Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nhận định của anh (chị) về việc thực hiện những phương pháp quản lí hành chính nhà nước trong các cơ quan nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.61 KB, 16 trang )

Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

Đề bài: Nhận định của anh (chị) về việc thực hiện những phương pháp quản lí
hành chính nhà nước trong các cơ quan nhà nước hiện nay.

Trả lời:
Quản lí hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
nhà nước đối với các quá trình và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan có tư
cách pháp nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lí hành chính nhà nước tiến
hành bằng những văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh công, bảo
vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày của nhân dân. Chính vì vậy quản lí là
một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống, xã hội phát triển càng cao thì vai trò của
quản lí càng lớn. Và việc nắm vững các phương pháp quản lí lại có ý nghĩa hết sức quan
trọng nhằm chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hành động của con người
nhằm đạt đến mục tiêu, đúng ý chí của chủ thể quản lí và phù hợp với qui luật khách quan.
Vậy phương pháp quản lí hành chính nhà nước là gì?
Phương pháp quản lí là cách thức tác động của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm
đạt được mục đích đã đặt ra theo một kế hoạch định trước. Phương pháp quản lí phản ánh
mối liên hệ giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí. Phương pháp quản lí phụ thuộc vào
mối liên hệ giữa chủ thể quản lí, đối tượng quản lí và các yếu tố khác như: mục đích, địa
điểm, thời gian của hoạt động quản lí. Trên thực tế, có hai khả năng tác động:
Khả năng thứ nhất là sử dụng tổng hợp những biện pháp và cách thức khác nhau để
đảm bảo đạt được hành vi xử sự cần thiết một cách tự giác.
Khả năng thứ hai là sử dụng tổng hợp những biện pháp và cách thức khác nhau để bắt
buộc thực hiện hành vi xử sự cần thiết.
Kết hợp những khả năng này dẫn đến hình thành những phương pháp quản lý hành chính
sau đây: Phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức, phương pháp tổ chức, phương
pháp hành chính, phương pháp kinh tế.



Trang 1


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

Phương pháp kinh tế:
Là biện pháp mà chủ thể quản lí hành chính nhà nước tác động gián tiếp đến khách thể
quản lí (con người) dựa trên các lợi ích vật chất và các đòn bẩy kinh tế (lương, thưởng,
phụ cấp, chính sách xã hội…) để làm cho các khách thể quản lí suy nghĩ đến lợi ích của
mình, tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mình một cách tốt nhất mà không cần
đôn đốc, nhắc nhở nhiều.
Đặc điểm của phương pháp kinh tế:
- Được thực hiện thông qua việc sử dụng các hình thức kinh tế khách quan. Gắn liền với
việc sử dụng quan hệ hàng hóa-tiền tệ, tức là gắn liền với hạch toán kinh doanh. Thực hiện
tốt biện pháp này nhằm đáp ứng được lợi ích trực tiếp của người lao động. Do đó tạo động
lực thúc đẩy họ hăng say lao động, nâng cao hiệu quả công việc. Phương pháp kinh tế được
thể hiện trong việc sử dụng đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh;
chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt
động có hiệu quả của đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để
hoàn thành nhiệm vụ.
- Phương pháp kinh tế đặt người lao động và tập thể lao động vào sự tự lựa chọn nội
dung và phương thức hoạt động thông qua sự quan tâm của họ đến lợi ích vật chất, vì lợi
ích vật chất thiết thân mà hoạt động có hiệu quả. Thông qua hình thức thưởng và phạt như
làm giỏi, hiệu quả lớn thì tăng lương, tăng thưởng, tăng phụ cấp. Làm sai, hiệu quả không
có thì hạ lương hoặc cắt lương, bồi thường vật chất và xử lý phạt tiền.
. Ví dụ: Việc quy định chế độ thưởng, người lao động nào cũng muốn được thưởng mức
cao nhất. Muốn vậy họ phải cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Qua đó chúng ta thấy được rằng phương pháp kinh tế là phương pháp cơ bản, là động lực
thúc đẩy mọi hoạt động quản lí nhà nước. Vậy quá trình thực hiện phương pháp này trong
các cơ quan nhà nước có mặt tốt và hạn chế như thế nào?
Trang 2


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

Việc áp dụng phương pháp kinh tế trong các cơ quan nhà nước:
 Có hai tác động cơ bản:
-

Thứ nhất: Tác động bằng cách tạo ra sự quan tâm về lợi ích thông qua các kế hoạch, chiến
lược và các chính sách phát triển kinh tế của chủ thể quản lý.

