Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quan điểm của Đảng về Công nghiệp hóa Hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.04 KB, 15 trang )

Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Đề bài: Phân tích quan điểm của Đảng về vấn đề công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Nêu nhận thức của bản thân về vấn đề này.

MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................ .. 2
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN ĐIỂM................................................................................3
1. Cơ sở lý luận................................................................................................................................ 3
2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................................................ 4
II. VÌ SAO CÔNG NGHIỆP HÓA PHẢI GẮN VỚI HIỆN ĐẠI HÓA, CÔNG
NGHIỆP HÓA PHẢI GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC, BẢO VỆ
TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG?............................................................................................... 5

1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.............................................................................5
2. Công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.................................................6
3. Công nghiệp hóa gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.........................................7
III. NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN..........................................................................................10
1. Áp dụng trong lý thuyết và thực tiễn.............................................................................10
2. Trách nhiệm của bản thân.................................................................................................. 14
KẾT LUẬN........................................................................................................................................... 15
1


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử công nghiệp hóa thế giới cho đến nay đã trải qua hơn 200 năm, kể từ khi
cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỉ XVIII ở nước Anh. Cuộc cách mạng công
nghiệp này sau đó đã lan rộng ra các nước Tây Âu và các nước khác như một trào lưu
phát triển của thế giới. Khi đó, theo cách hiểu đơn giản, công nghiệp hóa đơn thuần chỉ là


thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, nhằm biến một nước nông
nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên tùy thuộc vào đặc điểm
kinh tế, chính trị, xã hội mà quá trình phát triển công nghiệp hóa ở mỗi quốc gia có sự
khác biệt. Ở Việt Nam, đường lối công nghiệp hóa có thể chia ra làm 2 giai đoạn : trước
và sau đổi mới (Đại hội Đảng VI-1986). Công nghiệp hóa trước thời kỳ đổi mới theo mô
hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng, còn nóng
vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả
kinh tế xã hội. Nhưng sau thời kỳ đội mới, tại Đại hội X, XI Đảng ta đã khẳng định:
“Công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa phải gắn với phát
triển tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”. Sau đây chúng ta sẽ phân tích rõ hơn về
quan điểm này.

2


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN ĐIỂM
1. Cơ sở lý luận
a. Theo quan điểm chủ nghĩa Mac-Lenin
Công nghiệp hoá đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp và Mác
đã dự đoán công nghiệp hoá sẽ làm chuyển dịch lao động trong nông nghiệp sang các
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Theo Các Mác:
“Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác động của công nghiệp hoá có tính chất cách
mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo nghĩa là công nghiệp lớn làm cho không còn
nông dân nữa, tức là còn cái thành trì của xã hội cũ nữa, và thay thế nông dân bằng
người làm thuê. Do đó mà ở nông thôn, những nhu cầu cải biến xã hội và cuộc đấu tranh
giai cấp, được nâng lên ngang với trình độ ở thành thị” và “chỉ có nền công nghiệp lớn
sử dụng máy móc, mới tạo cho nền kinh doanh nông nghiệp tư bản chủ nghĩa” .
V.I.Lênin nhấn mạnh rằng:
Công nghiệp là chìa khoá để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu và phân tán trên cơ sở

tập thể hoá… Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho nông nghiệp đến mức tối đa những
công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc tiến và đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ
sở kỹ thuật mới” và việc cải tạo một nền nông nghiệp bị chia nhỏ, phân tán là một việc
làm hết sức khó khăn cần phải đi dần từng bước nhưng liên tục và kiên quyết bền bỉ, làm
cho nông nghiệp chuyển qua một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở của nền đại sản xuất, đưa
nông nghiệp lên ngang tầm trình độ công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nếu làm được việc đó
thì thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội mới được đảm bảo.Nhờ sản xuất bằng máy
móc, việc khai thác tài nguyên, nguyên liệu, vận tải… được cơ khí hoá, làm cho của cải
được sản xuất ra với khối lượng lớn và thuận lợi trong lưu thông, tạo ra thị trường rộng
mở trên thế giới, điều đó tất yếu dẫn đến quốc tế hoá đời sống kinh tế và là xu hướng
toàn cầu hoá.
b. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta rất quan tâm đến vấn đề công nghiệp hoá nông
nghiệp, Người cho rằng, đối với một đất nước đi lên từ nông nghiệp là chủ yếu thì trước
hết phải phát triển nông nghiệp, phải công nghiệp hoá nông nghiệp. Bác nhấn mạnh: Phải
cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà.
Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh. Nông
nghiệp phát triển tốt thì công nghiệp sẽ phát triển nhanh. Bác đã ví bằng một câu rất dễ
hiểu như: "công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… công nghiệp phát
triển thì nông nghiệp mới phát triển...” Người nhận định: muốn cơ giới hoá nông nghiệp
cũng còn phải mất 15, 20 năm chứ không làm ngay một lúc được. Cho nên phải cải tiến
nông cụ hiện có, phải làm những loại máy mới giản đơn, thợ mộc cũng dùng được, nông
dân cũng làm được. Khoa học kỹ thuật phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản
3


xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện
đời sống nhân dân. Tư tưởng này đã được thực tiễn chứng minh trong những năm trước
đổi mới và đã chứng tỏ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp khi đã được điều
chỉnh cho phù hợp thì nền kinh tế sẽ phát triển, nước ta từ chỗ luôn phải nhập khẩu gạo,

nay sản xuất gạo ở nước ta không những đủ gạo ăn mà nước ta đã xuất khẩu gạo đứng
vào hàng thứ 2 trên thế giới.
2. Cơ sở thực tiễn
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi đó
công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng
máy móc. Nhưng trong thời đại hiện nay, Đại hội X của Đảng nhận định “ Khoa học và
công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn”. Kinh tế tri thức có vai trò
ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại tác động sâu tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh
đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành
công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết
hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã
phát triển. Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền thông,
intermet, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động, tức là phát triển một số bộ
phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa, ở trình độ cao, nhiều lĩnh
vực của công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ. Chúng ta có thể và cần thiết
không trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp
rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng
vội, duy ý chí. Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của
Đảng đã chỉ rõ: “ Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố
quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử
dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loạị”.
Quá trình công nghiệp hóa hơn hai thế kỷ qua đã làm tăng của cải trên Trái đất gấp
mấy trăm lần, đưa lại sự giàu có, phồn vinh cho nhiều quốc gia, nhưng đó là cách sản
xuất, khai thác ào ạt và tiêu thụ ào ạt, do chạy theo lợi nhuận, vì những lợi ích trước mắt,

đã lạm dụng thái quá nguồn tài nguyên thiên nhiên, bất chấp môi trường sống của con
người và những điều kiện cho sự phát triển trong tương lai. Đó còn là do sự hạn chế về
4


khả năng công nghệ. Rõ ràng, ngày nay các nước đi sau không thể lặp lại con đường công
nghiệp đó được mà phải đi theo hướng công nghiệp hóa sinh thái, công nghiệp hóa nhân
văn, tuân thủ nguyên tắc phát triển bền vững.
Thế giới ngày nay đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, lực lượng sản xuất từ dựa
nhiều vào vật chất đang chuyển sang dựa nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con
người. Nhờ sử dụng các tri thức mới, các quá trình sản xuất mới dựa vào công nghệ cao
và công nghệ thông tin, cho nên của cải tạo ra nhiều hơn mà tiêu hao tài nguyên và năng
lượng ít đi, tổng trọng lượng của sản phẩm tăng không đáng kể. Do vậy, phát triển kinh tế
tri thức là nhằm mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Chỉ có phát triển kinh tế tri thức
mới giải quyết được mâu thuẫn giữa công nghiệp hóa và suy thoái môi trường, bảo đảm
phát triển nhanh và bền vững.
II. VÌ SAO CÔNG NGHIỆP HÓA PHẢI GẮN VỚI HIỆN ĐẠI HÓA, CÔNG
NGHIỆP HÓA PHẢI GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC, BẢO VỆ
TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG?
1. Công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa.
Sau những sai lầm trong nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa thời kỳ 1960 –
1985, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã đưa ra những nhận thức, quan điểm mới
trong chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khác với thời
kỳ trước khi nhận thức về công nghiệp hóa, chúng ta đã có một nhận thức mới trong khái
niệm: công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa. “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao độn, cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao”.

Đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, chỉ
sử dụng những công cụ thô sơ, không có sự áp dụng thành tựu tiên tiến vào sản xuất, dân
trí thấp. Hằng năm lũ lụt hán hán xảy ra tàn phá của cải vật chất. Không chỉ vậy, những
năm tháng chiến tranh lại càng gây nên những tổn thất, phá hoại nặng nề, kìm hãm sự
phát triển của đất nước. Lúc bấy giờ, sự quản lý nhà nước còn rất yếu kém, cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp đã làm triệt tiêu động lực sản xuất, dẫn đến nền kinh tế bị
tụt hậu so với thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa.
Bên cạnh đó, nước ta từ một nền kinh tế lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, do đó tại Đại hội III Đảng đã khẳng
định: Muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác,
ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
5


Còn bối cảnh thế giới lúc bấy giờ : khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, các
thành tựu khoa học tiến tiến ra đời, quá trình toàn cầu hóa diễn ra vô cùng mạnh mẽ.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành CNH, trong khi Việt Nam
chúng ta đến tận thế kỷ XX mới bắt đầu công cuộc CNH. Bởi vậy vì Việt Nam CNH
muộn muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước phát triển thì CNH phải gắn
liền với HĐH.
Nếu nước ta không kịp thời tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sẽ bị bỏ lại
phía sau. Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của nươc phát triển sau, tiếp thu được
công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát minh.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Tại Đại hội X Đảng đã chỉ rõ “đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ,coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và được nhấn mạnh lần nữa tạo Đại hội XI. Nước ta phát
triển công nghiệp hóa,hiện đại hóa trong bối cảnh nền kinh tế tri thức trên thế giới đã
phát triển.Chúng ta có thể không cần thiết trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế
nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức.Đó là lợi thế của

những nước đi sau trong việc thực hiện công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian.
Việc chúng ta thực hiện công nghiệp hóa gắn với kinh tế tri thức có chịu sự tác động
của bối cảnh toàn cầu, nhu cầu bức thiết của đất nước và bản thân tính chất của kinh tế tri
thức. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế ( OECD): Kinh tế tri thức là nền kinh tế
trong đó sự sản sinh ra,phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế tạo ra của cải,nâng cao chất lượng cuộc sống. Đó là những ngành kinh
tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những
ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa
học công nghệ cao. Tri thức khoa học là một trong những vấn đề được nhân loại quan
tâm nhất trong thời đại ngày nay. Bởi lẽ, nếu không có khoa học công nghệ thì đã không
thể có sự phát triển của xã hội loài người, lịch sử xã hội là quá trình con người không
ngừng nhận thức và cải tạo thế giới bằng khoa học công nghệ: khoa học công nghệ gắn
bó chặt chẽ với sản xuất, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đối
với Việt Nam, tri thức khoa học công nghệ đang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng và
quyết định đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa là nền tảng vừa
là động lực.
Mặt khác đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa,kinh tế quốc tế sâu rộng,số nước bắt đầu
chuyển sang nền kinh tế tri thức yêu cầu nước ta phải bắt kịp xu thế đó.Bên cạnh đó nước
ta đang ở thời kì phát triển mới thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Bởi vì,
6


chỉ có bằng con đường đó nước ta mới thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu mới có thể hòa mình
vào dòng thác phát triển chung của nhân loại. Ngày nay tri thức đã thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp,ở một số nước công nghiệp phát triển tri thức đã trực tiếp gia
nhập quá trình sản xuất và dịch vụ xã hội.Bằng cách này lực lượng sản xuất không ngừng
bổ sung đổi mới theo xu hướng tăng tính hiện đại tiên tiến; các trang thiết bị công nghệ
chưa hiện đại (năng suất thấp, ô nhiễm,tiêu hao nhiên liệu,...) được thay thế bằng trang
thiết bị quy trình công nghệ cao,sạch.Như vậy kinh tế tri thức thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại,tạo nền tảng cho công nghiệp hóa,hiện đại hóa

