Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 4 tuổi thông qua giờ kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.57 KB, 21 trang )

PHÒNG GD&ĐT ………………………

TRƯỜNG MẦM NON ……………………..
------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ 3-4 TUỔI THÔNG QUA GIỜ KỂ CHUYỆN

Người thực hiện:
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN ……………
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Văn học

THANH HOÁ, NĂM 2016

1


MỤC LỤC
STT


hiệu

Tiêu đề

Trang

1



Mục lục

1

2

Danh mục chữ cái viết tắt

2

3

1

Đặt vấn đề

3

4

2

Giải quyết vấn đề

4

5

2.1


Cơ sỡ lý luận

5

6

2.2

Thực trạng của vấn đề

6

Các giải pháp, biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề

7

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

17

Kết luận

18

7

2.3

8


2.4

9

3

10

3.1

Bài học kinh nghiệm

19

11

3.2

Ý kiến đề xuất

19

2


CÁC DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT

Các chữ cái


Chữ được viết tắt

1

PGD&ĐT

Phòng giáo dục và đào tạo

2

BGH

Ban giám hiệu

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

T

Tốt

5

K


Khá

6

TB

Trung bình

7

Y

Yếu

3


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt là giai đoạn đầu tiên cho nền
móng sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.
Như chúng ta đã biết giáo dục trẻ mầm non là việc đầu tiên của quá trình đào tạo
con người mới, xã hội chủ nghĩa xong toàn về “đức – trí – thể - mĩ”, việc đào
tạo con người phải bắt đầu ngay từ thuở lọt lòng, chúng ta hình thành cho trẻ
những cơ sở ban đầu phát triển tốt về mọi mặt, xây đắp cho trẻ nền tảng nhân
cách, trang bị cho trẻ một hành trang kiến thức sau này.
Đối với trẻ 3 – 4 tuổi phạm vi tiếp xúc còn hạn chế, khả năng nhận thức lại
phát triển, cái gì trẻ cũng muốn biết, muốn khám phá, trẻ hay đặt câu hỏi: tại
sao? vì sao? cái gì?... Vì vậy môn vãn học có vai trò rất quan trọng đặc biệt

không thể thiếu được. Môn văn học giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và khám
phá. Ngôn ngữ còn là phương tiện hình thành, phát triển, nhận thức của trẻ về
thế giới xung quanh, giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường
xung quanh thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn. Trẻ làm quen với sự vật
hiện tượng có trong môi trương xung quanh, nhờ có văn học mà trẻ nhận biết
ngày càng nhiều sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng
ngày.
Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành một
thành viên của cộng đồng
Nhờ có văn học thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận những
chuần mực đạo đức của xã hội và hòa nhập vào xã hội tốt hơn. Đặc biệt trẻ 3 – 4
tuổi có số lương từ tăng nhanh.
4


Chính vì vậy mỗi một sáng kiến kinh nghiện là một quá trình trắc nghiệm
tìm tòi khám phá và sáng tạo, với tôi môn văn học trong trường mần non là một
trong những môn văn học giúp trẻ hiểu sâu sắc nhất về thế giới, giúp trẻ phát
huy tính sáng tạo, phát triển thế giới nội tâm phong phú và sâu sắc, bởi trẻ em
luôn sống nặng nề cảm xúc, hồn nhiên, trực giác, dễ cảm thông và hòa nhập vào
mọi vật. Vì vậy là cô giáo mầm non trực tiếp nuôi dạy, tiếp xúc với trẻ.
Tôi luôn tìm tòi khám phá sáng tạo những phương pháp mới trong chương
trình bồi dưỡng thường xuyên để giúp trẻ tiếp nhận những kiến thức đạt hiệu
quả cao nhất, môn văn học chính là sự gặp gỡ những giá trị nhân văn của văn
học với sự tiếp súc hồn nhiên, thơ ngây vô cùng trong sáng của trẻ thơ vậy tôi đã
ấp ủ tìm tòi, sáng tạo ra những phương pháp khác nhau trong quá trình 1 năm
học nuôi dạy trẻ từ đó tôi quyết định viết sáng kiến kinh nghiệm về môn học
này.
Là giáo viên được nhà trường phân công phụ trách lớp 3 – 4 tuổi tôi nhận
thấy văn học đóng vai trò rất quan trọng. Thông qua truyện thơ, đối với giờ