-

Thứ hai: Tác động bằng cách quy cách hóa, tiêu chuẩn hóa các định mức như định mức
khoán, định mức kinh tế-kỹ thuật,định mức tiền lương, định mức thuế, định mức doanh thu
và lợi nhuận… Các định mức này trực tiếp tác động đến lợi ích thiết thân của chủ đầu tư,
người lao động hay của những người thuê, nhận khoán… tạo ra những kích thích lợi ích
vật chất như là những động lực thúc đẩy hay kìm hãm các quá trình kinh tế thông qua các
quyết định có tính lựa chọn về đầu tư và việc làm. Chẳng hạn, với một định mức thuế quan
và một mức thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng hạn chế hàng nhập ngoại và thúc đẩy các đầu
tư nước ngoài lựa chọn phương án đầu tư trực tiếp hơiênn là phương án xuất khẩu hàng
hóa.

 Tiến hành đổi mới, thay đổi quan niệm, mô hình,chính sách và cơ chế quản lí, chuyển sang


phát triển kinh tế hàng hóa.
 Thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế, tuân theo qui luật giá trị, thị

trường, chú trọng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, điều chỉnh quan hệ sản xuất
và các hình thức sở hữu mà thừa nhận và áp dụng phương thức đa dạng hóa các loại hình
phân phối.
 Kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhất là các hợp tác xã ở nông thôn cũng được tổ chức lại

bằng cách áp dụng cơ chế khoán đặc biệt là khoán tới từng hộ gia đình nông dân coi gia
đình nông dân là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn.
 Thừa nhận và tôn trọng quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế.

Trang 3


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

 Nhờ những cách cải tích cực về việc áp dụng phương pháp quản lí nhà nước về kinh tế và

áp dụng nguyên tắc tác động vào các cơ quan nhà nước mà đã đạt được những mặt tốt
như:
+ Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật
chất - kỹ thuật được tăng cường. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm (19902000) đạt 7,5%; năm 2000 so với năm 1990, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm (20012005) của nhiệm kỳ Đại hội IX, GDP bình quân tăng gần 7,5%; cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã được huy động
khá hơn, nhiều lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng đã được phát huy.
+ Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Cơ chế quản lý
doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực

hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh
doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước theo Luật Hợp
tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Số lượng hợp tác xã tuy giảm nhiều so với
trước (mặc dù hằng năm đã xuất hiện nhiều hợp tác xã mới), nhưng nhờ đổi mới cơ chế
quản lý trong hợp tác xã, nên đã bảo đảm được nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp
tác xã tốt hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động khá hơn, mang lại hiệu quả cao hơn trước.
Năm 2005, kinh tế tập thể đóng góp 8% GDP.
+ Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân
dân. Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần
chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các
doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải
quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 96% tổng
số doanh nghiệp ngoài nhà nước) đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn,
Trang 4


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể phi
nông nghiệp đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội (khoảng hơn 6 triệu
người). Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,7% GDP của cả nước.
+ Nhiều cơ quan, tổ chức tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế.
+ Luôn quan tâm, tìm hiểu những biện pháp nhằm nâng cao kỹ thuật trong việc trồng
trọt, chăn nuôi của từng địa phương, và hỗ trợ nguồn vốn tạo điều kiện cho người dân có
thể phát triển công việc của mình. Chính vì vậy mà Việt Nam đang là nước xuất khẩu gạo