nền sản xuất xã hội. Tóm lại nền kinh tế tri thức được gắn với công nghiệp hóa-hiện đại
hóa đất nước liên quan chặt chẽ và tác động trực tiếp,mạnh mẽ lên cả lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất; có vai trò to lớn trong việc biến đổi yếu tố con người trong lực
lượng sản xuất theo chiều hướng hiện đại, hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lí sản xuất,
kinh doanh nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tri thức khoa học
góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của xã hội.
Và thực tế đã chứng minh, đường lối của Đảng ta đưa ra vô cùng chính xác. Qúa
trình đổi mới diễn ra, sau hơn 25 năm, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về
công nghệ hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức:
+ Cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc
lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế lạc hậu, cơ sở vật chất yếu
kém đi lên, đến nay đã có rất nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu
hoạt động có hiệu quả; tỷ lệ ngành công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản
phẩm ngày càng tăng. Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất như luyện kim cơ khí,
vật liệu xây dựng, hóa chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát
triển mạnh mẽ. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và
ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, năng lực xây dựng tăng nhanh và có
bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng
được xây dựng: sân bay, cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính viễn thông,
… theo hướng hiện đại.
+ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được
những kết quả nhất định: tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm
ngư ngiệp. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,12%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%; khu vực dịch vụ chiếm 43,38% (cơ cấu tương ứng
của năm 2013 là: 18,38%; 38,31% và 43,31%). Trong từng ngành kinh tế đều có sự
chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả,
gắn với sản xuất, với thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của
từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào
sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.

7


Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Từ năm 2000 đến 2010, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng
tăng từ 13,1% đến 22,4%; dịch vụ tăng từ 19,7% đến 29,4%; nông, lâm nghiệp và thủy
sản giảm từ 65.1% xuống còn 48,2%; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 20% đến 40%.
+ Những thành tựu của CNH, HĐH đã góp phần qua trọng đưa nền kinh tế đạt tốc
độ tăng trưởng khá cao, bình quân 10 năm 2001-2010 là 7,26%/năm. Mức lạm phát được
kiểm soát ở mức độ thấp: lạm phát năm 2014 duy trì ở mức 1,84% - mức thấp nhất trong
vòng hơn 10 năm trở lại (nếu tính bình quân 12 tháng là 4,09% và lạm phát cơ bản ở mức
3%).
Thu nhập bình quân đầu người hằng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt 640
USD/người, năm 2014 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 2.028 USD. Đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ tài nguyên môi trường
a. Thực trạng

Đất nước ta đang trong quá trình phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
CNH, HĐH "đi tắt đón đầu" để đuổi kịp các nước trong khu vực và quốc tế càng đòi hỏi
đẩy nhanh hơn nữa.Bên cạnh hiệu quả kinh tế chúng ta cũng cần chú ý đến hiệu quả xã
hội.Chính vì vậy, không thể không quan tâm đến bảo vệ môi trường tự nhiên.Môi trường
tự nhiên càng được bảo vệ bao nhiêu sẽ tạo điều kiện phát triển kinh tế một cách có hiệu
quả hơn. Chúng ta chỉ có thể tồn tại và phát triển trên một nền tảng kinh tế được kết hợp
hài hòa với môi trường sinh thái cân bằng và bền vững. Tuy nhiên vấn đề môi trường thật
sự còn là một vấn đề nhức nhối đối với chúng ta.
Theo đánh giá mới đây của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, với 59 điểm trong
bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường, Việt Nam đứng ở vị trí 85/163 các

nước được xếp hạng. Còn theo kết quả nghiên cứu khác vừa qua tại Diễn đàn Kinh tế thế
giới Davos, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh
hưởng nhiều nhất đến sức khỏe. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm
trong không khí khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và
bụi PM10 (tức bụi có kích thước bé hơn 10μ) tăng 1,07 lần.
Rừng tiếp tục bị thu hẹp: Trước năm 1945, nước ta có 14 triệu ha rừng, chiếm hơn
42% diện tích tự nhiên của cả nước, năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm
29%), đến nay chỉ còn khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Độ che phủ của rừng
nước ta đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng bị hạ
xuống mức quá thấp.Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên sinh. Số liệu của
Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy đến hết năm
2012 có hơn 20.000 ha rừng tự nhiên bị phá để sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều nhất là
8


