Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm về trường PTDTBT hay và hiệu quả các trường bán trú học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.18 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đảng ta coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu” và với quan điểm chỉ đạo “Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, các quan điểm đó đã tạo thuận lợi cho giáo dục
phát triển. Trên quan điểm nhất quán, các chương trình mục tiêu quốc gia đã tập trung
đầu tư cho giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn. Do đặc điểm miền núi địa hình chia cắt mạnh, thiếu mặt bằng
nên sự phân bố dân cư ở các vùng khó khăn không tập trung. Dân cư sống rải rác ở
khe suối, lưng đèo và đỉnh núi…Sự phân bố đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc mở trường, mở lớp ở các khu vực này. Mặc dù khi xây dựng trường học các
địa phương đã cố gắng đặt ở các nơi trung tâm, đông dân cư song do mật độ dân số
nhỏ, dân cư sống không tập trung nên không đáp ứng được tất cả đối tượng học
sinh. Do đặc thù địa hình miền núi, sự phân bố dân cư không tập trung, phong tục tập
quán canh tác của người dân tộc thiểu số là sống dựa vào rừng nên họ sống rất xa các
khu trung tâm. Học sinh là con em dân tộc thiểu số cũng phải chịu nhiều thiệt thòi,
điều kiện kinh tế gia đình thì eo hẹp (đa số là hộ nghèo, các em vừa phải lao động
vừa đi học), hằng ngày các em phải đi bộ cả chục cây số để đến trường nên rất vất vả.
Nhiều học sinh không đủ điều kiện phải bỏ học giữa chừng hoặc có đi học thì cũng
buổi đi buổi nghỉ.

Loại hình trường PTDTBT theo Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT ngày
02/8/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của
trường phổ thông dân tộc bán trú đang dần được hình thành, các trường có lớp có
học sinh bán trú đã được các địa phương đặc biệt quan tâm. Đại đa số nhân dân
các dân tộc thiểu số đều đồng tình ủng hộ, các CBQL và GV có nhận thức đúng và
coi đây là giải pháp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, trong công
tác chỉ đạo triển khai thì mỗi địa phương lại mang một sắc thái riêng, tổ chức
hoạt động của mỗi trường thì đều mang tính chủ quan của cán bộ quản lý. Chính
quyền địa phương cấp xã và gia đình học sinh thì phó mặc cho nhà trường. Do đó
hiệu quả giáo dục của mô hình trường PTDTBT, các trường có học sinh bán trú
chưa cao, nơi nào mạnh thì chất lượng khá, nơi nào ít được quan tâm thì không


duy trì được. Trước thực trạng đó cần có một mô hình quản lý khoa học, thiết thực
và phù hợp với điều kiện thực tế địa phương trong công tác quản lý trường
PTDTBT, các trường có học sinh bán trú để nâng cao chất lượng giáo dục cho các xã
đặc biệt khó khăn thuộc địa bàn miền núi.
II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
1


Hướng dẫn quản lý tổ chức các hoạt động của lớp Bán trú tại các trường
PTDTBT , các trường có học sinh bán trú thuộc các xã đặc biệt khó khăn của huyện
Tân Uyên
Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện về thời gian và kinh phí có hạn nên em chỉ tập chung nghiên cứu
vấn đề một số biện pháp hướng dẫn quản lý học sinh bán trú ở trường PTDTBT
THCS, tại các xã đặc biệt khó khăn của huyện Tân Uyên – Lai Châu.
III. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp hướng dẫn quản lý trường PTDTBT, tại các xã có
điều kiện đặc biệt khó khăn nhằm huy động tối đa số trẻ trong độ tuổi TH, THCS
góp phần phát triển giáo dục phổ thông ở các địa phương này.
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của một số biện pháp hướng dẫn quản lý học
sinh bán trú.
- Phân tích được thực trạng quản lý học sinh bán trú ở các trường có học sinh
bán trú trên địa bàn huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.
- Đề xuất ra các giải pháp nhằm hướng dẫn quản lý học sinh bán trú ở các
trường PTDTBT, trên địa bàn huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu nhằm nâng cao chất
lượng dạy- học
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN HƯỚNG DẪN QUẢN LÝ HỌC SINH BÁN TRÚ Ở CÁC

TRƯỜNG PTDTBT.

1. Một số khái niệm:
1.1. Hướng dẫn là cách chỉ bảo, dắt dẫn cho biết phương hướng, cách thức
tiến hành một hoạt động nào đó.
1.2. Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy điều khiển các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt đến mục tiêu đúng, ý chí của
chủ thể quản lý và phù hợp với quy luật khách quan.
1.3. Trường phổ thông dân tộc bán trú
1.3.1. Trường phổ thông dân tộc bán trú là trường chuyên biệt, do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em
gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này bao gồm
trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân
2


tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc
bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc
thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán
trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ
50% trở lên số học sinh ở bán trú.
1.3.2. Học sinh bán trú là học sinh đang học tại các trường phổ thông dân
tộc bán trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; trường tiểu học
và trung học cơ sở công lập khác ở vùng này, được Ủy ban nhân dân huyện phê
duyệt cho phép ở lại trường để học tập trong tuần do không thể đi đến trường và
trở về nhà trong ngày.
2. Tình hình chung về vấn đề quản lý học sinh bán trú ở các nhà trường
PTDTBT.
Hình thức bán trú ở huyện Tân Uyên, cũng đã xuất hiện từ khá lâu nhưng chủ

yếu là tự phát cho nên chưa có quy mô phát triển và cách quản lý chưa khoa học,
bên cạnh đấy những đặc điểm kinh tế, xã hội, phong tục tập quán cùng nhận thức
của các cấp chính quyền, nhân dân, mà nó trở nên “đặc dụng” trước hết với một
vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn như là xã Tà Mít, Hố Mít, Nậm sỏ, Mường
Khoa ... Là những xã nghèo, xã thuộc chương trình 135, xã có nhiều thôn bản
người thái hơn 40% số gia đình thuộc diện hộ nghèo với những đặc điểm đó thì
giáo dục muốn duy trì và phát triển, chỉ có thể bằng phương thức bán trú, bán trú.
Phương thức đó có thể coi như là “Bí quyết” của Giáo dục huyện Tân Uyên nói
chung và các xã vùng khó khăn nói riêng. Để có thể nuôi dạy và nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường, duy trì sĩ số, giữ vững phổ cập của xã, đối với các
em học sinh ở nơi quá xa trường, đối với những bản người Thái, người H’Mông
cách xa trung tâm hơn 10 km đường xá đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế xã hội
còn nhiều hạn chế. Điểm đáng lưu ý nhất với học sinh các xã này là tính chuyên
cần đi học hơn 10 km và vượt qua bao nhiêu xa xôi khó khăn như vậy nhưng với
tinh thần hiếu học các em vẫn cố gắng đến trường nhưng với hoàn cảnh gia đình
khó khăn trong các vụ giáp hạt thì gia đình các em lấy đâu lương thực mà cung cấp
các em xuống trọ học tại nhà trường, cho nên tỉ lệ học sinh nghỉ và bỏ học vẫn sảy
ra, tuy nhiên nhà trường, Ban giám hiệu cùng với Ban quản lý bán trú đã phân
công các giáo viên đến từng gia đình của học sinh bỏ học để vận động các em đến
lớp tiếp tục theo học.
Trong việc chỉ đạo quản lý học sinh bán trú được sự quan tâm của các cấp các
ngành ở các nhà trường PTDTBT, trường có học sinh bán trú đã được Ban giám
hiệu nhà trường chú ý, quan tâm. Song hiệu quả của hoạt động quản lý chưa cao,
nhà trường chưa có kế hoạch chương trình cụ thể cho từng năm học, từng tháng
3


