Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận tiền đông dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.68 MB, 29 trang )

Tài chính-Tiền tệ

TIỀN ĐÔNG DƯƠNG
I.

Lịch sử ra đời:
1.

Khái quát :

Tờ bạc 100 đồng Đông Dương(1954)
Tiền Đông Dương hay Đồng Đông Dương (tiếng Pháp: piastre) là đơn vị tiền tệ người Pháp cho phát hành và
lưu thông tại Đông Dương thuộc Pháp trong thời gian từ

năm

1885 đến năm 1954.
Tiền

Đông Dương được chia thành các đơn

vị piastre, cent/centime và sapèque.

Một piastre bằng

100 cent. Một cent lại bằng 2-6 sapèque tùy theo triều

đại.

Theo tỷ lệ đó thì một đồng bạc Đông Dương có giá trị


từ

đền 600 đồng tiền cổ truyền của người Việt. Mặt trước

của các

tờ tiền giấy hoặc tiền kim loại ghi bằng tiếng Pháp. Mặt

sau ghi

bằng chữ Hán, chữ Quốc ngữ, chữ Lào và chữ Khmer,

song

200

cũng có lúc chỉ ghi chữ Pháp.
Piastre phiên dịch sang chữ Hán thành 元 (nguyên); thông dụng gọi là đồng, hoặc đồng bạc hay thậm chí ngắn
gọn là bạc (khi tiền Đông Dương còn theo chế độ bản vị bạc cho đến tháng 5, 1930), hoặc đồng vàng (khi tiền
Đông Dương theo chế độ bản vị vàng từ tháng 5, 1930 về sau). Cent tức sou khi phiên âm sang chữ quốc ngữ
thành xu. Người Việt Nam còn có thói quen gọi các tiền mệnh giá hàng chục xu trở lên là cắc (gọi chệch từ
âm giác của chữ Hán 角). Về sau, người Pháp viết chính thức bằng chữ quốc ngữ là hào và bằng chữ Hán là 毛
(mao). Sapèque tục gọi là đồng kẽm hay đồng điếu là đơn vị có giá trị nhỏ nhất.
2.

Tiền kim loại:

Đồng bạc Đông Dương được phát hành để ổn định tình hình tiền tệ tại các xứ thuộc địa của Pháp. Ban đầu
đồng Đông Dương mang giá trị tương đương với đồng peso Mexico, thường gọi là đồng hoa xòe, đồng con
cò hay đồng con ó khi đó đang được lưu hành rộng rãi trong khu vực. Đồng con cò trị giá 600 đồng tiền kẽm

(tức đồng điếu), bằng giá với một quan tiền cổ truyền.
Đồng hoa xòe peso Mexico đúc năm 1838
Để có đơn vị nhỏ hơn để tiêu dùng, chỉ vài năm sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp giao cho Ngân hàng
Đông Dương nhiệm vụ đúc ra đồng centime, tức đồng 1 xu vào năm 1875, trị giá 5 đồng kẽm.
Tiền Đông Dương

1


Tài chính-Tiền tệ
Đồng centime hình trònnhưng đục thêm một lỗ bầu dục ở giữa
tương tự như loại tiền cũ của người Việt vì dân bản xứ quen lối
xỏ dây xách đi thành một xâu. Năm 1879 thì thay thế
đồng centime cũ bằng đồng cent mới, kích thước lớn hơn
nhưng giữ tỷ lệ giá trị 5 đồng kẽm. Dân Việt gọi đồng cent đó
là đồng xu lá bài hay đồng chiêm (gọi trại centime). Ngoài ra
còn có những đồng 10 centimes, 20 centimes (tục gọi là đồng
góc tư), 50 centimes (tục gọi là đồng ru-bi) và giá trị lớn nhất
là 1 piastre tức $1. Thay vì đục lỗ ở giữa, những đồng tiền này
xóa hẳn biểu tượng của cựu triều và thay thế bằng dòng
chữ République française và Cochinchine française. Mặt kia có hình biểu tượng nước Pháp: Marianne. Người
Việt quen dần gọi đồng bạc 1 piastre đầu tiên đó của Ngân hàng Đông Dương là bạc hoa xòe giống như đồng
peso Mexico cũ vì phía sau Marianne có vầng hào quang tia sáng tỏa ra như cánh hoa. Đồng piastre với trọng
lượng 27,125 gr này được lưu hành với mục đích dần loại bỏ tiền đồng con cò.
3.

Tiền giấy đầu tiên:

Về tiền giấy thì tờ giấy bạc Đông Dương được lưu hành đầu tiên ở Nam kỳ. Sắc lệnh của Tổng thống Pháp ra
ngày 5 tháng 7 năm 1881 đã quy định đồng bạc Đông Dương là đơn vị dùng trông việc giữ sổ sách cùng soạn

ngân sách, và kể từ niên khóa 1882, mọi việc thu chi đều phải dùng đơn vị này.
Sau khi Pháp tiếp tục gây hấn ở Đông Dương và triều đình Huế phải chấp nhận Hòa ước Quý Mùi ngày 25
tháng 8 năm 1883 thì một đồng bạc Đông Dương được quyền lưu hành tự do ở cả hai xứ Trung kỳ và Bắc kỳ.
Vì vậy vào cuối thế kỷ 19 ở Việt Nam, trên toàn quốc có ba loại tiền cùng lưu hành một lúc: tiền Việt Nam
(tiền, quan tiền - tiền đồng, tiền kẽm), peso México, và đồng bạc Đông Dương. Dần dà những thể tiền cũ bị
loại bỏ và riêng đồng Đông Dương chiếm vị thế duy nhất kể từ năm 1906 khi có lệnh hủy bỏ giá trị lưu hành
pháp lý của đồng peso México.
4.