để làm thủy điện, nhưng chỉ mới trồng bù được hơn 700 ha. Điều này dẫn đến đa dạng
sinh học bị suy giảm nghiêm trọng.
Ô nhiễm sông ngòi: việc rác bừa bãi các loại rác thải sinh hoạt và rác thải công
nghiệp chưa qua xử lí ra sông ngòi đã làm cho các con sông bị ô nhiễm nghiêm trọng
điển hình như sông Thị Vải (Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu), sông Tô Lịch ( Hà Nội), sông
Cầu ( Bắc Ninh), sông Đồng Nai ( Đồng Nai), hệ thống sông Tiền sông Hậu ( đồng bằng
sông Cửu Long).
Khai thác khoáng sản quá mức: việc khai thác khoáng sản quá mức làm cho nguồn
tài nguyên khoáng sản của nước ta bị suy giảm nghiêm trọng, làm ô nhiễm môi trường
không khí đất và nước ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân.
b. Biện pháp
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã
khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật

bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm
cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu
tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế
xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch,
tiêu dùng sạch”.Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập
trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI.
Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua
chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng
kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và
hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo
vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
Để giải quyết vấn đề môi trường một cách có hiệu quả, trước hết chúng ta phải làm
tốt công tác tuyên truyền đến với mỗi người dân, từng gia đình, cơ quan, xí nghiệp, cần
có ý thức và nghĩa vụ bảo vệ môi trường vì cuộc sống của chúng ta, và tương lai con
cháu sau này. Vì vậy, trong công tác quy hoạch đô thị, các khu công nghiệp, cụm điểm
công nghiệp cần chú ý đến việc xử lý nước thải, khí thải trước khi đổ nước ra sông và
thải khí lên trời. Trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp trong khu, cụm điểm công nghiệp, ở
thành phố, hay nông thôn phải tự xử lý hoặc đóng góp tài chính để xây dựng những khu
9


xử lý chung. Việc xử lý môi trường ô nhiễm do chính những doanh nghiệp gây ra phải trở
thành quy chế bắt buộc-thành luật. Ở những vùng nông thôn có nguy cơ ô nhiễm nặng do
sản xuất ngày càng phát triển, cần có quy hoạch đưa những cơ sở sản xuất, chế biến nông
sản thực phẩm, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp ra khỏi khu dân cư, để việc xử lý nước
thải bị ô nhiễm, khí thải và các chất thải khác được dễ dàng hơn. Nhằm bảo đảm cuộc
sống bình yên, môi trường trong sạch, các cơ quan quản lý môi trường cần nghiên cứu đề

xuất những chế tài từ xử phạt hành chính đến phạt kinh tế, thậm chí truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với cá nhân, doanh nghiệp… gây ô nhiễm môi trường tùy theo mức độ vi
phạm, để mọi người, mọi doanh nghiệp có ý thức tự giác chấp hành, từng bước lập lại trật
tự kỷ cương trong lĩnh vực gìn giữ môi trường tự nhiên xanh, sạch, đẹp.Đa dạng hoá các
nguồn đầu tư cho môi trường. Riêng ngân sách nhà nước cần có mục chi riêng cho hoạt
động sự nghiệp môi trường và tăng chi để bảo đảm đến năm 2006 đạt mức chi không
dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng dần tỷ lệ này theo tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế. Phát triển các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng về môi trường nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư bảo vệ môi trường.Khuyến khích các tổ
chức và cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường, huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho bảo vệ môi trường; tăng tỷ lệ đầu tư cho bảo vệ môi
trường trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).Nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao các giải pháp công nghệ trong xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái và sự cố
môi trường; sử dụng hiệu quả tài nguyên, năng lượng; ứng dụng và phát triển công nghệ
sạch, thân thiện với môi trường. Hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi
trường.Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về môi trường. Mở rộng và nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công tác bảo vệ môi trường tại các trường
đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu.
III. NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN
1. Áp dụng trong lý thuyết và thực tiễn
Trước tiên chúng ta khẳng định được rằng quan điểm này là hoàn toàn đúng đắn, đã
được đề cập đến trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Quan điểm thể hiện
tầm nhìn chiến lược và nhạy bén của Đảng ta. Cho đến nay, quan điểm này vẫn được duy
trì, vận dụng và được coi như kim chỉ nam cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Áp dụng quan điểm trên vào lí luận (xây dựng, phát triển hệ thống đường lối - chiến
lược quản lí) và thực tiễn (phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - kĩ thuật, bảo vệ tài
nguyên - môi trường,….) đã mang đến những kết quả tích cực, giải quyết được những
vấn đề mang tính cấp thiết cũng như dài hạn, có thể kể đến như:

