là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội. Do vậy,
kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội, giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội là chủ trương có tính chiến lược của Nhà nước ta. Chúng ta
không chờ cho nền kinh tế phát triển cao rồi mới tiến hành giải quyết các vấn đề xã hội
mà chú trọng đến các vấn đề xã hội trong từng bước cũng như suốt quá trình phát triển
kinh tế. “ Kết hợp hài hòa”, cũng không đồng nghĩa với ảo tưởng là có thể giải quyết tất
cả các vấn đề xã hội ngay trong cùng một lúc, nhất là đối với một quốc gia đang ở giai
đoạn thấp của sự phát triển như nước ta hiện nay.
Có thể nói, không ngành luật nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam mà nguyên tắc
kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và xã hội lại thể hiện một cách rõ ràng và xuyên
suốt như trong luật an sinh xã hội.

IV.4 Kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” và “lấy số
đông bù số ít”
Nguyên tắc có “tính chất kép” này rất đặc trưng cho pháp luật an sinh xã hội. Nếu
nhìn riêng từng nguyên tắc nhỏ thì thấy chúng chứa đựng những nội dung khác nhau, tuy
nhiên chúng không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau.
Nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” trong luật an sinh xã hội chính là sự cụ thể

hóa nguyên tắc “công bằng xã hội” – nguyên tắc bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời


13

sống. Điều này là cần thiết, bởi vì đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì
hưởng thụ tương ứng với đóng góp, vẫn là một điều không thể tranh khỏi. Tuy nhiên,
nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” trong an sinh xã hội không hoàn toàn giống nhau
như áp dụng nguyên tắc “phân phối theo lao động” trong luật lao động. Nguyên tắc này
thường được áp dụng trong việc thực hiện trợ cấp bảo hiểm xã hội đối với người lao động,
cũng như ưu đãi người có công. Ở đây, mức trợ cấp cho các đối tượng căn cứ vào mức độ,
thời gian đóng góp của họ vào quỹ trợ cấp (đối với bảo hiểm xã hội) hoặc mức độ, thời
gian cống hiến, hy sinh của họ (đối với ưu đãi xã hội).
Nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” thể hiện tính nhân đạo xã hội. Nguyên tắc thường
chủ yếu áp dụng trong các chế độ bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội. Tinh thần cơ bản của
nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” là ở chỗ, bằng sự đóng góp, trợ giúp của nhiều người sẽ
hạn chế, giảm thiểu khó khăn, bất hạnh cho một thiểu số người. Ở đây, tính tương trợ,
tương ái thể hiện rất rõ. Những đối tượng gặp rủi ro không phải đóng góp gì và được giúp
đỡ căn cứ chủ yếu vào hoàn cảnh, mức độ khó khăn, hiểm nghèo của từng trường hợp.
Tuy nhiên, cũng không nên hiểu “sự kết hợp hài hòa” trong nguyên tắc này một
cách máy móc như nhau ở mọi nơi, mọi lúc. Tùy thuộc vào từng mặt của các mối quan hệ,
hoặc từng khâu của mỗi chế độ, thậm chí từng loại đối tượng của an sinh xã hội mà có sự
áp dụng linh hoạt và phù hợp. Có như vậy mới phát huy đúng tinh thần của nguyên tắc có
“tính chất kép” này.
Các trợ cấp an sinh xã hội có nhiều mức khác nhau. Tuy nhiên, về nguyên tắc, mức
trợ cấp không cao hơn mức thu nhập khi làm việc, nhưng mức thấp nhất cũng phải đảm
bảo những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu cho những người thụ hưởng.

IV.5 Đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội
Các nguyên nhân gây ra rủi ro rất nhiều nên nhu cầu an sinh của các thành viên

trong xã hội cũng rất đa dạng. Vì vậy, để đáp ứng được các nhu cầu ấy, các hoạt động an
sinh xã hội cũng phải được đa dạng hóa. Nghĩa là cần đảm bảo sao cho các chế độ an sinh
xã hội phải thực sự là “tấm lá chắn”, là “lưới an toàn” của xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu
ý rằng dù sao các chế độ trợ giúp, các mức trợ cấp cũng phải trên cơ sở nhu cầu thực tế và
không thể thoát ly được khả năng và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng
giai đoạn.


14

Việc tổ chức, thực hiện an sinh xã hội, như đã nói, trước hết thuộc chức năng, trách
nhiệm xã hội của Nhà nước, đặc biệt đối với một quốc gia chủ trương thực hiện “nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” như Việt Nam. Tuy nhiên, điều này không
hoàn toàn loại trừ việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội. Bởi vì, suy cho
cùng, các công việc xã hội, các vấn đề xã hội phải do toàn xã hội đảm nhiệm, gánh vác,
trong đó Nhà nước giữ vai trò ví như người “nhạc trưởng”. Điều này cũng phải phù hợp
với định nghi của ILO về an toàn xã hội: “An toàn xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với
các thanh viên của minh thông qua một loạt các biện pháp công cộng…”

V TỔ CHỨC THU, QUẢN LÝ VÀ THỰC HIỆN CHI TRẢ CÁC CHẾ
ĐỘ BHXH
BHXH các cấp tổ chức thu, quản lý và thực hiện chi trả kịp thời, đầy đủ đúng chế
độ, chính sách cho người tham gia BHXH bắt buộc và BHYT.
Tổ chức việc chi trả các chế độ bảo hiểm do cơ quan BHXH các cấp trực tiếp thực
hiện hoặc hợp đồng với các đơn vị sử dụng lao động, các cơ sở khám, chữa bệnh và đại
diện chi trả tại các xã, phường thị trấn.
Khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi gian lận, giả mạo
hồ sơ, tài liệu để hưởng chế độ BHXH, BHYT, BHXH các cấp kịp thời ngừng chi trả,
đồng thời thôi báo cho đối tượng, đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám, chữa bệnh hoặc
chính quyền nơi đối tượng cư trú để có biện pháp thu hồi ngay số tiền đã chi trả sai và xử

lý theo thẩm quyền, phối hợp và chuyển hồ sơ cho các cơ quan pháp luật để xử lý theo
quy định trong trường hợp cần thiết.



×