truyện thơ việc luyện phát âm cho trẻ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, nói rõ ràng,
mạch lạc, cung cấp nhiều từ mới, làm phong phú vốn từ cho trẻ là rất quan
trọng.
Như vậy qua giờ kể chuyện chúng ta cung cấp cho trẻ một lượng từ mới
làm phong phú vốn từ cho trẻ, giúp trẻ hiểu về thế giới vạn vật, về môi trường
xung quanh, về lối sống đạo đức con người. (Đó là tình yêu thương con người,
yêu thiên nhiên, đất nước... ). Giờ kể chuyện được đóng vai, bắt chước các nhân
vật trong chuyện, làm tăng tính mạnh dạn cho trẻ, tự tin trong giao tiếp sau này.

5


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sỡ lý luận của sang kiến kinh nghiệm
Ngôn ngữ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những
đặc trưng khác nhau tùy thuộc độ tuổi của trẻ.
Trẻ 3- 4 tuổi sự phát triển ngôn ngữ của văn học mạch lạc chịu ảnh hưởng
lớn của việc tích cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trỡ nên được mở rộng hơn,
có trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện, khả năng nói trình bày ý
nghĩa hiểu ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển.
Vì vậy trẻ hay bắt chước hành động và lời nói của người lớn, ngôn ngữ của
trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con người và sự vật hiện
tượng xung quanh trẻ.
Để đáp được vấn đề này đòi hỏi ngôn từ của người lớn phải rõ ràng trong
sáng và biểu cảm thông qua nhiều phương tiện khác nhau như. Trò chuyện các
giờ học, giờ chơi, trong sinh hoạt hàng ngày, rèn luyện và phát triển vốn từ cho
trẻ, giúp trẻ biết lắng nghe, hiểu và phát âm chính xác âm thanh tiếng mẹ đẻ, biết
đóng vai các nhân vật trong câu chuyện, từng bước hướng dẫn trẻ biết diễn đạt ý
muốn của mình cho người khác hiểu, dạy trẻ nói câu đầy đủ, rõ ràng, rõ nghĩa,
chính xác.... đảm bảo tính giáo dục, tính khoa học và tính vừa sức.

Bằng các hình tượng văn học mở ra cho cuộc sống với xã hội và thiên
nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người, những hình tượng đó giúp trẻ
nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học.
Niềm khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc
kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ của mình để kể chuyện. Đây là
6


một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi kể chuyện trẻ phải tự nhớ ra nội dung
câu chuyện, cách diễn đạt của nhân vật.
Yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng truyền đạt ý
nghĩa của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu cảm. Những kỹ
năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ thống bằng con
đường luyện tập thường xuyên hàng ngày.
Từ những cơ sỡ lý luận trên tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài văn học. “Một số
biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua giờ kể chuyện”.
Nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ mầm non hiện nay.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình giảng dạy tôi thấy phần trăm trẻ biết kể chuyện còn rất thấp,
vì vậy tôi thường xuyên chú trọng tổ chức hoạt động cho trẻ kể theo các chủ
điểm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi đã gặp một số thuận lợi và khó
khăn sau.
a. Thuận lợi:
Trường mầm non Quảng Hải là một trường đang còn khó khăn về cơ sở vật
chất, một số phòng học chưa đủ diện tích cho trẻ hoạt động xong không phải vì
thế mà cán bộ giáo viên chúng tôi xa nhảng việc quan tâm đến chất lượng dạy
học và chăm sóc trẻ. Trường có nếp sống văn hoá tốt, chị em trong trường quan
tâm, chia sẻ đùm bọc lẫn nhau. Được sự quan tâm của PGD&ĐT Huyện Quảng
Xương, UBND xã Quảng Hải, đã sửa chữa cho trường một số phòng học rộng
rãi và thoáng mát, sạch đẹp hơn. Đồ dùng dạy và học của cô và trẻ tương đối

đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lên lớp.
BGH nhà trường luôn tạo điều kiện đầu tư đồ dùng dạy học cho các lớp,
đăng ký với chuyên viên PGD&ĐT mua các tài liệu kịp thời cho giáo viên tham
khảo, mặt khác thường xuyên kiểm tra đôn đốc về mọi mặt thúc đẩy quá trình
chăm sóc – giáo dục trẻ. Tạo điều kiện cho giáo viên thăm lớp, dự giờ học hỏi
kinh nghiệm.
7


Nhà trường thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh về
cách nuôi dạy con theo khoa học. Do đó phụ huynh đã nhận thức , tin tưởng và
quan tâm đến việc học tập và nuôi dưỡng của nhà trường, đưa con đi học ngày
một đông hơn.
Về phía phụ huynh: Đa số các bậc phụ huynh rất quan tâm đến việc học
hành, chăm sóc các cháu. Luôn có sự ủng hộ nhiệt tình về tinh thần, vật chất để
nhà trường làm tốt công tác chăm sóc, giáo dục trẻ.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, khỏe, năng động, nhiệt tình, yêu nghề, mến
trẻ, luôn có ý thức tự học hỏi, rèn luyện tham khảo sách báo... có trình độ
chuyên môn cao đẳng, thường xuyên thăm lớp dự giờ để đúc rút kinh nghiệm.
Biết lắng nghe ý kiến cũng như học hỏi đồng nghiệp để tự điều chỉnh bản thân.
Trẻ trong nhóm lớp được phân chia theo độ tuổi, khẻo mạnh, đi học đều nên
trẻ rất hiếu động và thông minh.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì không ít gặp những khó khăn.
Đa số đời sống dân cư trên địa bàn xã chủ yếu là nông thôn, đi biển nên khả
năng ảnh hưởng tiếng địa phương còn nhiều, hay nói lắp....Vì vậy khó khăn cho
việc dạy trẻ phát âm tiếng phổ thông.
Phụ huynh phần lớn là người dân thu nhập thấp nên rất khó khăn trong việc hỗ
trợ đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động văn học cho trẻ.
Sự nhận thức của một số phụ huynh chưa đầy đủ, chưa hiểu sâu về tầm quan

trọng của ngành học mầm non.
Tuy trẻ cùng độ tuổi nhưng khả năng nhận của trẻ không đồng đều dẫn đến
việc truyền đạt kiến thức khó khăn trong việc tổ chức hoạt động giờ kể chuyện.
Đa số trẻ mới đi học nên còn nhút nhát chưa quen với môi trường mới nề nếp
thói quen chưa ổn định.
Thời gian đầu năm học đến trường, trẻ chưa quen với môi trường mới xa bố
mẹ, người thân trong gia đình, trẻ chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế việc cho trẻ
8