10


- Hình thành một hướng đi đúng đắn, tạo dựng phương thức xây dựng đất nước
trong thời kì khoa học - kĩ thuật và yếu tố con người được đề cao như ngày nay.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ nửa cuối thế kỉ XX đã hội tụ lại, tạo nên một
hệ thống công nghệ mới của thế kỉ XXI - công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ thống
công nghệ này tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến tư duy, cách nhìn nhận của con người về
quá trình sản xuất, phương thức sản xuất, phương thức kinh doanh cũng như mọi lính lực
của cuộc sống nói chung. Kinh tế tri thức có chỗ đứng vững chắc trong tiến trình phát
triển của nhân loại. Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lí nói riêng và con người nói chung là
phải biết tận dụng tối đa và đầu tư phát triển nền kinh tế tri thức, công nghiệp hóa gắn với
việc phát triển nền kinh tế tri thức là một bước đi đúng đắn nhằm không chỉ tận dụng
nguồn lực tri thức hiện tại mà còn phát triển nó để sử dụng trong tương lai, tiến tới quá
trình toàn cầu hóa để hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu.
Có thể thấy đây là một xu thế phát triển tất yếu khách quan, lôi cuốn được rất nhiều
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong thời buổi nước ta vừa hội nhập với
kinh tế thế giới, đây có thể coi là một hướng đi vừa phục vụ quá trình phát triển trong
nước, vừa bắt kịp với sự phát triển của thế giới bên ngoài. Nước ta và nhiều quốc gia
khác cùng có chung một định hướng phát triển, cùng hướng tới một mực tiêu là: “công
nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên môi trường” sẽ tạo nên một sự nhất quan, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
hợp tác, liên kết để cùng nhau thu được lợi ích.
- Tạo dựng được một hệ tư tưởng mới với những nhận thức tiến bộ và theo kịp thời
đại của các nhà quản lí và toàn xã hội nói chung.
Bước ra khỏi chiến tranh với những tổn thất lớn lao, tuy giành được độc lập nhưng
nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khan như: nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, sản xuất
nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhưng sử dụng lao động thủ công là chính, công nghiệp
bị tàn phá nặng nề,…. Sau cải cách nằm 1986, kinh tế - xã hội đã có nhiều biến chuyển
tích cực, tuy nhiên tàn dư của phương thức sản xuất cũ vẫn còn tồn tại, cùng với những

quan niệm lạc hậu vẫn còn xuất hiện trong xã hội.
Quan niệm mới của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến quan điểm của người dân nói
chung và các nhà quản lí, lãnh đạo nói riêng lấy đó làm lí luận để đưa ra các quyết định
trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội và sử dụng các nguồn lực. Khẩu hiệu công
nghiệp hóa - hiện đại hóa trở thành mục tiêu dài hạn của hầu hết các doanh nghiệp, hơn
nữa các nhà quản lí còn nhận thức được rằng hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa là không thể tách rời nhau mới có thể đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó tầm quan
trọng của kinh tế tri thức ngày càng được đề cao và đầu tư nguồn lực nhằm mục tiêu phát
triển nhằm mục tiêu khơi dậy năng lực sáng tạo, sử dụng hiệu quả và biến năng lực tri
11