đứng hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Bên cạnh đó góp phần làm cho công nghiệp và dịch
vụ phát triển, đầu tư nước ngoài xu hướng chung là tăng, nhiều vấn đề xã hội đang được
giải quyết tốt, cải thiện được mức sống của dân cư ở cả đô thị và nông thôn, tạo tiền đề
phát triển.
+ Thu hút được đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực tổ chức và quản lý
nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước đã từng bước tách
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu
doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển
từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân.
chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống
pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
+ Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đươc nâng lên. Đảng đưa ra đường lối
chiến lược cách mạng nói chung và đường lối chiến lược phát triển kinh tế nói riêng đúng
đắn, có khả năng thực thi trong thực tiễn. Nhà nước bằng chức năng, nhiệm vụ của mình tổ
chức, động viên toàn dân tham gia thực hiện thắng lợi đường lối chiến lược đó của Đảng đề
ra, nhân dân nâng cao tinh thần làm chủ tập thể thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước để
thực hiện có hiệu quả cao các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng đề ra trong từng thời kỳ
cách mạng. Như vậy sự tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước thực sự có ý
Trang 5


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

nghĩa khoa học và thực tiễn trong đời sống xã hội.
+ Giải phóng sức sản xuất, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, lợi ích cá
nhân của người lao động, của các chủ thể sản xuất kinh doanh được chú trọng.
+ Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.

 Mặc

dù tích cực đổi mới phương pháp, cách thức quản lí trong các nhà cơ quan nhà nước

nhưng quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế nên kết quả thu được chưa tương xứng
với kì vọng và tiềm năng của đất nước.
+ Vẫn còn xuất hiện nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
phương thức quản lí hành chính- mệnh lệnh, bình quân. Do đó nhiều nhà máy, xí nghiệp
vẫn còn tình trạng làm ăn thua lỗ, công nhân và lao động không có việc làm hoặc thu
nhập không đủ sống.
+ Lạm phát gia tăng dẫn đến tệ nạn và tiêu cực xã hội phát sinh ngày càng nhiều, xã
hội có nguy cơ mất ổn định suy giảm niềm tin đối với Đảng và Nhà nước.
+ Nhà nước vẫn còn can thiệp quá sâu vào kinh tế, dẫn đến tình trạng hạn chế quyền
tự do, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chiến lược kế hoạch phát triển kinh tế… của các
doanh nhân và doanh nghiệp sản xuất.
+ Chưa bảo đảm cho cả nhà nước và công dân, cho cả cấp trên và cấp dưới, tập thể
và các thành viên tập thể đều có quyền quyết định.
+ Quyền của mỗi bên (nhà nước và công dân, cấp trên và cấp dưới) chưa được xác
lập một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn.
+ Cải cách chế độ tiền lương diễn ra chậm chạp và ít có tác dụng thúc đẩy công
việc.

Phương pháp hành chính:
Là biện pháp tác động trực tiếp của chủ thể quản lí lên các đối tượng bằng các mệnh
lệnh hành chính, quyết định quản lí dứt khoát bắt buộc phải thi hành.
Trang 6


Kiểm tra giữa học phần:


Môn quản lý hành chính nhà nước

Đặc điểm của phương pháp hành chính:
+ Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý bằng cách đơn phương quy định nhiệm vụ và phương án hành động của
đối tượng quản lý.
Chủ thể quản lý có quyền đưa ra nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng
quản lý, có quyền kiểm tra việc thực hiện các mệnh lệnh của mình và có quyền áp dụng các
hình thức kỷ luật nếu mệnh lệnh của mình không được chấp hành.
+ Phương pháp này được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật.
Phương pháp hành chính được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, có nghĩa là các
quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ
thể quản lý do pháp luật quy định.
Ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp chỉ được ra chỉ thị, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong khuôn khổ, chức năng, quyền hạn của mình do pháp luật quy định.
- Phương pháp hành chính chứa đựng quan hệ không bình đẳng giữa các bên tham
gia quan hệ quản lý những vẫn bình đẳng trước pháp luật bởi vì quyền uy và phục tùng,
mệnh lệnh đơn phương, chấp hành và điều hành trong phương pháp hành chính là theo
thẩm quyền, do pháp luật quy định. Như vậy, phương pháp hành chính sử dụng quyền lực
nhưng là quyền lực hợp pháp.
- Trong phương pháp hành chính, một bên nhân danh tổ chức, được dùng quyền lực
của tổchức để ra các quyết định hoặc mệnh lệnh đơn phương mà không cần sự chấp thuận
của bên kia.
- Trong phương pháp hành chính, một bên có quyền đưa ra các yêu cầu, đề nghị, còn
bên kia có quyền xem xét giải quyết hoặc bác bỏ yêu cầu, đề nghị đó.
Tóm lại, phương pháp hành chính là phương thức tác động đến cá nhân, tổ chức thuộc đối
tượng quản lý thông qua quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ, qua những mệnh lệnh và sự
phục tùng. Qua đó cho chúng ta thấy phương pháp hành chính có ý nghĩa làm cho cơ quan
Trang 7



Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

hành chính ổn định về nề nếp, kỹ cương. Ngoài ra còn đảm bảo cho công tác quản lí, điều
hành trong cơ quan nhà nước đạt hiệu quả cao. Vậy phương pháp hành chính là rất cần
thiết và khẩn trương nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn. Sử dụng phương pháp
rất cần thiết trong hoạt động quản lý bởi vì cơ quan quản lý hành chính nhà nước nào cũng
phải dùng quyền lực nhà nước để quản lý. Tuy nhiên phương pháp hành chính phải được
tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và đặc biệt là phương pháp hành chính cần phải kết
hợp với phương pháp kinh tế.
Quá trình thực hiện phương pháp hành chính trong các cơ quan nhà nước:
 Thực hiện phương pháp hành chính bằng những hình thức sau đây:


Ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính: các chủ thể quản lí hành chính
nhà nước có thể giải quyết định bằng chữ viết, bằng lời nói, bằng dấu hiệu, ký hiệu,
trong đó bằng chữ viết là chủ yếu,là đảm bảo tính pháp lí cao nhất.


Hội nghị: là hình thức để tập thể lãnh đạo ra quyết định. Hội nghị còn sử dụng để
bàn bạc một công việc có liên quan đến nhiều cơ quan hoặc nhiều bộ phạn trong
một cơ quan, cần có sự kết hợp, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Hội nghị còn dùng để
truyền đạt thông tin, học tập, biểu thị thái độ, tuyên truyền, giải thích…



Hoạt động thông tin điều hành bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Chẳng hạn:
sử dụng điện thoại, ghi âm, ghi hình, vô tuyến truyền hình, fax, photocopy, máy vi

tính, máy điện toán, internet.

 Phương pháp hành chính có những tính chất cơ bản của nền hành chính nhà nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị

Trang 8


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

- Tính pháp luật: tính pháp luật đòi hỏi các cơ quan hành chính và công chức phải
đảm bảo tính quyền uy, nghĩa là phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng quyền lực, đồng
thời phải tạo dựng uy tín về chính trị, về phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ.
- Tính thường xuyên, ổn định và thích nghi: hoạt động hành chính nhà nước không
được làm theo lối phong trào”, “chiến dịch”. Đội ngũ công chức phải có phẩm chất đạo đức
ngang tầm nhiệm vụ trong mọi thời kì phát triển của đất nước.
- Tính chuyên môn hóa nghiệp vụ cao: đối với các công chức nhà nước, kiến thức
chuyên môn và kĩ năng quản lý điều hành thực tiễn là tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ.
- Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ: tính thứ bậc chặt chẽ đòi hỏi cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, cả nước phục tùng chỉnh phủ trong
việc thực hiện quyết định, chỉ thị và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên, của thủ
trưởng.
- Tính không vụ lợi: Hành chính nhà nước chỉ có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và
lợi ích công dân, không theo đuổi mục tiêu danh lợi.
- Tính nhân đạo: Bản chất nhà nước ta là dân chủ, do dân, của dân và vì dân. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong luật pháp, cụ thể là trong pháp luật hành chính,

những thể chế, quy tắc, thủ tục hành chính phải xuất phát từ lợi ích của dân, từ tấm lòng
thật sự thương dân, phải đơn giản, trong sáng, tôn trọng con người và đem lại sự thuận lợi
cho dân.