Giá trị:

Đồng bạc Đông Dương giữ bản vị bạc nhưng vì giá bạc giao động nên năm 1895 đồng $1 được đúc lại với
trọng lượng giảm từ 27,215 gr xuống còn 27 gr chẵn.[8] Năm 1920 giá trị của đồng bạc Đông Dương dựa vào
đồngFranc Pháp. Bản vị bạc lại được phục hồi vào năm 1921 và giữ đến tháng 5 năm 1930 thì trở lại ràng buộc
vào đồng Franc Pháp theo tỷ giá 1 đồng Đông Dương = 10 franc. Từ tháng 5 năm 1930 đến năm 1939, nó
theo bản vị vàng. Trong thời kì Nhật chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, tỷ giá với đồng yen Nhật
Tiền Đông Dương

2


Tài chính-Tiền tệ
là 0,976 đồng = 1 yen. Sau chiến tranh, tỷ giá với đồng franc Pháp lại được khôi phục. Tuy nhiên, tháng 12
năm 1945, để tránh sự mất giá của đồng franc, tỷ giá hối đoái đã bị thay đổi thành 1 đồng = 17 franc.
Năm 1946, "tiền cụ Hồ" được phát hành và được sử dụng ở vùng do Việt Minh kiểm soát song song với đồng
bạc Đông Dương. Trong khi đó Viện Phát hành Việt, Miên, Lào (Institut d'Emission des Etats du Cambodge,
du Laos et du Viet-Nam) thành lập năm 1951 bắt đầu cho lưu hành loại tiền tệ mới trong thời kỳ chuyển tiếp
từ Liên bang Đông Dương sang ba nước riêng với đồng kip của Lào (1952), riel của Campuchia (1953),
và đồng Quốc gia Việt Nam (1953) lần lượt phát hành và sử dụng song song với đồng bạc cũ. Tiền giấy thì có
hai dạng: một kiểu chung cho cả ba nước Việt, Miên, Lào; kiểu kia là riêng cho mỗi nước. Tiền kim loại thì

ngay từ khởi đầu đã đúc riêng cho mỗi xứ. Tỷ giá 1 đồng = 10 franc được khôi phục vào năm 1953. Tờ tiền
giấy ghi 2 mệnh giá tiếp tục lưu hành cho đến năm 1955 tại Việt Nam Cộng hòa và Campuchia, và mãi đến
năm 1957 tại Lào.

II.

Cơ chế phát hành và lưu thông:

Việc phát hành và lưu thông được thực hiện thông qua ngân hàng Đông Dương.
1. Khái quát về Ngân hàng Đông Dương:
Ngân hàng Đông Dương tức Banque de l'Indochine (viết tắt BIC) là một ngân hàng và cơ sở tài chính thành
lập ngày 21 tháng 1 năm 1875 ở Paris để phát hành giấy bạc và tiền kim loại cho các xứ thuộc địacủa Pháp ở Á
Châu cùng điều hành quyền lợi kinh tế của Pháp ở Viễn Đông. Hai chi nhánh đầu tiên đặt Sài Gòn và Hải
Phòng. Cơ sở này tuy là một công ty tư nhân nhưng hoạt động như một ngân hàng trung ương với nhiều đặc
quyền tại Liên bang Đông Dương.
a. Sự thành lập:

Ngân hàng Đông Dương (Banque de I’Indochine, viết tắt là BIC) được thành lập theo sắc lệnh của tổng
thống Pháp ngày 21 tháng 1 năm 1875. Chính quyền Pháp có ý định xây dựng Ngân hàng Đông Dương thành
một ngân hàng phát hành, cho vay và chiết khấu có đặc quyền trong 20 năm, với một đặc quyền hơn hẳn các
ngân hàng thuộc địa khác: quyền phát hành đồng bạc Đông Dương.
Vào thời điểm đó Nam kỳ tuy đã trở thành thuộc địa của Pháp, vẫn sử dụng đồng tiền cổ truyền của người
Việt cùngđồng bạc Mexico lưu hành từ trước khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha mở cuộc xâm lược Đông
Dương. Ngân hàng Đông Dương ra đời với nhiệm vụ phát hành đồng bạc Đông Dương để thay thế các loại tiền
cũ cùng để người Pháp điều khiển kinh tế xứ thuộc địa mới này.
Tiền Đông Dương

3



Tài chính-Tiền tệ
b. Mở rộng hoạt động:

Trụ sở chính của ngân hàng đặt ở Paris và một chi nhánh ở Sài Gòn. Sau khi Pháp mở rộng cuộc xâm lược Việt
Namthì Ngân hàng Đông Dương mở thêm chi nhánh tại Trung kỳ và Bắc kỳ từ năm 1885. Hai năm sau khi
thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887, ngân hàng lại mở thêm chi nhánh trên toàn cõi Đông Dương và
các thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ nhằm tạo thuận lợi cho việc mua thuốc phiện vốn chủ yếu xuất phát từ Ấn Độ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ngân hàng Đông Dương đã trở thành một công cụ tài chính mạnh của Pháp
với khoảng 20 chi nhánh, trong đó có sáu ở Đông Dương và sáu ở Trung Quốc, số còn lại ở các thuộc địa Pháp
tại Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và châu Á.
c. Chấm dứt hoạt động:

Sau năm 1953, Ngân hàng Đông Dương ở Việt Nam bị giải thể. Nhiệm vụ phát hành giấy bạc được chuyển
cho Viện Phát hành Việt, Miên, Lào (Institut d'Emission des Etats du Cambodge, du Laos et du Viet-Nam)
kể từ năm 1951 rồi giao lại cho Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, tức ngân hàng trung ươngcủa Việt Nam Cộng
hòa vào năm 1955. Phần thương vụ thì chia cho Ngân hàng Việt Nam Thương tín (thành lập năm 1956) và hậu
thân của Ngân hàng Đông Dương là Ngân hàng Pháp Á.
Tuy vắng mặt ở Việt Nam sau năm 1953, Ngân hàng Đông Dương tái hoạt động vào năm 1958 ở những nơi
khác ở Á Châu. Năm 1975 thì nhập với Banque de Suez et de L'Union des Mines với tên mới: Banque
Indosuez và đến năm 2001 thì nhập vào Alliance Banking Group, hoạt động chính ở Malaysia.
2.