thức thành giá trị về mặt kinh tế. Nhận thức được điều đó, trước tiên các nhà quản lí quan
tâm đến việc phát triển nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực tri thức trong con
người - động cơ thúc đẩy kinh tế tri thức đi lên; sau đó, ở trong hoạt động sản xuất - kinh
doanh của mình, các nhà quản lí từ chỗ tự mình đứng ra chỉ huy toàn bộ chu trình của
một hệ thống thì giờ đây chỉ cần tìm kiếm nguồn lực con người, sau đó tạo định hướng
công việc, môi trường làm việc, để mục tiêu, kết hợp với việc quan tâm, chăm sóc,….để
nguồn lực con người phát huy tối đa khả năng đem lại kết quả cao. Phong các làm việc
trên giải thích vì sao trong thời buổi hiện nay, các CIO (người quản lí thông tin) và CKO
(người quản lí tri thức) là một phần quan trọng trong hoạt động của các tổ chức, doanh
nghiệp.
- Hiện đại hóa máy móc, trang thiết bị, dây truyền sản xuất công nghiệp; các hoạt
động nghiên cứu khoa học - công nghệ được đầu tư không ngừng.
Nước ta trước đây được xem là một: “bãi rác công nghệ của thế giới” với việc nhập
khẩu không kiểm soát các máy móc đã qua sử dụng ở các quốc gia trên thế giới. Nhờ
những quy định chi tiết của Nhà nước về vấn đề này, việc nhập khẩu máy móc đã qua sử
dụng được giảm bớt, nhưng đó không phải là giải pháp lâu dài và triệt để.
Vấn đề trước mắt là đầu tư máy móc, trang thiết bị, dây chuyền sản xuất, công nghệ
sản xuất nhập khẩu từ nước ngoài thay thế cho máy móc thiết bị và công nghệ lỗi thời để

phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh trong nước. Điều này thể hiện quan điểm
công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Về lâu dài, Nhà nước ta đã đầu tư mạnh mẽ
cho hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất, mà điều kiện kiến quyết là phải phát triển nguồn lực con người, lấy con người
làm động lực để đi lên. Có thể thấy đây là sự thể hiện cho quan điểm công nghiệp hóa
gắn với phát triển nền kinh tế tri thức.
- Cải cách giáo dục, phát triển nguồn lực con người để phục vụ cho nền kinh tế tri
thức.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 khẳng định: Phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững...
Phát triển nguồn nhân lực cần phải quan tâm cả phát triển con người và hiện đại hóa hoạt
động giáo dục, đào tạo.
Ở nước ta trong những năm gần đây, việc đầu tư cho giáo dục được đẩy mạnh,
không chỉ là giáo dục đai học và sau đại học mà ở cấp bậc mầm non, tiểu học, trung học
cũng nhận được sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, nghiên cứu

12


đổi mới chương trình giảng dạy, kiểm tra kiểm soát thường xuyên để đảm bảo chất lượng
đội ngũ giáo viên. Điều này hứa hẹn đây sẽ là nguồn nhân lực chất lượng trong tương lại.
Ở cấp bậc đại học và sau đại học trước đây được đầu tư thì hiện nay vẫn tiếp tục
được đẩy mạnh. Bên cạnh đó các trường đại học còn phân định rõ ràng mục tiêu của
mình là nghiên cứu hay thực hành, cải tiến mô hình và chương trình đào tạo để theo kịp
quốc tế, cử học sinh ra các nước phát triển để học tập và nghiên cứu; ở trong quy mô nhà
trường thì công tác khuyến học và nghiên cứu khoa học cho sinh viên được đẩy mạnh
nhằm khơi dậy năng lực sáng tạo trong mỗi sinh viên.
Ngoài ra ở các trường trung cấp nghề và sơ cấp nghề cũng được đầu tư phát triển.