học ... Một số giáo viên và phụ huynh học sinh chưa chú ý, quan tâm đúng mức
đến hoạt động này, thậm chí còn xem nhẹ, bỏ qua, chỉ giao phó cho giáo viên quản
lý bán trú của nhà trường tự tổ chức điều khiển hoạt động do đó những hoạt động

quản lý này còn gặp rất nhiều khó khăn và lúng túng hoặc có chăng cũng chỉ là
những hoạt động chiếu lệ, hình thức và chỉ đạo quản lý một cách máy móc dập
khuôn chứ không có sự sáng tạo. Từ những năm học 2009-2010 đến nay hoạt động
quản lý học sinh bán trú đã được các cấp chỉ đạo sát sao hơn, cụ thể hơn nên hoạt
động này đã đi vào nền nếp và nhà trường đã thực sự tạo được sân chơi bổ ích,
cũng như một môi trường học tập cho các em được tốt hơn.
II. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ HỌC SINH BÁN TRÚ Ở CÁC NHÀ
TRƯỜNG PTDTBT.
1. Đặc điểm tình hình địa phương và tình hình nhà trường.
1.1 Đặc điểm tình hình địa phương.
Tân Uyên huyện mới được chia tách từ huyện Than Uyên là một trong 62 huyện
nghèo của cả nước có 10 xã, thị trấn. Huyện Tân Uyên cách thị xã Lai Châu 58 km
về phía Nam. Địa hình chủ yếu là đồi núi địa hình bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông,
suối và khe nhỏ. Tổng diện tích toàn huyện 90.326,75 ha; Tổng dân số 42.221 người,
gồm các dân tộc chính: Thái, Khơ mú, H’Mông, Tày, Lào, Kinh, .... . Điều kiện kinh
tế của các xã còn gặp rất nhiều khó khăn điều này ảnh hưởng khá nhiều đến chất
lượng giáo dục, đặc biệt các xã đã tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo
dục và quan tâm đến công tác quản lý học bán trú trọ học tại xung quanh các nhà
trường góp phần đẩy mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Vì vậy mà giáo dục của các xã ngày một đổi khác .
1.2. Đặc điểm tình hình các nhà trường.
Các trường có học sinh bán trú trong huyện Tân Uyên phải đối mặt với thực
tế là chất lượng đầu vào của các trường thấp hơn so với mặt bằng chung của toàn
huyện và tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự ưu tiên của Nhà nước ở một bộ phận không
nhỏ học sinh và phụ huynh đặc biệt như ở các xã Hố Mít, Mường Khoa, nên ngay
từ đầu năm Ban giám hiệu của các trường PTDTBT, các trường có học sinh bán trú
đã quan tâm chỉ đạo giáo viên và học sinh thực hiện công tác là: Giáo dục tư
tưởng, đạo đức, tác phong; hoạt động dạy và học; lao động và hướng nghiệp, dạy
nghề; tổ chức bán trú và công tác Đảng, đoàn thể trong nhà trường. Nhà trường
sớm tổ chức học tập, quán triệt và triển khai đầy đủ các chỉ thị và văn bản chỉ đạo

của Bộ, Sở Giáo dục – Đào tạo về nhiệm vụ năm học và cuộc vận động “ Nói
không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Do tính chất
bán trú, các trường đã tổ chức cho học sinh học tập điều lệ trường phổ thông, nội
4


quy của trường, lớp; duy trì chế độ sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể bán trú và giao
ban giữa ban giám hiệu với giáo viên chủ nhiệm để nắm chắc và uốn nắn tình hình
đạo đức, học tập của học sinh. Với các biện pháp trên, trong năm học vừa qua các
nhà trường không có học sinh vi phạm tệ nạn xã hội, học sinh xếp loại đạo đức
trung bình và yếu giảm rõ rệt.
Trong các năm qua số học sinh có nhu cầu bán trú ngày một tăng, học 20112012 toàn huyện có1080 học sinh ở bán trú học 2012-2013 toàn huyện có 1407
học sinh ở bán trú. Việc đáp ứng về nhu cầu học sinh bán trú ngày một tăng cao là
rất khó khăn đối với nhà trường đặc biệt là nhà ở cho học sinh, đa số các trường
diện tích, khuôn viên trường chật hẹp, không có sân chơi, bãi tập để tổ chức các
hoạt động bán trú đất của các nhà trường thì lại có hạn.
Nhà trường có học sinh phải đối mặt với thực tế là tình trạng thiếu nước sạch
đặc biệt là vào mùa khô, trường nào có hệ thống nước sạch hay bị tắc, hỏng ống. Do
vậy trong sinh hoạt của các em sinh bán trú gặp rất nhiều các khó khăn, các em phải
thường xuyên đi sách nước từ các khu vực lân cận về nhà trường để nấu ăn, tắm
giặt. Bên cạnh việc thiếu nước sạch thì các nhà trường có học sinh bán trú còn có
các khó khăn về cơ sở vật chất: các phòng học, nhà ở cho học sinh bán trú, giường,
chiếu, chăn, màn… đa số các nhà trường phòng ăn chưa có bàn ăn, ghế ăn, nhà bếp.
Việc quản lí học sinh trong thời gian ngoài giờ lên lớp rất khó khăn: ngủ, nghỉ
buổi trưa, buổi tối rất phức tạp. Do đa số các nhà trường khu ký túc nhà trường
không có tường rào bao quanh, đường dân sinh đi qua… nên người quản lí phải
thường xuyên túc trực. Học sinh bán trú của các trường thường xuyên bị các đối
tượng vào phá quấy, nặng hơn là vào chấn lột, xin tiền…. Một số phụ huynh học
sinh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình còn phó mặc cho nhà
trường đặc biệt là lấy vợ, lấy chồng cho con sớm.

Giá cả thị trường không ổn định, các mặt hàng lương thực, thực phẩm đắt đỏ;
Chế độ chính sách của nhà nước đến với trường với học sinh nhiều lúc là chưa kịp
thời. Sức đóng góp của người dân rất ít vì điều kiện sống còn rất khó khăn. Do vậy
rất khó để tổ chức bữa ăn có đủ chất, đảm bảo dinh dưỡng.
1.3. Đặc điểm tình hình về học sinh bán trú ở nhà trường PTDTBT.
Đại đa số nhân dân ở các vùng đặc biệt khó khăn của huyện Tân Uyên đều
thuộc dân tộc thiểu số như người Thái, Mông, Lào…., phong tục tập quán lạc hậu,
tỷ lệ sinh cao, thu nhập bình quân đầu người rất thấp, chủ yếu dựa vào trồng trọt,
chăn nuôi và khai thác lâm sản. Hộ nghèo chiếm đa số, nhiều gia còn nằm trong hộ
nghèo nên các điều kiện sống của nhân dân rất khó khăn. Sống xa trung tâm nên học
sinh con em dân tộc ở đây chịu nhiều thiệt thòi, không được tiếp cận các nguồn
thông tin đại chúng như: truyền hình, truyền thanh, sách báo, Internet, thiếu sách
vở... Thậm chí nhiều học sinh còn ăn chưa được no, ngủ chưa được ấm nên nhiều
học sinh chậm phát triển về thể lực và trí tuệ. Môi trường sống gần thiên nhiên nên
các em thường trầm tính, ít hoà đồng...Những điều kiện đó có ảnh hưởng không nhỏ
5