Cơ chế phát hành và lưu thông tiền Đông Dương:
a. Việc phát hành và lưu thông tiền Đông Dương:


Tiền kim loại:

Từ thế kỷ 17 (thời Trịnh – Nguyễn Phân tranh) các thương thuyền của Châu Âu đã đến Việt Nam. Việc buôn
bán diễn ra khá tấp nập và bắt đầu xuất hiện những đồng tiền ngoại thương đầu tiên tại Việt Nam để phục vụ

cho việc trao đổi. Một số nước lớn đã phát hiện ra nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và có dã tâm xâm
chiếm hòng vơ vét của cải. Pháp đã làm điều đó, năm 1859 Pháp chiếm Sài Gòn, ngân hàng Đông Dương ra
đời và người Pháp dần thay thế các đồng tiền thương mại bằng đồng xu Đông Dương tại Nam Kỳ
(Cochinchine), Trung Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin), Cao Miên và Ai Lao.

ĐỒNG TIỀN THUỘC ĐỊA XỨ NAM KỲ (COCHINCHINE)
Năm 1875, Pháp mang đồng 1 centieme từ “mẫu quốc” sang sở đúc tiền Ba Son để đục lỗ gọi là đồng sapèque,
với hy vọng thay thế đồng xu kẽm ở xứ ta. Nhưng vì hối suất không rõ ràng và không lợi nên không được dân
ta ưa dùng.
Tiền Đông Dương

4


Tài chính-Tiền tệ
Năm 1879, Pháp đúc một loại tiền mới tiêu dùng tại Nam Kỳ, trên mặt của đồng tiền có dòng chữ Cochinchine
Francaise, gồm có:
- Đồng 10 cents, 20 cents, 50 cents bằng bạc có hình tượng nữ thần tự do ngồi – biểu tượng cho nền cộng hòa
của Pháp.
- Đồng 1 centieme bằng đồng đỏ (Bronze) có hình chữ nhật ở giữa, bên trong hình chữ nhật có dòng chữ viết
bằng tiếng Hán: “Bách phân chi nhất”. Dân gian vẫn gọi là đồng “lá bài”.
- Đồng sapèque được đúc lại theo mẫu mới, kích thước to hơn đồng 1 centieme đục lỗ vuông, trên mặt tiền có
dòng chữ Hán “Đại Pháp quốc chi An Nam” . Đồng này có giá trị bằng 1/5cent
- Năm 1885, lần đầu tiên Pháp cho đúc đồng 1 piastre với độ bạc ròng 0.9000, trọng lượng 27.2156 Gram, với
kiểu mẫu tượng nữ thần tự do ngồi (1piastre = 100 cent).

ĐỒNG TIỀN BẢO HỘ XỨ BẮC KỲ (TONKIN)
Nhằm thay thế những đồng tiền kẽm, năm 1905 Pháp đúc một mẫu sapèque khác ở xứ bảo hộ Bắc Kỳ, trên một
mặt xu đúc dòng chữ PROTECTORAT DU TONKIN và mặt còn lại ghi chữ Hán LỤC BÁCH PHÂN NHẤT
CHI THÔNG BẢO. Đồng xu này có giá trị bằng 1/600 của 1 piastre. Tuy nhiên cũng như ở Nam Kỳ đồng xu

này cũng không được hưởng ứng.

TIỀN XU ĐÔNG DƯƠNG (INDOCHINE)
Cuối năm 1885, trên tất cả các đồng xu đều thay dòng chữ Cochinchine bằng Indochine để sử dụng trên toàn
Đông Dương (Tonkin, Annam, Cochinchine, Cao Miên, Ai Lao). Từ sau năm 1903, đồng sapèque không được
đúc nữa. Từ sau thế chiến thứ nhất, đồng tiền Đông Dương ngày càng mất giá, độ bạc và trọng lượng của các
đồng xu được giảm dần. Đồng bạc đầu tiên có độ bạc ròng là 0.9000 sau đó giảm xuống 0.8350 và 0.6800 (cá
biệt năm 1920, đồng 20 cents chỉ có độ bạc là 0.4000). Một số kiểu mẫu mới được đúc thay thế:
- Năm 1896, đồng 1 cent bằng đồng đỏ, hình biểu tượng Pháp với chữ “Bách phân chi nhất”, đục lỗ tròn.

Tiền Đông Dương

5


Tài chính-Tiền tệ

- Năm 1923 (đến 1938), đồng 5 cents bằng kền – đồng (Nikel – Ae), hình biểu tượng Phấp đội cành ô liu, đục
lỗ tròn.

- Năm 1931, đồng 1 piastre (độ bạc 0.9000) với biểu tượng Pháp đội cành ô liu, kiểu mẫu này chỉ được đúc vào
năm 1931.

Tiền Đông Dương

6


Tài chính-Tiền tệ


- Năm 1935 (đến 1940), đồng 1/2 cent bằng đồng đỏ

TIỀN XU ĐÔNG DƯƠNG THỜI NHẬT BẢN CHIẾM ĐÓNG
Chiến tranh thế giới thứ 2 xảy ra, Pháp bị phát xít Nhật chiếm đóng vào tháng 6 năm 1940. Việc này đã làm
xáo trộn mọi thứ tại Đông Dương, trong đó có kinh tế. Bị cô lập, gián đoạn giao thương với Pháp và chịu áp
lực mọi mặt từ phía Nhật, chính quyền Đông Dương buộc phải có nhiều sự điều chỉnh. Sự điều chỉnh đồng tiền
cũng là một sự đánh dấu cho thời kỳ mới. Những đồng tiền được đúc vào thời kỳ này gồm:
- Đồng 10 cents (1939 – 1940) và 20 cents (1939 – 1941) bằng đông – kền, hình biểu tượng Pháp cầm bông lúa
và mặt sau có hình bó lúa.