phát triển vốn từ đang còn hạn chế như trẻ còn nhút nhát, nói tiếng địa phương
là chủ yếu, một số trẻ hay nói ngọng, phát âm không rõ ràng.
Ở lớp 3-4 tuổi do tôi phụ trách có tổng số trẻ là 45. Trong đó có 25 cháu trai
và 20 cháu gái, có một cháu gái bị tự kỹ, đầu năm đến lớp cháu không biết nói
và chỉ chơi 1 mình và không biết tự phục vụ vệ sinh cho mình nhưng qua một
thời gian tôi đã rất cố gắng và phối hợp với gia đình dạy cho cháu nói được và
hoà nhập cùng bạn bè trong lớp cho đến bây giờ thì cháu đã nói được rất nhiều
và nói được những câu dài, khi muốn đi vệ sinh cháu biết gọi cô và được cô dẫn
đi sau đó biết tự vệ sinh cho mình. Cháu hoà nhập với các bạn trong lớp tuy
chưa mạnh dạn như các bạn bình thường nhưng còn những tháng cuối năm tôi sẽ
hết sức cố gắng phối hợp với gia đình hoà nhập cho cháu giống để cháu trở
thành 1 trẻ bình thường giống như các bạn trong lớp
Vì vậy kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học cuả lớp tôi là:

9


Số trẻ trong lớp
học 45


Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm

Số

Tỷ

Đạt
K
Số Tỷ

trẻ

lệ %

trẻ

lệ %

trẻ

lệ %

trẻ

lệ %

5

11%


20

44%

15

33%

5

11%

2

4%

5

11%

20

44%

18

40%

5


11%

10

22%

15

33%

15

33%

7

16%

13

29%

15

33%

10

22%


T
Nội dung điều tra

1.Trẻ nhớ được
tên truyện và nội

TB
Số Tỷ

Chưa đạt
Y
Số Tỷ

dung câu truyện.
2.Trẻ đóng vai
các nhân vật, phát
triển được cử chỉ,
giọng điệu của
nhân vật
3.Trẻ nói được
câu phức
4.Trẻ phát âm rõ
ràng mạch lạc

Vì vậy để khắc phục và giải quyết thực trạng trên. Tôi đã suy nghĩ và tìm ra một
số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ ngày càng phong phú hơn.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
2.3.1. Các giải pháp.
Nghiên cứu các tài liệu và thực hiện các biện pháp vào giờ dạy kể chuyện
để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi.

10


Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ nhớ tên chuyện, nhớ nội dung
câu chuyện.
Đặc biệt chú ý đến trẻ khuyết tật, chậm phát triển....
Chuẩn bị bài chu đáo, đồ dùng dạy phù hợp, kết hợp dùng phương pháp tích
hợp, lồng ghép các bộ môn để thực hiện dạy trẻ tốt.
Có phong cách sư phạm, yêu nghề mến trẻ, nâng cao nhận thức và trình độ
của mình, học bồi dưỡng thường xuyên và học hỏi đồng nghiệp, quan tâm đến
tâm sinh lý với lứa tuổi của trẻ.
Sưu tầm các hình ảnh, tranh ảnh, các trò chơi, các hoạt động, làm đồ dùng
trực quan để cho trẻ tham gia ở mọi lúc, mọi nơi.
Trẻ 3-4 tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với hoạt động
nay.Chính vì vậy mà tôi muốn thông qua giờ kể chuyện, để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ tốt hơn. Tôi miệt mài nghiên cứu tài liệu và đưa ra một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua giờ kể chuyện như sau.
2.3.2 Các biện pháp thực hiện.
a. Biện pháp 1: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong
chương trình đổi mới.
Cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn
ngữ tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao.
Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường bằng cách đưa
hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc
khác, thể hiện trên các mảng từng, vẽ và sưu tầm một số truyện tranh đưa vào
giảng dạy, và đưa vào các góc văn học cho trẻ hoạt động hàng ngày.
Để giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao thì đồ dùng phục vụ giờ dạy phải đảm
bảo. đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn, không có cạnh
sắc nhọn, vệ sinh sạch sẽ không có bụi bẩn.
Nếu là tranh phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, kích cở đủ vừa tầm quan sát

của trẻ.