tới tâm lý học sinh dân tộc thiểu số. Học sinh dân tộc đi học nội trú chủ yếu là học
sinh nhiều tuổi hơn các học sinh khác, nhà cách xa trung tâm xã nên thường nhút
nhát và tự ti. Đa số các em là con em hộ nghèo và sống trong khu vực rừng núi thưa
dân nên các em rất thiếu vốn từ tiếng Việt và kỹ năng sống đặc biệt là kỹ năng
giao tiếp trong môi trường tập thể. Nhiều học sinh tiểu học, THCS đầu cấp còn
chưa có khả năng vệ sinh cá nhân. Các em rất hay tự ái và nếu không thích học
là bỏ trốn về nhà, một số học sinh lớn tuổi THCS có biểu hiện quan hệ tình dục tự do
và sớm hơn học sinh phổ thông khác nên khó gần và lầm lì. Về quá trình nhận thức
do vốn từ tiếng việt của các em rất hạn chế nên quá trình nhận thức của các em gặp
rất nhiều khó khăn. Có những câu các em đọc nhưng chưa hiểu, hoặc hiểu lơ mơ dẫn
đến tư duy sai lệch.
2. Thực trạng về việc quản lý học sinh bán trú trong nhà trường năm

2011 - 2012.
Quản lý bán trú là quá trình quản lý hoạt động giáo dục trong các nhà trường,
là nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định đến vấn đề nâng cao chất lượng dạy và
học trong trường, tránh tình trạng học sinh bỏ và duy trì phổ cập Giáo dục THCS
của các nhà trường. Thực trạng công tác quản lý học sinh bán trú. tại các trường
PTDTBT, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu trong những năm qua có đặc điểm sau
Huyện Tân Uyên là một trong 62 huyện nghèo theo Quyết định 30a của
Chính Phủ. Do đó đời sống của một số gia đình còn khó khăn trong những thời
điểm giáp hạt. Một số gia đình chưa quan tâm việc học tập của con em mình, nhiều
khi còn phó mặc cho các thầy cô giáo. Nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của các
bậc cha mẹ về việc chăm sóc, giáo dục con em mình còn hạn chế. Cơ sở vật chất
trường lớp học còn nhiều phòng học tạm, thiếu về sân chơi, bãi tập phục vụ nhu
cầu học tập ngoài giờ chính khoá cho các em. Hệ thống nhà ở, nhà ăn, các công
trình phục vụ cho nhu cầu bán trú còn thiếu, số phòng ở của học sinh còn nhiều
phòng tạm. Nhiều trường chưa có nhà ăn, nhà bếp, thiếu nhân viên nuôi dưỡng,
nhân viên y tế.
Địa bàn rộng nhưng dân cư thưa thớt. Khoảng cách từ trung tâm huyện đến
nhiều xã xa trung bình trên 30 km, có 2 xã xa trung tâm đến hơn 40 km. Tình trạng
đường giao thông bị chia cắt thường xuyên xảy ra. Dân cư không tập trung, nhiều
thôn bản xa trường học, những thôn xa nhất cách các nhà trường 20-25km, điều
kiện đi lại khó khăn. Từ tình hình trên trong các năm qua các nhà trường xuống
bản cùng họp với dân để phổ biến chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước về
phát triển giáo dục, Vận động cha mẹ học sinh tạo mọi điều kiện cho các em được
đến trường học tập nhất là các thôn bản xa trường học đi laị khó khăn. Học sinh đa
số là con em dân tộc thiểu số sống ở vùng khó khăn nên hạn chế về trình độ nhận
6


thức và ít có điều kiện học tập cũng như là vốn hiểu biết xã hội . Điều này ảnh
hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục toàn diện của các nhà trường. Thêm vào đó

số học ở trọ học tại trường gặp nhiều khó khăn về nơi ăn, chốn ở và quản lý sinh
hoạt hàng ngày... Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của
con em mình còn phó thác và giao trách nhiệm hết cho nhà trường.
Về phía các nhà trường cơ sở vật chất còn nghèo nàn, thư viện ít tài liệu, đầu
sách tham khảo. Đội ngũ giáo viên còn thiếu, không ổn định thường xuyên có sự
thay đổi, đội ngũ giáo viên, nhân viên, cán bộ quản lý của trường còn trẻ về tuổi đời
và tuổi nghề nên kinh nghiệm làm việc chưa nhiều, đặc biệt là kinh nghiệm quản lý.
Mô hình bán trú ở các trường THCS huyện trong những năm gần đây đã dần
đi vào nền nếp, các nhà trường đã duy trì đều đặn sinh hoạt và tổ chức cho những
học sinh ở bán trú các hoạt động thi đua học tập cùng với kết hợp vui chơi thể dục,
thể thao sôi nổi với nhiều nội dung phong phú, thu hút được học sinh tham gia.
Nhà trường đã huy động được các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
tham gia hoạt động một cách tích cực. Vì vậy, các nhà trường luôn được Phòng
Giáo dục, Hội đồng Giáo dục xã đánh giá là những đơn vị có nhiều thành tích về
quản lý bán trú, giảm tỉ lệ số học sinh bỏ học và luôn giữ vững duy trì công phổ
cập giáo dục THCS, trong đó quản lý bán trú là nòng cốt, và được chọn là những
đơn vị xây dựng mô hình mẫu cho các cho các huyện bạn học tập. Kết quả trên đã
khẳng định được những chuyển biến tích cực trong công tác chỉ đạo, quản lý học
bán trú của Ban Giám hiệu các nhà trường. Đây là một cố gắng lớn của Ban giám
hiệu và tập thể cán bộ giáo viên trong các nhà trường.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC, QUẢN LÝ HỌC SINH
BÁN TRÚ Ở CÁC TRƯỜNG PTDTBT.
Cần có sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động của bán trú với quan điểm
học sinh bán trú đi học được ăn ngon hơn ở nhà, đi học vui hơn ở nhà. Do đó với
những thành quả ban đầu, mô hình bán trú ở huyện Tân Uyên cần được mở rộng.
Tuy nhiên, từ thực tế triển khai bán trú cũng có những bất cập. Trên thực tế điều
kiện cơ sở vật chất chật chội, thiếu thốn, chỗ ăn, nghỉ và kinh phí hoạt động... Ngoài
ra lợi thế của mô hình này cũng chưa được khai thác triệt để nhằm nâng cao chất
lượng Giáo dục văn hoá, Giáo dục nhân cách và dạy nghề cho học sinh.
Biện pháp thứ nhất: Hoàn thiện cơ cấu, tổ chức và cơ chế hoạt động trường

PTDTBT.
Trường PTDTBT phải được ưu tiên về cơ sở vật chất, trang thiết bị, diện tích và
mặt bằng đất. Được ưu tiên lựa chọn cán bộ quản lý và giáo viên có năng lực, đủ biên

7


chế. Phải tham mưu và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xây dựng và ban hành đầy
đủ hệ thống văn bản chỉ đạo và hướng dẫn về tổ chức, biên chế, chế độ chính sách cho
giáo viên và học sinh và quy chế hoạt động của nhà trường. Thực hiện nghiêm túc theo

Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT ngày 02/8/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú
Biện pháp thứ hai: Xây dựng, hướng dẫn nhiệm vụ tổ chức quản lý nội
trú, bán trú của các trường PTDTBT.
Để quản lý tốt các hoạt động nội trú, bán trú cần có hướng dẫn cụ thể rõ ràng,
có sự thống nhất chung trong toàn huyện về công tác quản lý bán trú cần có các
cuộc hội thảo hướng dẫn công tác bán trú xây dựng nhiệm vụ của các tổ chức, cá
nhân trong nhà trường có thống nhất chung như sau
* Nhiệm vụ của Ban Giám hiệu và các tổ chức trong nhà trường
1. Ban Giám hiệu
1.1. Hiệu trưởng: Quản lý, chỉ đạo chung và chịu trách nhiệm trước Phòng
Giáo dục và Đào tạo về kết quả hoạt động của nhà trường. Công tác tư tưởng chính
trị trong nhà trường. Công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật. Công tác xây dựng kế
hoạch năm học và công tác tổ chức cán bộ. Chủ tài khoản. Công tác kiểm tra nội bộ
trường học.
1.2. Các Phó Hiệu trưởng: Chịu trách nhiệm về quản lý chuyên môn: Xây
dựng kế hoạch và quy chế hoạt động chuyên môn; quản lý các tổ chuyên môn; phụ
trách chuyên môn và công tác chủ nhiệm. Phụ trách cơ sở vật chất; công tác hướng
nghiệp; hoạt động ngoại khóa; an ninh, trật tự của nhà trường; quản lí tổ Văn

phòng. Phụ trách công tác nội trú, bán trú. Chủ tài khoản số 1, 2.
2. Công đoàn: Xây dựng kế hoạch hoạt động công đoàn, quản lý các công
đoàn viên của nhà trường. Thực hiện chức năng giám sát. Phụ trách công tác thanh
tra nhân dân. Chăm lo đời sống vật chất cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và học
sinh trong nhà trường.
3. Đoàn - Đội: Quản lý đoàn viên, đội viên. Xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch hoạt động của đoàn, đội. Công tác phát triển đoàn viên, đội viên trong
nhà trường.
Ngoài các nhiệm vụ trên, Ban Giám hiệu và các tổ chức trong nhà trường
còn thực hiện các nhiệm vụ khác theo đúng quy định của Điều lệ trường trung học
cơ sở, trường tiểu học.
*Tổ chức, quản lý hoạt động nội trú
1. Công tác quản lý học sinh
1.1. Thành lập Ban quản lý nội trú, gồm: Trưởng ban: 01 Lãnh đạo nhà
trường. Phó Trưởng ban: Bí thư Đoàn hoặc Tổng phụ trách Đội. Các thành viên: Tổ
trưởng tổ Văn phòng, công nhân viên trong nhà trường (do Hiệu trưởng phân công)
và các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm.
1.2. Phân công nhiệm vụ
8


1.2.1. Trưởng ban: Phụ trách chung; Phân công nhiệm vụ cho từng thành viên;
Phê duyệt kế hoạch; phê duyệt số lượng học sinh ăn từng ngày.
1.2.2. Phó Trưởng ban: Xây dựng kế hoạch hoạt động nội trú và các quy
định, nội quy khu nội trú; Xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể cho từng tuần, từng
tháng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch; báo cáo kết quả thực hiện hàng
tháng, học kỳ và năm học; theo dõi, chỉ đạo trực khu nội trú. Xây dựng lịch biểu
quy định về giờ giấc sinh hoạt nội trú: Phụ trách công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, hoạt động ngoại khóa; tổ chức giao lưu các hoạt động văn nghệ, thể thao
với các đơn vị bạn; phụ trách phong trào thể dục, thể thao trong học sinh. Phụ trách

công tác thi đua, khen thưởng, các phòng ở trong khu nội trú; xây dựng kế hoạch
hoạt động tập thể (Lịch hoạt động trong từng ngày, từng tuần; lịch hoạt động thể
dục thể thao; tổ chức các trò chơi dân gian; tổ chức tết dân tộc cho học sinh...),
bảo vệ môi trường và cùng với bảo vệ đảm bảo trật tự an ninh khu nội trú và an
ninh trong nhà trường. Tổ chức hướng dẫn học sinh vệ sinh phòng ở, vệ sinh cá
nhân, vệ sinh khu vực nhà ở và toàn bộ mặt bằng khu nội trú, các công trình vệ
sinh trong nhà trường; xây dựng nền nếp, tác phong nhanh nhẹn, nếp sống văn
minh trong khu nội trú (phòng ngủ sạch, đẹp, gọn gàng, ngăn nắp; Quy định hệ
thống dây phơi khăn mặt, quần áo ngoài sân hợp lý, khoa học ). Xây dựng kế
hoạch, hướng dẫn học sinh trồng, chăm sóc cây xanh, cây cảnh trong khu nội trú
đảm bảo xanh, sạch, đẹp; hướng dẫn học sinh tăng gia sản xuất, biết cách trồng và
chăm sóc rau xanh cải thiện đời sống; giám sát, kiểm tra và chấm điểm về lao động
tăng gia sản xuất đối với từng chi đoàn (liên đội). Tổ chức kiểm tra, đánh giá cho
điểm hoạt động nội trú của các chi đoàn (liên đội) hàng ngày để tuyên dương, phê
bình kịp thời vào tiết chào cờ đầu tuần; theo dõi, kiểm tra, chấm điểm các hoạt
động thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ, việc thực hiện nội quy nền nếp trong học
sinh và tổng hợp điểm cuối tuần, cuối tháng, cuối học kỳ và cuối năm học để làm
căn cứ bình xét thi đua, khen thưởng cho các tập thể, cá nhân.
1.2.3. Các thành viên:
Tổ trưởng tổ Văn phòng và nhân viên trong nhà trường có các nhiện vụ sau:
tổ chức đón tiếp, bố trí xếp phòng ở, sinh hoạt và học tập cho học sinh theo quy định
của nhà trường; phổ biến, hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành nội quy của học sinh
nội trú; thường xuyên kiểm tra việc sử dụng, bảo quản cơ sở vật chất, thiết bị khu nội
trú, có kế hoạch sửa chữa kịp thời; hướng dẫn học sinh cách nấu nướng và chế biến
thực phẩm an toàn; đảm bảo an ninh, trật tự trong khu nội trú và trong nhà trường.
Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn: Phối hợp với tổ chuyên môn, các tổ
chức trong nhà trường để quản lý hoạt động tự học sau giờ lên lớp của học sinh
bán trú.
2. Công tác bảo vệ
Xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai và phối hợp chặt chẽ với các lực

lượng bảo vệ, công an địa phương và tổ chức Đoàn (Đội) của nhà trường trong
công tác giữ gìn, đảm bảo trật tự, an ninh và phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng
chống cháy nổ... Xây dựng các phương án phòng cháy, chữa cháy trong nhà
trường.
3. Công tác y tế
9