Tiền Đông Dương

7


Tài chính-Tiền tệ

- Đồng 1 cent (1943) và 5 cents (1943) bằng nhôm, có dập chữ ETAT FRANCAIS trên mặt xu.

- Đồng 1/4 cent (1942 – 1944) bằng kẽm có chữ ETAT FRANCAIS trên mặt xu

Tiền Đông Dương

8


Tài chính-Tiền tệ

TIỀN XU ĐÔNG DƯƠNG SAU THẾ CHIẾN THỨ II
Thế chiến thứ 2 chấm dứt với phần thắng thuộc về phe đồng minh, quân phát xít thua trận. Pháp theo chân

quân đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Cuộc kháng chiến chống Pháp của cách mạng Việt
Nam nổ ra. Cao trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc Việt Nam bùng nổ mạnh mẽ. Đương nhiên việc này
có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế mà chính phủ Pháp tại Đông Dương đang điều hành. Pháp buộc phải phát
hành một loại tiền mới vào năm 1945 với kim loại rẻ tiền hơn. Đồng Đông Dương càng mất giá.
- Đồng 5 cents (1946),10 cents (1945) và 20 cents ((1945) được đúc bằng nhôm, có hình bó lúa giống như năm
1939

- Đồng 50 cents (1946) và đồng 1 piastre (1946 – 1947) không còn được đúc bằng bạc nữa mà thay vào đó là
bằng đồng – kền, có hình bó lúa.

Tiền Đông Dương

9


Tài chính-Tiền tệ

ĐỒNG TIỀN XU LIÊN HIỆP PHÁP
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nền kinh tế Pháp càng “xuống dốc” mà tình hình Đông Dương thì vẫn căng như
dây đàn. Pháp buộc phải chọn giải Pháp cho Đông Dương là thỏa hiệp hơn là đối đầu trực tiếp. Liên tiếp một
số hiệp định được ra đời, theo đó Pháp công nhận nền độc lập thống nhất của Việt Nam, đổi lại Việt Nam phải
gia nhập khối Liên hiệp Pháp. Cũng vì việc này mà đồng tiền tiếp tục có sự thay đổi.
Năm 1953, Viện Phát hành (Institut d’Esmision des États du Cambodge, du Laos, et du Vietnam) tiến hành đúc
3 đồng xu mới bằng nhôm loại 10 su, 20 su và 50 xu. Trên một mặt xu in hình 3 cô gái đại diện cho 3 miền
Bắc, Trung, Nam của Việt Nam và có dòng chữ QUỐC GIA VIỆT NAM. Những đồng tiền này được dùng cho
đến khi Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ (1954) và vẫn còn được lưu hành đến năm 1960, vài năm sau khi nền
đệ nhất cộng hòa ở miền Nam Việt Nam được thành lập.

Tiền Đông Dương


10


Tài chính-Tiền tệ


Tiền giấy:

Theo nghị định ngày 21 Tháng Giêng, 1875 thì Ngân hàng Đông Dương cho lưu hành những tờ giấy bạc đầu
tiên với ba mệnh giá: $5, $20, và $100. Loại này mặt trước ghi bằng hai thứ tiếng Pháp và Anh. Mặt sau
ghi chữ Nho: Đông phương hối lý ngân hàng (東方滙理銀行).
Kỳ thứ nhì năm 1893-6 thêm tờ $1; kỳ thứ ba 1903-7 thì bỏ phần tiếng Anh nhưng ghi thêm xuất xứ: Cao
Miên (高綿),Lục Tỉnh (六省) cho khu vực miền nam và Đông Kinh (東京), An Nam (安南) cho khu vực miền
bắc vì lúc đó đã hình thành Liên bang Đông Dương. Tổng cộng có nhiều thay đổi ít nhiều về hình thức, màu
sắc. Tờ $20 được người Việt gọi là tờ "hoảnh", đọc trại âm "vingt" của Pháp.

GIẤY BẠC GIAI ĐOẠN I (TỪ 1875 ĐẾN 1923)
GIAI ĐOẠN I - KỲ I (PHÁT HÀNH NĂM 1876 - 1892)
Sau khi chiếm được Lục tỉnh Nam kỳ, Quốc hội Pháp ban hành đạo luật ngày 24.6.1874 quy định sự
phát triển các ngân hàng thuộc địa; và đến ngày 21.1.1875 thì có sắc lệnh thành lập Banque de l'
Indochine (Ngân hàng Đông Dương - NHĐD - chữ Hán đọc là Đông Dương Hối lý Ngân hàng) rồi dần
đúc đồng tiền Piastre de Commerce (PDC) theo hệ thống ngân bản vị với các đồng bạc lẻ 10 cent, 20
cent, 50 cent cùng các loại xu bằng đồng... Vào những năm 1880, các nước Âu - Mỹ ào đến giao lưu
thương mãi ở vùng Đông Á, mang theo những đồng bạc có giá trị quốc tế như đồng Mexicana, Trade
Dollar Mỹ, đồng Dollar Anh, đồng Yen và Trade Dollar của Nhật, các đồng 5
franc của các nước châu Âu... nhưng không được người Việt tín dụng. Do vậy, năm 1883, Bác sĩ
Harmand - được chính phủ Pháp cử làm Tổng ủy viên ký hòa ước Quý Mùi - đã cưỡng bức triều đình
Huế phải cho các đồng tiền Mexicana và tiền của NHĐD được lưu hành song song với tiền Việt trên
toàn cõi Việt Nam. Luồn theo đó, các đồng tiền ngoại nhập cũng mặc sức tung hoành trên thị
trường Đông Dương. Vì thế, NHĐD đã phát hành tiền giấy lần đầu bằng 3 thứ tiếng: mặt trước