11


Bên cạnh đó trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn tận dụng những bức tranh
vẽ trên tường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức
tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tôi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau
kể chuyện về các con vật đó... hình thức này đã giúp trẻ có nhiều ý tưởng hay và
có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển
một cách phong phú và đa dạng.
Để chuẩn bị kỹ giờ dạy trước khi lên lớp. Phải nguyên cứu kỷ yêu cầu của giờ
kể chuyện cả về kiến thức, kĩ năng và giáo dục đạo đức.
Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện ”Cô bé quàng khăn đỏ”
* Về kiến thức:
- Trẻ biết tên câu chuyện, biết tên nhân vật và hành động của các nhân vật trong
chuyện.
- Đọc được các từ khó trong câu chuyện.
- Biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô.
- Trẻ hiểu nội dung câu chuyện.
“Cô bé quàng khăn đỏ vì không vâng lời mẹ dặn đi đường vòng qua rừng nên đã
gặp chó sói. Vì quá ngây thơ cô bé đã chỉ đường cho chó sói đến nhà bà ngoại
và chó sói đã ăn thịt cả hai bà cháu”
* Về kĩ năng:
- Trẻ nhận biết và phân biệt được các nhân vật, như mẹ, bà ngoại, chó sói, bác
thợ săn, sóc nâu.
* Về giáo dục:
- Thông qua nội dung truyện giáo dục trẻ biết vâng lời người lớn.
* Về kĩ năng ngôn ngữ:
- Trẻ trả lời được tên truyện

- Trẻ cảm nhận được ngữ điệu của các nhân vật thông qua giọng kể của cô.
Giọng mẹ: Nhẹ nhàng, âu yếm
Giọng cô bé: Trong trẻo
Giọng chó sói: Ồm ồm
- Dạy trẻ diễn đạt mạch lạc, trả lời cả câu...
- Giáo án cho giờ dạy kể chuyện phải soạn một cách chu đáo, đầy đủ các bước,
đảm bảo nội dung với hệ thống câu hỏi mở và nội dung tích hợp phù hợp, phải
trình bày sạch sẽ, khoa học, có các bước của một giáo án đủ.
Ví dụ:
1. Mục đích yêu cầu.
12


* Kiến thức
* Kỹ năng.
* Giáo dục
II. Chuẩn bị:
III.Trình tự tiến hành.
* Hoạt động 1.
* Hoạt động 2.
* Hoạt động 3
* .................
- Hệ thống câu hỏi tôi đưa ra phù hợp với độ tuổi, kích thích trẻ nhận biết,
phân biệt sự vật hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ’
Chuẩn bị: Tranh vẽ đẹp, sinh động, kích thước phù hợp không quá to mà cũng
không quá nhỏ. Tranh cô bé quàng khăn đỏ, bà ngoại, mẹ, chó sói, bác thợ săn.
b. Biện pháp 2: Nội dung tích hợp
Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích
hợp các môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay

đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố,
những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
Ví dụ: Bài thơ “Thỏ bông bị ốm” “Ong và bướm”, “Cá vàng bơi”...hoặc cho
trẻ đọc thuộc các đố về con chó, con mèo, con lợn, con cá. Con gà...hay một số
bài đồng dao, ca dao ”Vè chim”, “Đi cầu di quán”...
Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn
tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Một con vịt”,
“Đố biết con gì”, “Trời nắng trời mưa”...giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào
trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố
câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở
dạng động như trò chơi: Mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng trời mưa, cáo
và thỏ...
Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện là việc
cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lứa tuổi
này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên.
c. Biện pháp 3: Trình tự tiết học
13


Để có một tiết dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học tập
đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt kết quả cao. Trong lớp học tôi chia ra
từng tổ, trong mỗi tổ đều có các cháu có khả năng tiếp thu bài khác nhau: giỏi
có, khá có, trung bình và yếu cũng có. Đối với những cháu khuyết tật như khiếm
thị tôi sắp xếp cho trẻ ngồi ở gần cô, thuận lợi cho việc nghe, nhìn của trẻ.
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi trong giờ kể chuyện đạt kết quả cao
tôi đã tiến hành như sau:
Hoạt động 1: Gây hứng thú cho trẻ.
Bằng các thủ thuật: Câu đố, thơ, bài hát, bài vận động có nội dung thích hợp tôi
nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung vào giờ kể chuyện.