Xây dựng nội dung hoạt động y tế cho từng năm học, khóa học theo Điều 4
Quy định về hoạt động y tế trong các trường tiểu học, trường THCS, trường THPT
và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Quyết định số
37/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phối hợp với cơ sở y tế địa phương và các ngành liên quan trong việc triển
khai, thực hiện các hoạt động y tế trường học và các hoạt động y tế khác. Tổ chức
thực hiện công tác quản lý, chăm sóc sức khỏe cho học sinh, cán bộ giáo viên và
nhân viên trong nhà trường.
Tổ chức kiểm tra, giám sát công tác vệ sinh môi trường trong khu làm việc,
lớp học, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, tổ chức tuyên truyền và triển khai các
biện pháp phòng chống các dịch bệnh, bệnh tật học đường, phòng chống tai nạn
thương tích, phòng chống HIV/AIDS, các bệnh xã hội và các hoạt động khác về y
tế trường học.
4. Công tác kế toán
Hàng năm lập dự toán bảo đảm nguồn kinh phí cho công tác bán trú, lập kế
hoạch nuôi dưỡng học sinh ăn bán trú theo từng tháng đảm bảo chi đúng, đầy đủ
học bổng của học sinh bán trú. Hoàn thiện các loại chứng từ bán trú theo quy định.
Không tham gia vào việc mua bán và giữ tiền mặt. Chịu trách nhiệm trước pháp
luật đối với các chứng từ.
5. Công tác thủ kho, thủ quỹ
Quản lý kho, quỹ tiền mặt của nhà trường theo quy định. Xuất nhập đầy đủ
đúng số lượng theo phiếu kê mua hàng, phiếu xuất kho hợp lệ. Khi xuất kho phải

căn vào số lượng học sinh theo phiếu báo ăn và bảng chấm công hàng ngày.
6. Công tác kiểm tra nội bộ
Ban thanh tra nhân dân kiểm tra số lượng xuất nhập kho hàng ngày, kiểm tra
số lượng học sinh ăn từng ngày, khảo sát giá thị trường trong việc mua bán lương
thực, thực phẩm của học sinh ăn theo quy định. Ban thanh tra nhân dân kiểm tra hồ
sơ chứng từ kế toán theo quy định, có sổ kiểm tra định kì.
* Công tác tổ chức, quản lý nuôi dưỡng học sinh bán trú
1. Tổ chức quản lý bếp ăn
1.1. Mua lương thực, thực phẩm
Mua lương thực, thực phẩm chất lượng tốt, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Thực hiện nhập kho, ghi sổ sách tiếp phẩm theo quy định. Giữ gìn, bảo quản tốt
lương thực, thực phẩm theo quy định.
1.2. Chế biến lương thực, thực phẩm
Phải thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, phòng
chống dịch bệnh lây truyền qua đường ăn uống theo các văn bản hiện hành của các
cấp, các ngành. Giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh nhà ăn, nhà bếp, khu chế biến phải
đảm bảo sạch sẽ. Tổ chức nuôi dưỡng khoa học; cho học sinh ăn đúng giờ, khuyến
khích các trường tổ chức cho học sinh ăn 3 bữa/ngày. Hướng dẫn học sinh thực
hiện tốt nội quy nhà ăn. Hàng ngày lưu mẫu thức ăn theo quy định của Pháp lệnh
Vệ sinh an toàn thực phẩm. Phải thực hiện tốt vệ sinh, an toàn lao động và phòng
chống cháy, nổ ở khu vực nhà ăn.
Biện pháp thứ ba: Huy động sự tham gia của cộng đồng địa phương
10


Để huy động được sự tham gia của cộng đồng địa phương trước hết phải nâng
cao nhận thức về vai trò của nhà trường, vai trò của cộng đồng trong công tác giáo
dục học sinh nội trú tại địa phương. Nâng cao nhận thức về kết quả và tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng giáo dục và các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ công công tác
dạy và học. Nâng cao hiểu biết những thành tựu, những đóng góp to lớn của trường

PTDTBT, trường có học sinh bán trú trong sự phát triển kinh tế xã, hội của địa
phương. Làm rõ nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, chính
quyền địa phương và cộng đồng dân cư tại địa phương trong công tác quản lý, chỉ
đạo thực hiện các chế độ chính sách đối với nhà trường PTDTBT, với giáo viên và
học sinh nội trú trên địa bàn. Để làm được điều đó cần tổ chức tốt các nội dung cơ
bản sau:
Tổ chức các hội nghị tổng kết năm học có sự tham gia của các Ban ngành,
Đoàn thể, Chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị xã hội đóng trên địa bàn
và Phụ huynh học sinh. Trong hội nghị, cần thảo luận phân tích các mặt đã đạt
được, mặt còn tồn tại của công tác quản lý, thực hiện chế độ và giáo dục học sinh nội
trú, bán trú.
Tuyên truyền vận động nhân dân để nhân dân thấy được vai trò của giáo dục
trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và gia đình.
Phối hợp với cán bộ tư pháp xã, với Ban tuyên truyền, phổ biến luật và giáo
dục pháp luật xuống các thôn bản, cụm dân cư để tổ chức tuyên truyền phổ biến:
Luật giáo dục, Luật bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em, Luật phổ cập giáo dục, Công
ước quốc tế về quyền trẻ em...để nhân dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của gia đình
và trẻ em.
Tham mưu cho chính quyền địa phương xây dựng hương ước, qui ước ...về
công tác giáo dục, khuyến học trong cộng đồng dân cư.
Hàng năm tổ chức các hội nghị điển hình tiên tiến, khen thưởng những cá nhân,
hộ gia đình và tổ chức có thành tính xuất sắc trong công tác giáo dục, quản lý học
sinh nội trú.
Huy động sự đóng góp kinh phí, vật liệu, nhân lực. . . của xã hội, các nhà
hảo tâm, các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp và nhân dân trên địa bàn vào
xây dựng trường lớp, trang thiết bị và các điều kiện sinh hoạt, học tập cho các em học
sinh nội trú.
Biện pháp thứ tư: Coi trọng việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm cho giáo viên, khuyến khích giáo viên tự học, tự bồi dưỡng
Điểm chung của nhiều trường PTDTBT THCS là quy mô số lớp, HS thấp (từ

12 đến 15 lớp, HS từ 250 đến 300 em); số GV không nhiều (có từ 25 đến 30
người), phần lớn trẻ về tuổi đời và ít về tuổi nghề; mỗi xã có một trường, khoảng
11


cách giữa các trường thường cách xa nhau; giao thông đi lại không thuận tiện…
nên GV ít có điều kiện để trao đổi, học hỏi lẫn nhau về chuyên môn, nghiệp vụ. Do
đó, hiệu trưởng cần phải tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt chuyên môn, thao
giảng, dự giờ; tạo điều kiện về thời gian, trang bị phương tiện, các loại báo, tạp chí,
đầu tư mạng Intenrnet…để GV nghiên cứu, tự học, tự bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm. Đồng thời phải xây dựng được tập thể sư phạm nhà trường
đoàn kết, sáng tạo, biết học hỏi và cùng chia sẻ. Yêu cầu CB, GV học hỏi, nâng
cao kiến thức Tin học, Ngoại ngữ, tiếng DTTS nơi công tác.
Biện pháp thứ năm: Quản lý chất lượng giáo dục một cách có hiệu quả
Đi đôi với quản lý công tác dạy học của GV theo chương trình, kế hoạch, quy
chế chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; quản lý hoạt động của các tổ, nhóm
chuyên môn…Hiệu trưởng cần coi trọng việc tổ chức và chỉ đạo có hiệu quả quá
trình đổi mới phương pháp dạy học của GV theo hướng phù hợp từng nhóm đối
tượng HS, tránh lối dạy rặp khuôn, áp đặt; chỉ đạo việc tăng cường quản lý, khai
thác và sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học; chỉ đạo việc cải tiến phương pháp
kiểm tra, đánh giá và kiểm định chất lượng đối với HS, qua đó để thấy rõ được ưu
điểm và hạn chế của quá trình dạy học, từ đó đề ra các biện pháp cải thiện thực
trạng, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Với khả năng tiếp thu của học sinh DTTS có hạn, trong khi dung lượng không
ít bài học dài, kiến thức nhiều, quỹ thời gian để GV truyền thụ từng bài học trên
lớp lại theo quy định chung. Vì vậy, hiệu trưởng phải xây dựng kế hoạch, chỉ đạo
GV dạy giãn tiết, dạy thêm buổi (vì HS có quỹ thời gian vào buổi thứ hai). Đồng
thời dựa vào khảo sát chất lượng học lực HS đầu năm học và kết quả học lực giữa
học kỳ 1, học kỳ 2, phân loại kiến thức và kỹ năng của HS từng khối lớp, tổ chức
các nhóm (lớp) “đặc biệt” để phụ đạo HS yếu kém, học sinh mất căn bản lớp dưới,