Kết quả đạt được của cải cách hành chính trong 5 năm qua:

Cải cách hành chính đã được triển khai đồng bộ trên 4 lĩnh vực chủ yếu: thể chế, tổ chức
bộ máy, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công, từng
bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính, hỗ trợ tích cực và

Trang 9


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

thúc đẩy quá trình cải cách, đổi mới toàn diện của đất nước. Có thể đánh giá chung về kết
quả của cải cách hành chính nhà nước trong 5 năm qua như sau:
- Hệ thống thể chế pháp luật từng bước được đổi mới và hoàn thiện, góp phần xây
dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảo và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Về cơ bản, các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chuyển nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được
thể chế hoá, thông qua gần 100 văn bản luật, pháp lệnh ban hành 5 năm qua đã tạo dựng và
hoàn thiện khung pháp lý cho các thành phần kinh tế, cho người dân làm ăn và sinh sống.
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước được
điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong kink tế thị trường.
Đã thực hiện điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước giữa các cấp hành chính cho

phù hợp với tình hình thực tiễn, trên nguyên tắc mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách,
khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Chính quyền địa phương
được phân cấp nhiều hơn, nhất là trong các lĩnh vực ngân sách, tài chính, biên chế, đầu tư,
đất đai, y tế, giáo dục v.v…
- Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương được
điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn. Đồng thời với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh
tế, từng bước làm rõ phạm vi và nội dung chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực,
trong những năm qua, đã tiến hành nhiều đợt sắp xếp, điều chỉnh lại tổ chức bộ máy các cơ
quan hành chính nhà nước.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước được
nâng lên. Công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thời gian qua được quan
tâm triển khai trên diện rộng, kết hợp huy động nhiều giải pháp và đã đạt được một số kết
quả tích cực.
- Phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ ngành trung ương và Uỷ ban nhân
dân (UBND) các cấp có bước đổi mới.

Trang 10


Kiểm tra giữa học phần:


Môn quản lý hành chính nhà nước

Tuy nhiên, Ở Việt Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới
nảy sinh cần phải được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu
hoá đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi phải có những cố
gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất
nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Cái khó trong cải cách hành chính Ở Việt
Nam là phải tiến hành một cuộc cải cách hành chính có tính chất cách mạng từ quản lý lập

trung quan liêu, bao cấp sang quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân
chủ. Điều này chưa từng có tiền lệ. Vì vậy, bên cạnh việc tự tìm tòi thì việc tham khảo kinh
nghiệm cải cách hành chính ở các nước là hết sức cần thiết để đẩy mạnh và có kết quả hơn

-

nữa công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm, nhưng nội dung căn bản của lý
thuyết" nhà nước pháp quyền" là sự đề cao pháp luật trong mối tương quan với nhà nước,

-

pháp luật như là công cụ để hạn chế quyền lực nhà nước.
Khó khăn trong việc cải cách thể chế chính trị để hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ,
bảo đảm dân chủ và phát huy quyền làm chủ của mọi người dân. Chưa nâng cao được năng
lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập
quốc tế. Xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh, có thực lực và thực quyền trong quản
lí kinh tế và điều hành xã hội. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức hiện đại với các tiêu
chí: thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, đề cao trách nhiệm xã hội và đạo đức công chức,

-

tăng cường kỹ thuật công vụ.
Nhận thức không đầy đủ, thậm chí không đúng về dân chủ: tách rời quyền và nghĩa vụ, lợi

-

ích và trách nhiệm.
Luật pháp không đồng bộ và thực thi pháp luật không nghiêm minh. Sự yếu kém về ý thức
pháp luật cả trong đội ngũ công chức và trong dân. Thiếu vắng chế độ trách nhiệm và các