ghi"Banque de l'Indo - Chine" (chú ý chữ Indo - Chine viết rời) cùng hai cột song song chữ Anh và chữ
Pháp:
* One dollar - Une piastre (mặt sau ghi chữ Hán: Nhất nguyên: tức 1 đồng bạc).
* Five dollars - Cinq piastres (Ngũ nguyên, tức 5 đồng bạc)
* Twenty dollars - Vingt piastres (Nhị thập nguyên, tức 20 đồng bạc).
* Hundred dollars - Cent piastres (Nhất bách nguyên, tức 100 đồng bạc).
Bộ bạc giấy này phát hành tại hai chi nhánh: Sài Gòn in màu xanh, Hải Phòng in cùng kiểu nhưng màu
đỏ, kèm theo 2 hàng chữ bằng 2 thứ tiếng "To be paid on demand to bearer - Payable en espèces au
porteur", mặt sau cũng có hàng chữ Hán với nội dung tương tự, hàm ý: giấy tiền được thanh toán bằng
số đồng tiền. Vì số tiền giấy được trả bằng bạc nên mỗi lần xuất kho một tờ thì đích thân Thủ quỹ Ngân
hàng phải ký bằng tay trên tờ giấy bạc! Như vậy số lượng tiền giấy phát hành rất ít ỏi, chủ yếu là sử
dụng đồng PDC nặng 27 gram bạc có ghi năm đúc trên đồng tiền.

Tiền Đông Dương

11


Tài chính-Tiền tệ
Chữ ký được ký trên 3 loại tiền này như sau:

20 Dollars/20 Piastres 02 avril 1886 date manuscrite SAIGON
Giai đoạn 1 - Kỳ 1 (1876 - 1892)
Mặt trước: Cô gái Pháp ngồi cạnh con bò và cô gái Lào ngồi cạnh con beo
Mặt sau: có chữ GIA ĐỊNH - TÂY CỐNG

100 Dollars/Cent Piatres 15 avril 1885 SAIGON
Giai đoạn 1 - Kỳ 1 (1876 - 1892)
Mặt trước: Hình 1 sĩ quan hải quân Bồ Đào Nha VASCO DE GAMA
Mặt sau: Có chữ GIA ĐỊNH - TÂY CỐNG


Tiền Đông Dương

12


Tài chính-Tiền tệ

GIAI ĐOẠN I - KỲ II (PHÁT HÀNH NĂM 1893 - 1896)
Năm 1893, theo sắc lệnh 21/01/1875 và 20/02/1888 tiếp tục cho phát hành 4 loại giấy bạc như kỳ I
nhưng mang vài đặc điểm khác:
* Địa điểm phát hành không in trên giấy bạc
* Nơi phát hành là Sài Gòn thay vì viết tay, được đóng bằng con dấu
* Chữ ký Un Aminisstrateur không có à Paris:DELESSERT không có chữ Edouard

Trong thời gian này Pháp có thêm chi nhánh Battambang, Pnompenh của xứ Cao Miên và thành phố Hội
An.Nhưng ngày nay người sưu tập mới chỉ tìm thấy 2 loại đóng dấu ở Sài Gòn (nếu Phát hành ở Nam
Kỳ) và ở Hải Phòng (Nếu phát hành ở miền Bắc và Trung kỳ)

GIAI ĐOẠN I - KỲ III (PHÁT HÀNH NĂM 1898 - 1903)
Đến năm 1898, dựa vào 2 sắc lệnh 1875 và 1888, 4 loại giấy bạc (1$, 5$, 20$ và 100$) được in thêm để
phát hành từ 1898 đến 1903 theo nhu cầu của Bộ thuộc Pháp lúc bấy giờ.Nhưng tờ 1$ màu xanh đổi
thành tờ 1$ màu đỏ và trên 3 tờ loại 5$, 20$ và 100$ có in địa danh nơi phát hành:
* Mặt trước: Để chữ SAIGON, le ... (là dùng cho miền Nam và Cao Miên)
Để chữ HAIPHONG, le ... (là dùng cho miền Bắc và Trung Kỳ)
* Mặt sau: Có hoa văn và chữ nho:
CAO MIÊN - LỤC TỈNH (Là dùng cho miền Nam và Cao Miên)
ĐÔNG KINH - AN NAM (Là dùng cho miền Bắc và Trung Kỳ)
* Và chữ ký cũng được thay đổi:
Tiền Đông Dương


13


Tài chính-Tiền tệ

GIAI ĐOẠN I - KỲ IV (PHÁT HÀNH NĂM 1903 - 1907)
Năm 1903, Đông Dương ngân hàng in thêm 4 loại giấy bạc cũ, dựa vào 3 sắc lệnh 21/01/1875,
20/02/1888, 15/05/1900 và sắc lệnh ngày 03/04/1901, bỏ hẳn tiếng Anh chỉ còn lại tiếng Pháp và tiếng
Tàu (chữ nho) trên tờ bạc.Các loại giấy bạc này được phát hành trong các năm sau:
* 1903 - 1907 phát hành loại 1$
* 1903 phát hành loại 100$
* 1905 phát hành loại 5$ và 20$
* 1907 phát hành loại 5$, 20$ và 100$
Ngày tháng phát hành được in luôn lên gấy bạc.Riêng tờ 1$nơi phát hành vẫn đóng dấu tay và chỉ có 2
chữ ký.Còn lại5$, 20$ và 100$ có 3 người ký, chữ ký giai đoạn này như sau:

Trong thời gian này miền Bắc đã bị Pháp đô hộ nên các tờ bạc cũng được in với màu sắc khác để dễ
phân biệt với màu chữ Tàu (chữ nho) phía mặt sau: ĐÔNG KINH AN NAM, với dụng ý là Pháp đã
chiếm xong nước ta.
Une Piastre - Un Piastre Chữ ký L'Admr Directeur
Giai đoạn 1 - Kỳ 4 (1903 - 1907)
Mặt trước: Hình ảnh Marianne, biểu tượng nước Pháp và 1 phụ nữ Việt ngồi bên dưới.
Mặt sau: Con rồng và chữ nho.