hạn chế tình trạng HS “ngồi nhầm lớp”.
Học sinh tại trường PTDTBT THCS hầu hết là người DTTS, vốn tiếng Việt
hạn chế, HS lại thiếu mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, nên hiệu trưởng cần quan
tâm chỉ đạo và yêu cầu từng GV theo đặc thù bộ môn, tăng cường vốn tiếng Việt
đối với HS, nhất là kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Quản lý chất lượng giáo dục học sinh theo qui trình quản lý giáo dục. Đảm
bảo công tác giảng dạy theo chương trình, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
học sinh đảm bảo khách quan, công bằng và chính xác. Rèn luyện thói quen và kỹ
năng học tập cho học sinh, thường xuyên giáo dục đạo đức lối sống, giáo dục lao động
và sinh hoạt tập thể.
Đặc biệt chú ý đến giáo dục học sinh trong môi trường tập thể thông qua giáo
12


dục ý thức, trách nhiệm với tập thể. Do HS tuổi còn nhỏ đã phải xa gia đình nên
nhà trường phải xây dựng môi trường tập thể tốt như sự đoàn kết, thương yêu
đùm bọc lẫn nhau trong tập thể.
Hàng tuần tổ chức buổi nói chuyện vào tối thứ hai, các thầy cô giáo, cán bộ
quản lý, các em học sinh khá, giỏi kể những câu chuyện có ý nghĩa giáo dục cao,
gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của các em để qua đó giáo dục nhân cách, bồi
dưỡng tiếng Việt cho học sinh dân tộc.
Xây dựng qui chế thi đua với nhiều hình thức như đôi bạn cùng tiến, phòng ở
lưu trú điển hình, tổ học tập tốt, lớp tiên tiến…từ đó tạo không khí thi đua sôi nổi
trong tập thể học sinh để các em hoà đồng và chia sẻ với nhau, cùng động viên nhau
học tập tốt.
Quản lý tài chính công khai, minh bạch. Thực đơn trong bữa ăn hàng tuần của
học sinh cần có sự bàn bạc của học sinh trong buổi sinh hoạt lớp và được công khai
hàng ngày về giá tiền và thực đơn.
Ban chỉ đạo địa phương, CBQL, GV thường xuyên thăm hỏi động viên các em
đồng thời lắng nghe ý kiến tâm sự và nhu cầu về điều kiện CSVC phục vụ sinh

hoạt của các em ở lưu trú. Qua đó có ý kiến chỉ đạo và điều chỉnh cho phù hợp
để tạo điều kiện và môi trường học tập thuận lợi nhất cho học sinh.
Công tác quản lý cơ sở vật chất cần giao cụ thể cho người sử dụng có trách
nhiệm quản lý. Hàng tuần học sinh tổ chức lao động vệ sinh trường lớp, bếp ăn và
xắp xếp, bảo quản trang thiết bị học tập.
Các trường tận dụng sức lao động sẵn có và nguồn thực phẩm dư, tổ chức
hướng dẫn kỹ thuật và cung cấp cây, con giống cho học sinh trồng rau, nuôi lợn, thả
cá ... để cải thiện bữa ăn hàng ngày cho các em. Thông qua lao động, giáo dục và hình
thành nhân cách học sinh, tránh tư tưởng ỷ lại hoàn toàn vào sự hỗ trợ của nhà nước.
Biện pháp thứ sáu: Tăng cường quản lý hoạt động học tập của học sinh
phù hợp với tính chất và đặc điểm trường PTDTBT; rèn học sinh phương pháp
học tập và thói quen tự học.
Ở độ tuổi học sinh TH, THCS nhất là học sinh DTTS, hầu hết các em nhận
thức chưa đầy đủ, thậm chí nhận thức còn lệch lạc về ý nghĩa của việc học tập. Vì
vậy, hiệu trưởng phải giúp HS và chỉ đạo đội ngũ GV định hướng cho HS động cơ
13


và thái độ đúng đắn, cho HS thấy được: học tập là để hình thành giá trị, hoàn thiện
nhân cách, học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và để khẳng định mình.
Chất lượng học tập của học sinh DTTS phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
phương pháp và kỹ năng học là hết sức quan trọng. Học sinh THCS DTTS hầu hết
rất yếu về phương pháp học tập và chưa có thói quen tự học. Mà kỹ năng học tập
vừa là điều kiện học tập có chất lượng, vừa là kết quả học tập của HS. Vì vậy,
thông qua GV, cần bồi dưỡng cho HS phương pháp và kỹ năng học tập tích cực,
chủ động, tránh lối học vẹt, thụ động và phát huy năng lực tự học, tự tìm hiểu.
Hiệu trưởng cần chỉ đạo thực hiện việc xây dựng thời gian biểu cho các hoạt
động học tập hàng ngày, tuần, tháng; rèn cho HS kỹ năng học tập trên lớp (tóm tắt
ý chính bài học, ghi nhớ tái hiện tri thức đã học, ứng dụng làm bài tập, rèn tư duy
độc lập, khả năng diễn đạt ngôn ngữ tiếng Việt, kỹ năng liên tưởng, so sánh….).

Đặc biệt hướng dẫn cho HS cách thức học tập ở nhà (khu bán trú); hướng dẫn HS
học theo nhóm, học tự quản trên lớp…
Tăng cường quản lý nền nếp, giờ giấc học tập của HS (thuận lợi các trường
PTDTBT THCS là hầu hết GV ở tại khu tập thể, cùng khu bán trú của HS nên rất
có điều kiện theo dõi, quản lý việc học tập của HS sau giờ học chính khóa).
Biện pháp thứ bảy: Đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và hiện đại hoá phương
tiện dạy học cho các trường PTDTBT, các trường có học sinh bán trú
Xác định được mục tiêu đầu tư các địa phương cần tập trung đầu tư vào một
số hạng mục sau:
Trước tiên phải quan tâm đến diện tích đất. Trường PTDTBT là trường có
học sinh ở nội trú nên phải có đủ diện tích cho xây dựng phòng học, phòng lưu trú,
các phòng chức năng, khu nhà bếp, khu vệ sinh, khu sân chơi bãi tập và khu tăng
gia sản xuất, khu trồng cây xanh. Ở miền núi, do địa hình dốc nên rất khó có mặt
bằng để xây dựng nên chính quyền địa phương các cấp cần lựa chọn và đầu tư khu
vực thuận lợi (có thể sử dụng sườn đồi thoai thoải) để san lấp mặt bằng nhưng phải
tránh những nơi có nguy cơ sạt lở cao. Phải đảm bảo tối thiểu 10m2/học sinh.
Việc đầu tư xây dựng: Trước mắt có thể tận dụng các cơ sở vật chất sẵn có
của trường TH hoặc THCS, sau đó bằng nguồn vốn cứng hoá và các nguồn khác
của địa phương tiếp tục xây dựng bổ sung theo qui mô từng trường như:
Phòng học, phòng chức năng, khu lưu trú cho GV và học sinh, khu nhà bếp,
khu vệ sinh, tường bao, sân chơi bãi tập... theo hướng đồng bộ và hiện đại.
Đầu tư trạng thiết bị phục vụ công tác dạy và học, công tác nghiên cứu khoa học
theo tiêu chuẩn của trường chuẩn quốc gia. Trang bị máy vi tính, kết nối Internet, máy
chiếu ... để từng bước đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy. Học sinh dân tộc thiểu
số chủ yếu là học sinh nghèo nên các em không có điều kiện tiếp cận khoa học công
14


nghệ, việc đưa khoa học công nghệ vào nhà trường PTDTBT sẽ giúp các em tự tin
hơn và có cơ hội được bình đẳng trong học tập như học sinh ở nơi khác.