Đây là nguồn lao động trực tiếp tại các nhà máy, xí nghiệp, Nhà nước ta nhận thấy rằng
sự hiện đại hóa máy móc, dây truyền sản xuất cũng cần đòi hỏi trình độ của công nhân
phải bắt kịp nên có sự đầu tư đúng mức nhằm hướng tới mục tiêu hiện đại hóa trong dài
hạn.
- Công tác bảo vệ tài nguyên - môi trường ngày càng được chú trọng.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn tài nguyên hiện nay, CNH, HĐH tác động
không thuận đến môi trường tự nhiên. Do đó văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI xác định: “Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư… Chú trọng phát triển kinh
tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch,
tiêu dùng sạch”. Để cụ thể hóa quan điểm này, đảng ta đã thực hiện nhiều biện pháp như:
Tăng cường quản lý tài nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, bầu trời; ngăn chặn các hành
vi huỷ hoại môi trường, khắc phục sự xuống cấp, tích cực phục hồi môi trường, xử lý phế
thải,…. Ngoài ra nhà nước còn thực hiện kiểm soát gắt gao đối với các cơ sở sản xuất
trước tình trạng xả nước thải chưa qua xử lý vào môi trường hoặc công nghệ xử lý nước
thải không đáp ứng được tiêu chuẩn đang diễn ra tràn lan ở nhiều nhà máy, xí nghiệp.
Không chỉ có các hình thức xử phạt, dăn đe đối với các cơ sở vi phạm, Nhà nước còn
khuyến khích đầu tư phát triển hệ thống xử lý chất thải, khuyến khích sử dụng công nghệ
sạch, năng lượng sạch trong sản xuất. Bên cạnh đó, cùng với việc đầu tư phát triển công
nghệ của mình, nhiều chủ đầu tư, chủ sở hữu các nhà máy, doanh nghiệp cũng ý thức
được vai trò của việc bảo vệ tài nguyên - môi trường trong sự phát triển ổn định của nền
kinh tế đang đi theo tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bằng các hành động như
đầu tư cho xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường; xậy dựng các mô hình trang trại, khu
nuôi trồng tiên tiến, hiện đại và sử dụng các sản phẩm từ đó làm nguyên liệu đầu vào cho
sản xuất; tổ chức các hoạt động hướng tới môi trường và cộng đồng,…. Những hoạt động
này không chỉ khẳng định sự quan tâm của các doanh nghiệp đối với vấn đề tài nguyên môi trường mà còn giúp tạo dựng thương hiệu cho doanh nghiệp trên thị trường, tạo ra

13



một khuôn mẫu để các doanh nghiệp khác học tập, góp phần phát triển một nền kinh tế
vững mạnh.
2. Trách nhiệm của bản thân:
“Đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên môi trường” là phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011 – 2020.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay là toàn cầu hóa, kinh tế đang phát triển mạnh mẽ
đã có những tác động tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước như: tạo
nhiều cơ hội để phát triển, hợp tác, quốc tế hóa lao động, kinh tế tri thức phát triển mạnh,
… Tuy nhiên cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định như tranh giành thị trường, tranh
chấp biển đảo, tài nguyên, các vấn đề về môi trường,… Do đó con người và tri thức trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
Sinh viên chúng tôi là nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu và phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh, năng
suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện đồng bộ
nhiệm vụ công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, công nghiệp hóa phải gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Vì vậy, mỗi một sinh viên trước hết phải quán triệt nghiêm túc, nắm vững quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ hai, không ngừng học tập để nâng cao trình độ, nhận thức, năng lực về mọi
mặt. Đặc biệt phải chú trọng việc đẩy mạnh nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng khoa học
công nghệ có chất lượng trong mọi lĩnh vực mà bản thân học tập và công tác đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước.
Thứ ba, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên, môi trường trong việc thực hiện các
nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, thường xuyên cập nhật tri thức, kiến thức mới của thế giới để phù hợp với
tình hình hội nhập quốc tế.
Thứ năm, quan tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp phát của mọi người, tôn trọng và
thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết. Phát huy tinh thần độc lập dân tộc,

bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trước những thử thách lớn và tác động trực tiếp từ thế
giới bên ngoài.

KẾT LUẬN

14


Đối với các nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta, xây dựng
cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ
gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa mà không chỉ dừng lại ở công nghiệp hóa đơn
thuần mà công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, công nghiệp hóa phải gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường. và sau 25 năm đổi mới, đất nước ta
đã thu được những thành tuuwj to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà công nghiệp hóa hiện đại
háo đem lại: Một là, cơ sở vật chất –kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả
năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Hai là, cơ cấu chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được những kết quả quan trọng. Ba là, những
thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt
tốc độ tăng trưởng khá cao. Như vậy công nghiệp hóa hiện đại hóa có một vai trò quan
trọng trong sự phát triển đất nước hiện tại và tương lai.

15



×