Tiền Đông Dương

14



Tài chính-Tiền tệ

CINQ PIASTRES - CINQ PIASTRES 8 JUIN 1905 SAIGON
Giai đoạn 1 - Kỳ 4 (1903 - 1907)
Mặt trước: Hình thần Neptune ngồi dựa con rồng và ngày, tháng, năm in luôn trên giấy bạc.

Mặt sau: có chữ Phụng bổn quốc đặc vụ: vâng lệnh nhà nước.
GIAI ĐOẠN I - KỲ V (PHÁT HÀNH NĂM 1909 - 1925)
Năm 1909, Đông Dương ngân hàng (theo 4 sắc lệnh cũ) cho phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng 3 loại
giấy bạc mới với giá trị là 5$, 20$ và 100$ trong 4 đợt:
* Đợt 1 phát hành năm 1909, với 3 loại 5$, 20$ và100$.Loại phát hành cho Sài Gòn có màu xanh dương
cònHải Phòng có màu xanh lá cây đậm và nâu.Chữ ký gồm 3 người ký:

Tiền Đông Dương

15


Tài chính-Tiền tệ

* Đợt 2 phát hành năm 1910 đến năm 1919, cũng 3 loại trên.Chữ ký như sau:

* Đợt 3 phát hành năm 1920 đến năm 1919, có 3 loại 5$,20$ và 100$.Nơi phát hành cùng ngày, tháng,
năm được in luôn trên giấy bạc.Màu sắc được phân định rõ: xanh đậm choSài Gòn, xanh lá đậm và nâu
cho Hải Phòng.Chữ ký đợt này có 2 loại.Một loại cho 5$, 100$ và 1 loại cho 20$.Loại5$ và 100$ có 2
chữ ký:

Chữ ký trên tờ 20$ có sự thay đổi chữ L'ADMINISTRATEUR - DIRECTEUR được đổi thành LE
DIRECTEUR
* Đợt 4 phát hành năm 1925, chỉ 1 loại 100$ riêng cho Hải Phòng,Hình dáng màu sắc như đợt 3.Loại

này phát hành rất ít và thời gian ngắn vì phải thu hồi để phát hành loại 100$mới (tờ Độc lư).Chữ ký cho
Tiền Đông Dương

16


Tài chính-Tiền tệ
đợt này:

Loại tiền mới này thời gian đó người ta gọi như sau:
* Giấy 5$ có chữ NGŨ NGUYÊN nên người ta gọi là "giấy ngẫu"
* Giấy 20$ có chữ Vingt nên người ta phiên âm là "giấy hoảnh"
* Giấy 100$ được gọi là Một trăm thành thái vì nó có hình ảnh bà đầm choàng vai 1 ông quan
Annammà người dân lầm tưởng là vua Thành thái nên mới gọi như vậy.Còn có người bảo tờ bạc được
phát hành vào giai đoạn khi vua Thành Thái còn tại vị nên gọi như thế, thì thật sai lầm.Vì năm 1907 vua
Thành Thái đã nhường ngôi cho con là thái tử Vĩnh San (vua Duy Tân) trong khi tờ bạc chỉ được phát
hành đầu tiên từ năm 1909 đến năm 1925 thì không thể gọi là 100$ Thành thái mà nên gọi là 100$ Duy
Tân mới đúng.Còn chân dung người đàn ông mặc áo gấm thì theo cuốn "Quê hương hoài niệm" của Bửu
Diên - Hoành Oanh, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1999, là chân dung cụ Ưng Tôn (Hiệu là Thúc Thuyên)
sinh năm 1877, đậu tú tài Hán học, con Hiệp Tá Đại Học Sĩ Hường Thiết và là cháu nội của Tuy Lý
Vương Miên Trinh lúc qua Pháp học về tài chính đã được ngân hàng Đông Dương chụp hình và cho
khắc in vào giấy bạc.
5 CINQ PIASTRES 4 JANVIER 1909 - SPECIMEN
Giai đoạn 1 - Kỳ 5 (1909 - 1925)
Mặt trước: Tượng rắn thần Naga ở Angkor và bến tàu Sài Gòn.

Mặt sau: có chữ CAO MIÊN - LỤC TỈNH (Dùng cho miền Nam và Cao Miên)
GIAI ĐOẠN I - KỲ VI (PHÁT HÀNH NĂM 1919 - 1920)
Tiền Đông Dương


17


Tài chính-Tiền tệ
Năm 1919, với sắc lệnh ngày 06/10/1919 phát hành cho toàn Đông Dương (Việt - Miên -Lào) 3 loại tiền
hào (Cents) gồm 10cents màu xanh, 20 cents màu nâu (có 2 loại: 1 có nhà in Chaix và loại không có tên
nhà in, 50 cents màu đỏ.Giai đoạn này 3 loại tiền trên được phát hành chia làm 2 đợt:
* Đợt 1 phát hành năm 1919 gồm 10 cents, 20 cents và 50 cents.
* Đợt này có chữ ký sau:

Đợt 2 phát hành năm 1920, gồm 10 cents, in đè lên mẫu cũ bằng dòng chữ: GIẤY BẠC MỘT CẮT (viết
sai chữ CẮT thay vì chữ CẮC).Đợt này có chữ ký như sau:

Năm 1921, sắc lệnh ngày 02/03/1921 thu hồi và huỷ bỏ 4 loại tiền này.