Đầu tư xây dựng các khu tường rào bao quanh các khu nhà bán trú để bảo
đảm về an ninh, trật tự. Đầu tư cho các trường PTDTBT, các trường có học sinh
bán trú, các trường có lộ trình chuyển đổi thành các trường bán trú về hệ thống
nước sạch, để bảo đảm về nguồn nước sinh hoạt, sản xuất.
Cấp sách giáo khoa, vở viết và và các đồ dùng học tập khác (không thu tiền)
thông qua các chương trình mục tiêu của Chính phủ. Xây dựng thư viện thân thiện,
thư viện điện tử có đầy đủ trang thiết bị để tạo điều kiện thuận lợi cho các em học
tập và nghiên cứu.
Đầu tư bàn ghế học sinh, bàn ghế giáo viên, bảng chống loá, tủ đựng tài liệu
và hệ thống ti vi, đầu đĩa cho các lớp học…theo tiêu chuẩn về vệ sinh học đường.
Đầu tư khu nhà bếp ăn theo hướng ăn tập trung, các dụng cụ như xoong nồi,
bát đĩa và các dụng cụ nhà bếp khác do địa phương đầu tư. Phải đầu tư đồng bộ và
tiếp cận hiện đại, khang trang.
Xây dựng khu trung tâm nghe nhìn để phục vụ nhu cầu giải trí cho các em
học sinh, ngoài thời gian học tập và lao động ra thì nhu cầu giải trí của các em là
rất lớn.
Kinh phí cho trường PTDTBT cũng phải được ưu tiên, ngoài chế độ cho CB,
giáo viên và học sinh ra cần tăng cường thêm kinh phí tổ chức các hoạt động
chuyên môn, hoạt động ngoại khoá... cho các nhà trường vì ở đây chủ yếu là học
sinh nghèo nên khả năng đóng góp của cha mẹ học sinh là rất ít.
Mặc dù HS và trường PTDTBT được Nhà nước hỗ trợ, đầu tư về điều kiện
ăn, ở, sinh hoạt nhưng thực tế, chưa thể đáp ứng với nhu cầu. Do đó, hiệu trưởng
cần có kế hoạch để huy động thêm các nguồn đóng góp từ cha mẹ học sinh, tổ
chức xã hội, các doanh nghiệp... như ngày công, lương thực, thực phẩm, thiết bị
dạy học, dụng cụ văn hóa, thể dục thể thao vv…để đảm bảo công tác dạy học và
các hoạt động trong nhà trường. Đồng thời cải thiện điều kiện lao động của GV tốt
hơn, nhằm nâng cao hiệu quả công việc và động viên, kích thích sự hăng say nghề
nghiệp, an tâm công tác của CB, GV, NV tại đơn vị.
Biện pháp thứ tám: Thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với học sinh
dân tộc, cán bộ, giáo viên công tác ở trường PTDTBT , trường có học sinh bán trú.


Hiệu trưởng phải nắm vững và thực hiện đúng, kịp thời chế độ chính sách đối
với CB, GV, NV và HS của trường PTDTBT THCS theo quy định. Đi đôi với việc
thường xuyên kiểm tra điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, chế độ được hưởng của HS, cần
công khai minh bạch các nguồn thu chi hàng tuần, hàng tháng, học kỳ để CB, GV,
HS và phụ huynh cùng biết.
15


Trước tiên tận dụng cơ sở vật chất hiện có của các trường TH và THCS đang
sử dụng, có thể đầu tư sửa chữa và nâng cấp nhỏ cho phù hợp với mô hình. Xây
nhà học, nhà lưu trú và công vụ cho học sinh, giáo viên theo nguồn trái phiếu chính
phủ và kiên cố hoá trường học với tinh thần địa phương lo đất, nhân dân san lấp
mặt bằng và vận chuyển vật liệu từ chỗ không thể vận chuyển bằng xe cơ giới.
Xây dựng nhà bếp, nhà ăn, công trình nước sạch, công trình vệ sinh, lắp điện
vào nhà trường, làm sân bê tông, tường bao...bằng nguồn chương trình 135 của
chính phủ giai đoạn 2 kết hợp với sự đóng góp của nhân dân bằng công ích, bằng
vật liệu địa phương và sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trên địa bàn.
Thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đối với học sinh Bán trú. Thực hiện
nghiêm túc chế độ chính sách cho học sinh bán trú theo Quyết định số
85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010.
Biện pháp thứ chín: Thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực cho trường PTDTBT.
Đây là phong trào thi đua rộng lớn đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo triển khai
trong toàn ngành và hoạt động trong giai đoạn 5 năm (từ 2008 đến 2013).Theo đó,
các cơ sở giáo dục phổ thông phải xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân
thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội.
Học sinh phải phát huy tính chủ động, tích cực,
Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” xác
định 5 nội dung gồm:

1. Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn;
2.Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi
địa phương, giúp các em tự tin trong học tập;
3. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh;
4. Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh;
5. Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử,
văn hóa, cách mạng ở địa phương.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Một số kết quả đạt được trong nhiều năm học trở lại đây nhờ có mô hình bán
trú huyện Tân Uyên huy động học sinh đến trường mỗi năm một tăng, đảm bảo
duy trì sĩ số, hạn chế học sinh bỏ học. Đặc biệt tạo điều kiện thúc đẩy phổ cập giáo
dục THCS các xã đúng kế hoạch. Học sinh trọ học mỗi năm một tăng và có tiến bộ
rõ rệt ; biết lễ phép, có ý thức đoàn kết trong tập thể bán trú, mạnh dạn tự tin trong
giao tiếp, tự giác chấp hành nội quy, có thời gian tự học nên đến lớp tiếp thu bài
nhanh hơn, học sinh đã mạnh dạn hơn.
Cụ thể đã đạt được một số kết quả như sau:
16


- Về chất lượng hai mặt giáo dục của học ở bán trú trong những năm qua:
Xếp loại học lực học sinh

Năm học
Giỏi
2010 - 2011
2011-2012
2012-2013
(Học kì I)

Khá


TB

Yếu

Kém

5/868=0.7%

105/868=12.1%

736/868=84.7%

22/868=2.5%

0

9/1080= 0.83%

179/1080 = 16,5 %

810/1080=75%

82/1080= 7.67%

0

274/1407= 17,5%

1062/1407= 76,6%


83/1407=5,8%

0

15/1407 = 1,1%

Xếp loại hạnh kiểm học sinh
Tốt
2010 - 2011
2011-2012
2012-2013
(Học kì I)