-

chế tài trong xử lý.
Bệnh quan liêu, nạn hội họp, giâý tờ, bệnh hình thức, phô trương, nói nhiều làm ít, lời nói

-

không đi đôi với việc làm còn phổ biến và nghiêm trọng.
Đội ngũ công chức chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ, tính chuyên nghiệp không
cao, không ít người trong số họ chưa được đào tạo cơ bản và hiện đại. Trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước và đoàn thể vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Thừa người yếu kém, thiếu
Trang 11


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

người tài giỏi, nhất là rất thiếu chuyên gia đầu ngành.
 Nghị quyết ĐH lần thứ XI của Đảng đã dành một mục lớn nói về nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, trong đó nhấn mạnh một số vấn đề:
“Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước
với thị trường; hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển biến mạnh về cải cách hành
chính; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà
nước”.
Trên tinh thần đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, cần
thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
• Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân vững mạnh, dưới

sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai
cấp công nhân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng là công cụ chủ yếu để cùng với MTTQ và các đoàn thể nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân về chính trị, kinh tế và xã hội, tạo ra động lực mạnh thúc đẩy kinh tế
phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.
• Cải cách bộ máy, thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước theo phương châm “thà
ít mà tốt”.
Một là: Phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức lập pháp, hành
pháp, tư pháp, các mối quan hệ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức đó với nhau, tinh gọn
tổ chức, bộ máy và biên chế; khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng làm ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Hai là: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hiện đại hóa nền hành chính
quốc gia, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công
chức, chính sách tài chính công, xây dựng chính phủ điện tử và từng bước hiện đại hóa nền
hành chính Nhà nước.
Ba là: Xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ
Trang 12


Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

thống pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn
an sinh và phúc lợi xã hội. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược quy hoạch và
bằng các nguồn lực, các chính sách hướng các quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ
thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của
sự phát triển của đất nước.

Bốn là: Tiến hành tốt việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường, rút kinh nghiệm để nhân rộng ra phạm vi cả nước.


Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế.
Một là: Phát huy dân chủ trong việc bầu cử, ứng cử, bảo đảm chất lượng và cơ cấu các
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Hai là: Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều
kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ tham gia quản lý xã hội nói chung và kinh tế nói
riêng, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ
hình thức, dân chủ cực đoan.
Ba là: Đổi mới và thực hiện cơ chế “một cửa” không gây khó khăn, phiền hà, sách
nhiễu với dân; xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các cơ quan và cán bộ, công chức để
tạo ra bước chuyển rõ nét trong việc giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân,
đặc biệt là những khiếu nại về đất đai, tham ô, tham nhũng tác động xấu đến sự phát triển
tăng trưởng kinh tế.
Bốn là: Bằng các chính sách, biện pháp thích hợp chăm lo cho con người, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người dân.
Năm là: Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế,
quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của mọi tổ chức và cá nhân.



Đấu tranh phòng, chống độc quyền kinh tế.
Ở nước ta hiện nay đã và đang xuất hiện độc quyền kinh tế. Trước hết là độc quyền
giá bán một số mặt hàng nhập từ các tập đoàn kinh tế lớn nước ngoài, do một số doanh
Trang 13



Kiểm tra giữa học phần:

Môn quản lý hành chính nhà nước

nghiệp trong nước được Chính phủ giao quyền nhập và bán. Họ câu kết với nhau để tăng
giá bán, thu lợi nhuận cao một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Trong
thời gian qua, tình trạng này đã diễn ra ở mặt hàng sữa của trẻ em và thuốc chữa bệnh nhập
ngoại.
Để ngăn ngừa tình trạng độc quyền giá bán và giá mua, đòi hỏi Nhà nước phải ban
hành đầy đủ quy chế quản lý giá bán và giá mua phù hợp với quy luật cung cầu hàng hóa.
Đó là điều cần thiết đối với quản lý kinh tế nói chung và quản lý giá cả nói riêng trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.


Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực tổ chức và quản lý nền kinh
tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN.
Cán bộ là cái gốc để hoàn thành tốt mọi công việc. Vì vậy, cần hoàn thiện chế độ công vụ,
quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc,
trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Tăng cường cán bộ cho cơ sở, nhất là miền
núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều khó khăn. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức... Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn

để họ yên tâm phấn khởi làm việc.
• Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
• Cần phải quán triệt các quan điểm, nguyên tắc trong việc tiếp tục cải cách bộ máy, xây
dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN, xây dựng chiến lược cải cách
hành chính.


Thâu suốt những tư tưởng chỉ đạo tiến trình hành chính nhà nước. Tiến trình cải cách hành

chính nhà nước: xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, sát với hoàn cảnh thực tế của đất nước
đồng thời phải thích ứng với xu thế của thời đại, nhằm thu hút được kết quả thiết thực, tác
động tích cựcđến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.



Tiếp tục chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước, phân định lại thẩm quyền, phân cấp,
phân công thẩm quyền, ủy quyền cụ thể rõ ràng, xây dựng quy chế hoạt động của hệ thống
quản lí hành chính nhà nước, đặc biệt đối với chính quyền địa phương.
Trang 14


Kiểm tra giữa học phần:


Môn quản lý hành chính nhà nước

Đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ - công chức quản lí hành chính cả về lí luận chính trị,
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực, kỹ năng điều hành thực tiễn, trước
hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt, coi trọng đức và tài, trong đó đức là gốc.



Thực hiện pháp lệnh cán bộ - công chức hoàn thiện chế độ công vụ.



Nâng cao hiệu lực hoạt động của tòa án hành chính.




Định hướng phát triển kinh tế là xácđịnh con đường và định hướng sự vận động của nền
kinh tế nhằm đạt đến một mục đích nhất định.



Sự cần thiết khách quan của chức năng định hướng phát triển nền kinh tế: Sự vận hành nền
kinh tế thị trường mang tính tự phát và tính không xác định rất lớn. Do đó nà nước phải
thực hiện chức năng phát triển nền kinh tế của mình.



Phạm vi định hướng phát triển nền kinh tế bao gồm: toàn bộ nền kinh tế, các ngành kinh tế,
các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế.
Nhà nước không có chức năng định hướng phát triển cho từng doanh nghiệp ngoài nhà
nước mà căn cứ vào định hướng phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp tự xác định
hướng phát triển của mình.



Nội dung định hướng phát triển nền kinh tế: xác định mục tiêu chung dài hạn. Mục tiêu này
là cái đích trong một tương lai xa, có thể vài chục năm hặc xa hơn.



Nhiệm vụ của nhà nước để thực hiện chức năng định hướng phát triển: phân tích đánh giá
thực trạng của nền kinh tế hiện nay, những nhân tố trong nước và quốc tế có ảnh hưởng
đến sự phát triển hiện tại và tương lai của nền kinh tế nước nhà, dự báo phát triển kinh tế,
hoạch định phát triển kinh tế.


Trang 15


Kiểm tra giữa học phần:


Môn quản lý hành chính nhà nước

Khi đưa ra mệnh lệnh hành chính nhà quản lí phải căn cứ trên các điều kiện khách quan và
chủ quan để có quyết định đúng.



Cần theo dõi, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh kịp thời trong quá trình thực hiện mệnh lệnh
hành chính.



Công khai, công bằng, dân chủ trong đánh giá. Tránh lạm dụng việc sử dụng phương pháp
này để mang lại lợi ích cho một số người hoặc dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh.
Tóm lại, các phương pháp quản lí hành chính nhà nước có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Phương pháp kinh tế là phương pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động
quản lí nhà nước. Còn phương pháp hành chính là rất cần thiết và khẩn trương, nhưng phải
được sử dụng một cách đúng đắn. Bởi vậy mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng
nên cần sử đồng bộ các phương pháp trên mới nâng cao được hiệu quả và hiệu lực quản lí.

-

HẾT -


Trang 16



×