GIAI ĐOẠN II (PHÁT HÀNH NĂM 1923 - 1939)
Đến năm 1923, nhà ngân hàng cho phát hành 8 loại giấy bạc có 5 mệnh giá là: 1$ (có 2 loại), 5$ (có 2
loại), 20$ (có 2 loại), 100$ (1 loại) và 500$ (1 loại). Trong 4 đợt từ năm 1923 đến năm 1939, Loại giấy
bạc giai đoạn này khác loại trước với tên ngân hàng phát hành là: Banque de L'Indochine mà thời kỳ iếp
nối giữa 2 loại giấy bạc là tờ 1 đồng với tên ngân hàng Banque de L'Indochine: Mặt sau có 3 thứ tiếng là
Hán, Việt, Miên và dấu hiệu đồng bạc ($)
Các giấy bạc thuộc loại thứ 2 này: Mặt sau là lời răn đe của pháp luật (bằng tiếng Pháp) được ghi gọn
hơn.Giá trị tờ bạc cũng được viết rõ bằng 3 thứ tiếng Việt, Hán, Miên.Trên tờ bạc có hình ảnh của đất
nước Việt - Miên.
Đợt 1 (phát hành năm 1923 -1926)
Tiền Đông Dương

18



Tài chính-Tiền tệ
Từ năm 1923 đến 1926, phát hành 3 loại giá tiền 1$, 5$,100$ .Chữ ký gồm 2 chữ ký giống Giai đoạn 1 kỳ 6 - Đợt 2:

Loại giấy bạc giai đoạn này (5$, 20$, 100$) còn có tên gọi như giấy bạc "con công" (5$) vì trên tờ bạc
có hình con công.Loại 20$ có tên gọi là giấy "bích qui" vì ngày xưa loại này bỏ vừa hộp bánh bích qui
(biscuit), hiêu LU của Pháp.Loại 100$ thì gọi là "bộ lư" hoặc "giấy đỉnh" vì hình ảnh trên tờ tiền có hình
bộ lư đồng bên cửa Nam Phượng môn ở Cố đô Huế.Loại này giới sưu tập gọi nhầm là tờ "Ngũ đỉnh".Vì
(theo tài liệu của Phạm Thăng) năm 1946, quân Pháp trở lại Đông Dương muốn làm lũng đoạn nền tài
chính của nước nhà mới độc lập nên đã ra lệnh cho Đông Dương ngân hàng in gấp rút 1triệu tờ 100$ tại
Calcutta (một tỉnh của Ấn Độ thuộc Pháp) để tung vào Việt Nam.Chính phủ phát hiện kịp thời và ra lệnh
vô giá trị tờ bạc này, nếu tịch thu đựơc thì cho đóng dấu Ủy ban lên tờ bạc.Hình dáng và màu sắc của
loại này thì không có gì đổi khác, chỉ có kích thước thì lớn hơn tờ bạc cũ 1mm (loại cũ là 146mm).Như
vậy người sưu tầm phải có đủ 5 tờ mới gọi là đủ bộ.
1 PIASTRE (1921 - 1926) - Loại ANNULÉ
Giai đoạn 2 (1923 - 1939) Đợt 1 (1923 - 1926)
Mặt trước: In biểu tượng Maỉanne

Tiền Đông Dương

19


Tài chính-Tiền tệ
1 PIASTRE (1921 - 1926) - Loại giấy dày màu ngà
Giai đoạn 2 (1923 - 1939) Đợt 1 (1923 - 1926)
Mặt trước: In biểu tượng Maỉanne

500 Cinq cents piastres - LOẠI SPECIMEN
"500 QỦA ĐỊA CẦU - BĂNG TRẮNG"
Giai đoạn 2 (1923 - 1939) Đợt 4 (1936 - 1939)

Mặt trước: Hình ảnh nàng Marianne và cậu bé đội vòng hoa chiến thắng

Mặt Sau: giống mặt trước in ngược và có thêm 2 chú voi, nhưng màu sắc nhạt hơn

Tiền Đông Dương

20


Tài chính-Tiền tệ
TIỀN THỜI NHẬT BẢN (THỜI ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN -WORLD WAR 2)
GIẤY BẠC GIAI ĐOẠN 4 - KỲ 1 (PHÁT HÀNH TỪ 1943 ĐẾN 1945)
Tháng 7 năm 1941, một hiệp ước Pháp Nhật được ký kết mở cửa cho quân đội Nhật tràn vào Đông
Dương.Chính phủ Vichy do Thống chế Pétain (Pháp) lãnh đạo dưới quyền kiểm soát của Đức Quốc xã
ra lệnh cho toàn quyền của Đông Dương là ông Decoux đang bị dưới quyền kiển soát của Nhật, in và
phát hành loại tiền để chi phí cho chiến tranh.Các loại giấy bạc này được họa sĩ Việt Nam trình bày
(TRẦN TẤN LỘC, PHẠM NGỌC KHUÊ, G.BARÌERE Del) và in tại nhà in Viễn Đông. (IDÉO) Hà
Nội.Tiền do người Việt thiết kế nên cũng mang nhiều màu sắc Việt Nam hơn như: 1$ được in hình Vịnh
Hạ Long, Loại 5$ có hình miếu thờ ở làng quê Việt Nam, tờ 20$ có hình tượng Vua Cùi Cao Miên ngồi
giữa rừng (Vua Yacovarman 889 - 910), tờ 100$ có hình đền thờ Trung Liệt ở Vườn Bách Thảo Sài Gòn
và 500$ có hình tát nước bằng gàu sòng ở thôn quê Việt Nam.

1 Piastre (ND 1942 -1945) - Loại 6 số (màu vàng)
Kích thước: 126mm x 62mm
Họa sĩ thiết kế: Trần Tấn Lộc. In tại nhà in Viễn Đông
Mặt trước: Hình thuyền buồm tại Hòn Gai, mặt sau hình Đức Phật Lào

Mặt sau: hình Đức Phật Lào
1 Piastre (ND 1942 -1945) - Loại 7 số ( màu tím)
Kích thước: 126mm x 62mm

Họa sĩ thiết kế: Trần Tấn Lộc. In tại nhà in Viễn Đông
Mặt trước: Hình thuyền buồm tại Hòn Gai, mặt sau hình Đức Phật Lào