567/868 =
65.3%
598/1080=55.4%
890/1407=63.2
%

Khá

TB

Yếu

295/868=34.0%

6/868 = 0.7%


0

475/1080=43.95

7/1080=0.65%

0

506/1407=36.92%

11/1407=0.78%

0

Đến nay đã qua một số năm, kể từ ngày mô hình bán trú được hình thành, mô
hình này đã góp phần rất lớn trong công tác giáo dục của huyện Tân Uyên, làm
thay đổi cơ cấu mặt bằng dân trí. “ Dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đã không ít
học sinh trưởng thành từ mô hình ấy. Cái được lớn nhất mà mô hình quản lý trong
công tác bán trú này đem lại là người dân đã nhận thức rất rõ sự cần thiết phải cho
con em mình, cũng như bản thân học chữ, học văn hoá đến nơi đến chốn, nhiều gia
đình đã xác định dù khó khăn nghèo đói cũng không cho em mình thất học. Đây
cũng là khẩu hiệu hành động để thực hiện quyết tâm của toàn Đảng bộ, Nhân dân
các xã và các nhà trường PTDTBTvới sự nghiệp “trồng người” của huyện Tân
Uyên. Đồng thời đó cũng là mục tiêu, là chiến lược phát triển lâu dài của huyện.
Đến nay, 100% số xã ở xa đã có học sinh đến trọ học bán trú, tỉ lệ trẻ trong độ tuổi
từ 6 - 14 tuổi được huy động tới trường chiếm gần 100%. Số học sinh tốt nghiệp
chiếm trên 95%.
PHẦN KẾT LUẬN
I. Bài học kinh nghiệm
Qua việc nghiên cứu triển khai sáng kiến kinh nghiệm “ Hướng dẫn tổ chức

quản lý học sinh bán trú của các trường PTDTBT”. Trong học kì I, năm học 20122013 bản thân tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho toàn thể xã hội, các tổ chức đoàn
thể cùng tích cực quan tâm, ủng hộ phát triển giáo dục dục nói chung và công tác
bán trú nói riêng. Đặc biệt là tuyên truyền để các bậc cha mẹ học sinh hiểu được
trách nhiệm và nghĩa vụ của gia đình là phải chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục các em
17


trở thành con ngoan, trò giỏi. Tổ chức phổ biến và quán triệt thực hiện tốt các văn
bản chỉ đạo của các cấp về việc thực hiện công tác bán trú. Tích cực tuyên truyền
cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên thấy rõ được hiệu quả của mô hình bán trú
nhằm nâng cao tỉ lệ chuyên cần, nâng cao chất lượng học tập
Hai là, tham mưu với cấp uỷ, chính quyền địa phương cùng tham gia, chỉ đạo
thường xuyên các hoạt động bán trú. Phối hợp với các tổ chức, ban ngành đoàn thể
trong việc chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của các em.
Ba là, xây dựng các kế hoạch, nội dung tuyên truyền, các chuyên đề tập huấn, chao
đổi học hỏi kinh nghiệm giữa các trường có học sinh bán trú trong huyện, trong tỉnh.
Bốn là, đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục: huy động sự đầu tư làm nhà ở
cho học sinh, trang cấp các đồ dùng phục vụ nuôi dưỡng, hỗ trợ lương thực, thực
phẩm cho học sinh bán trú.
II. Ý nghĩa
Quản lý học sinh bán trú đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục dạy
và học cũng như quản lý giáo dục học sinh trong các trường PTDTBT hiện nay.
Quản lý được tiến hành, thực hiện bởi một chương trình, hệ thống các hoạt động
theo những nội dung quản lý do Ban quản lý bán trú, cùng Ban giám hiệu đưa ra
phong phú với các hình thức đa dạng, hấp dẫn và sinh động tương đối có hiệu quả.
Tuy nhiên, thực tiễn chất lượng tổ chức quản lý học sinh bán trú dân nuôi ở các nhà
trường PTDTBT của huyện Tân Uyên trong thời gian qua chưa đạt được kết quả cao
như mong muốn, còn nhiều bất cập, đòi hỏi cần phải đổi mới phương pháp cách
thức quản lý để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước. Trong điều kiện đổi mới của đất nước, những thay đổi lớn lao trong đời sống
kinh tế - xã hội có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển nhân cách của mỗi con người.
Học sinh ngày nay có những bước phát triển mới về chất trong quá trình rèn luyện
và học tập. Các em thường mạnh dạn hơn, có tư duy tốt hơn nhằm định hướng cho
sự phát triển của bản thân. Người Hiệu trưởng phải nắm bắt đúng nhu cầu đó để xây
dựng kế hoạch tổ chức quản lý học sinh nói chung và quản lý học bán trú dân nuôi
nói riêng nhằm thoả mãn nhu cầu nguyện vọng của học sinh, qua đó giúp các em
phát triển những năng lực.
Qua quá trình nghiên cứu tôi nhận thức được rằng Quản lý học sinh có ý
nghĩa quan trọng ở trường PTDTBT. Quản lý học sinh bán trú là một hoạt động đa
dạng và phong phú cùng với các hoạt động dạy học trên lớp và các hoạt động khác
gắn bó chặt chẽ, bổ xung cho nhau, xen kẽ nối tiếp nhau được tiến hành đồng thời
ở trường THCS để tạo nên một kết quả tổng hợp góp phần đào tạo người học sinh
phát triển toàn diện về các mặt: Trí, đức, thể, mĩ.

18


III. Khả năng ứng dụng triển khai
Sáng kiến có khả năng ứng dụng đối với toàn bộ các trường PTDTBT và các
trường phổ thông có học sinh bán trú trên địa bàn toàn huyện và các huyện trong
toàn tỉnh.
IV. Kiến nghị
1. Đối với cấp tỉnh.
Thường xuyên tổ chức hoặc chỉ đạo các phòng Giáo dục và Đào tạo các hội
thảo luận trao đổi kinh nghiệm quản lý bán trú giữa các huyện trong và ngoài tỉnh,
các đợt tập huấn cho cán bộ quản lý nhà trường cũng như giáo viên được giao trách
nhiệm quản lý bán trú của nhà trường.
Tăng cường đầu tư xây dựng nhà trường, đầu tư trang thiết bị theo chuẩn
của Bộ GD&ĐT và từng bước hiện đại hoá trường PTDTBT.

2. Đối với UBND huyện Tân Uyên.
Tạo điều kiện về kinh phí giúp các nhà trường, xã và nhân dân vùng khó khăn
khu vực III có được khu nhà ở vững chắc, để cho học sinh an tâm trọ học đào thêm
một số giếng nước sạch để đảm bảo đủ nước ăn cho học sinh vào mùa khô.
3. Đối với Phòng Giáo dục - Đào tạo huyện Tân Uyên.
Tạo điều kiện cho nhà trường có đủ số lượng theo yêu cầu, thêm biên chế
quản lý học sinh và ổn định giáo viên trong nhiều năm.
Đầu tư và hỗ trợ thêm nhiều về các loại sách tham khảo phục vụ cho những
học sinh ở bán trú cũng như tăng thêm số đầu sách trong tủ sách thư viện của nhà
trường
4. Đối với Đảng uỷ, chính quyền địa phương các xã.
Đối với cấp uỷ chính quyền địa phương đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội
hoá giáo dục, phát huy vai trò của hội đồng giáo dục của địa phương.
Kết hợp các ban ngành đoàn thể trong xã về công tác tuyên truyền vận động
nhân dân. Đảm bảo an ninh khu vực bán trú của các nhà trường được tốt nhất.
5. Đối với cán bộ giáo viên, nhân viên trường PTDTBT.
Nâng cao ý thức trong công tác, trách nhiệm để tạo điều kiện cho công tác
quản lý bán trú các nhà trường. Ban giám hiệu, ban quản lý bán trú, đội ngũ giáo
viên phải đoàn kết hơn nữa, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình và khéo léo, tế nhị
giải quyết các mẫu thuẫn xảy ra giữa học sinh với thanh niên bên ngoài, giữa học
sinh với học sinh ở trong bán trú./.
Tân Uyên, ngày 20 tháng 3 năm 2013
Người viết

19


Nguyễn Tiến Quỳnh

20




×