Tiền Đông Dương

21


Tài chính-Tiền tệ

Mặt sau: hình Đức Phật Lào

5 Piastres (ND 1942 -1945) - Loại màu xanh lá cây
Kích thước: 128mm x 73mm
Họa sĩ thiết kế: Phạm Ngọc Khuê. In tại nhà in Viễn Đông (IDÉO)
Màu sắc: Có 5 mẫu với 5 loại màu sắc: Xanh và đen, xanh và nâu, hồng và nâu, cam và đen, tím hồng và
đen
Mặt trước: Số 5 trong vòng hoa

Mặt sau: Miếu thờ ở Làng quê Việt Nam

TIỀN ĐÔNG DƯƠNG THỜI HẬU CHIẾN
GIAI ĐOẠN 5 - KỲ 1 (TỪ 1947 ĐẾN 1954)
Sau khi quân đội viễn chinh Pháp theo chân Đồng Minh đổ bộ trở lại tái chiếm Việt Nam, dần dần
chiếm đóng nhiều đô thị, Pháp ra lệnh cho Đông Dương ngân hàng in gấp tại Hoa kỳ và Anh Quốc
Tiền Đông Dương

22



Tài chính-Tiền tệ
nhiều loại giấy bạc mới để phục vụ chiến tranh với mưu đồ muốn bến Việt Nam trở lại thành thuộc địa
một lần nữa.Giai đoạn này Ngân hàng lại cho phát hành 10 loại tiền với 7 mệnh giá: ,1$ (2 loại), 5$,
10$, 20$, 50$,100$ (ba loại) và 500$.Từ tháng 10 năm 1947, Pháp tuyên bố hủy bỏ giấy 100$ in dưới
thời Nhật chiếm đóng Đông Dương.Rồi năm 1947 và 1948, 2 lần đồng Franc (tiền Pháp) xuống giá,
chính phủ Pháp tự ý quyết định cho đồng Đông Dưỡnguống theo để giữ nguyên tỷ lệ 1$ bạc bằng 17
Franc.
Trong 10 loại tiền này đa số là những mẫu đã phát hành năm 1932 chỉ có 4 tờ in thêm tại Anh Quốc và
Hoa kỳ như: 1$, 10$, 50$ và 100$.Các tờ bạc này được phát hành chia làm 3 đợt:
* Đợt 1 (1949 - 1951):
Phát hành 4 loại với 3 mệnh giá 1$, 50$ và 2 loại 100$.In tại Hoa Kỳ và Anh quốc (Lúc in 2 tờ 50$ và
100$ ngân để dòng chữ "Giấy năm chục" và 'Một trăm" nhưng sau đó ngân hàng cho in thêm chữ "Đồng
vàng" bằng chữ Việt, chữ Hán và chữ Miên - Lào.Vì vậy dòng chữ có sai lệch không thẳng hàng)
* Đợt 2 (1947 - 1954) thu hồi năm 1954
Phát hành 6 loại 1$, 5$ (giống giai đoạn 2 - đợt 3) 10$, 20$, 50$ và 100$ (giống giai đoạn 2 - đợt 4)
* 1 Đồng "Sông hương" - PROOF
Giai đoạn 5 - Kỳ 1 - Đợt 1 (1949 - 1951)
Màu sắc: màu xám đen in trên nền xanh lá nhạt
In tại Hoa Kỳ
Mặt trước: chèo ghe trên sông Hương

Mặt sau: Hoàng thành Angkor Thom (Cao Miên)
1 Đồng "Sông hương" - LOẠI LƯU HÀNH A,B,C,D,E,F
Giai đoạn 5 - Kỳ 1 - Đợt 1 (1949 - 1951)
Kích thước: 127mm x 64mm
Màu sắc: màu xám đen in trên nền xanh lá nhạt
In tại Hoa Kỳ
Mặt trước: chèo ghe trên sông Hương

Tiền Đông Dương


23


Tài chính-Tiền tệ

50 Đồng "Bánh đa" - SPECIMEN & PROOF
Giai đoạn 5 - Kỳ 1 - Đợt 1 (1949 - 1951)
Màu sắc: màu xanh lá đậm và nhạt.In tại Hoa Kỳ
Mặt trước: Người đàn bà Việt Nam nướng bánh tráng

Mặt sau: tượng vũ nữ Apsara (Cao Miên)
100 Đồng "Gánh muối" - PROOF
Giai đoạn 5 - Kỳ 1 - Đợt 1 (1949 - 1951)
Màu sắc: màu xanh da trời và xanh dương.In tại Hoa Kỳ
(Loại nàycó tờ in thêm chữ ĐỒNG VÀNG khi nhảy lên hoặc xuống không thẳng hàng)

Tiền Đông Dương

24


Tài chính-Tiền tệ
Mặt trước: Tượng đá rắn thần Naga và các vị thần (Campuchia)

Mặt sau: Đoàn nông dân gánh gạo

GIẤY BẠC GIAI ĐOẠN 4 - KỲ 2
(IN NĂM 1944 PHÁT HÀNH TỪ 1950 ĐẾN 1951)
Năm 1944, Nhật Bản cần tiền để đổ vào cuộc chiến trẫnâm lược Đông Nam Á của mình nên cho in thêm

2 loại tiền: 1$ và 5$
Vì in tại Nhật nên chính phủ Pháp tại Đông Dương và Ngân hàng Đông Dươnge ngại có sự lạm
dụng.Khi in xong, lúc chở sang Đông Dương, tàu Nhật bị phi cơ Đồng Minh đánh chìm.Loại 1$ còn
nguyên nhưng loại 5$ thì bị tiêu hủy gần hết.Đông Dương ngân hàng tồn trữ số lượng còn lại, mãi đến
năm 1950 - 1951, mới mang ra phát hành.Loại 1$ thì nhiều nhưng loại 5$ được đóng thêm chữ ký thủ
quỹ của chi cuộc phát hành thì rất ít thấy.
5 Piastres in tại Nhật năm 1944 - P 75 (remainder notes)
Mặt trước: Quang cảnh cấy lúa ở miền Bắc Việt Nam

Tiền Đông Dương

25


×