Ví dụ: Trong giờ kể chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ” tôi cho trẻ chơi trò
chơi vận động “Bắt bướm” và cùng trò chuyện với trẻ về nội dung bài.
Hoạt động 2: Nội dung chính.
Trong giờ kể chuyện tôi luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ nhiều, chú ý sữa
sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng. Cô luôn sử dụng các câu hỏi mở để trẻ tư duy
và kích thích trẻ trả lời. Trình tự có thể thực hiện như sau:
- Cô kể cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện lần 1 bằng cử chỉ, điệu bộ.
- Sau đó cô kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 2 bằng tranh minh họa. dùng câu hỏi
đàm thoại trực tiếp với trẻ.
Ví dụ: Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ” câu
chuyện sẽ hay hơn khi có tranh minh họa. Trong tranh có từ “Cô bé quàng khăn
đỏ”
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì nhỉ? (Trẻ trả lời, chuyện “Cô bé
quàng khăn đỏ” ạ)
- Trong chuyện có những nhân vật nào? (cô bé quàng khăn đỏ, sóc nâu,mẹ, bà
ngoại, chó sói, bác thợ săn)
- Mẹ sai cô bé quàng khăn đỏ đi đâu? (mang bánh sang biếu cho bà ngoại)
-Trước khi đi mẹ dặn cô làm sao? (con đi đường thẳng đừng đi vòng qua rừng
mà chó sói ăn thịt đấy)
- Cô bé có nghe lời mẹ dặn không? ( cô bé không nghe)
-Trên đường đi cô bé gặp ai? ( cô bé gặp sóc nâu ạ)
- Sóc nâu nhắc nhở cô bé, cô bé có nghe không? (cô bé không trả lời sóc nâu)
- Đi đến cửa rừng cô bế quàng khăn đỏ gặp ai? ( cô bé gặp cho sói ạ)
- Ai đã ăn thịt bà ngoại cô bé? (chó sói đã ăn thịt bà ngoại cô bé ạ)
14


- Ai dã giả làm bà ngoại cô bé? ( con chó sói ạ)
- Cô bé quàng khăn đỏ dã bị ai ăn thịt? (bị con chó sói ăn thịt ạ)
- Ai đã cứu hai bà cháu? (bác thợ săn ạ)

- Bác thợ săn cứu hai bà cháu bằng cách nào? (bác lấy búa bổ vào đầu chó sói)-- Vậy cô bé quàng khăn đỏ có nghe lời mẹ dặn không? ( không ạ)
- Vì không nghe lời mẹ dặn nên cô bé quàng khăn đỏ đã gặp nguy hiểm đấy!
- Các con nhớ phải biết vâng lời ông bà, bố mẹ, mới là bé ngoan đấy nhớ chưa.
- Cô kể lần 3: Sửa dụng tranh với từng nhân vật có hành động.
- Sau đó tôi cho trẻ đóng các vai của từng nhân vật, dạy cho trẻ nói giọng của
từng nhân vật. Như giọng của mẹ thì nhẹ nhàng âu yếm. Giọng của cô bé thì
trong trẻo. Giọng của chó sói thì ồm ồm.
Hoạt động 3: Kết thúc giờ học.
Bằng nhiều cách khác nhau tôi cho trẻ kết thúc giờ học một cách nhẹ nhàng
thoải mái.
Ví dụ: Kết thúc giờ học tôi cho trẻ hát và vận động bài hát “Mẹ yêu không nào”
d. Biện pháp 4: Biện pháp giáo dục đặc biệt.
Tuy cùng một lứa tuổi nhưng khả năng tiếp thu bài, và nhận thức của mỗi trẻ
lại khác nhau. Có cháu tiếp thu nhanh, có cháu tiếp thu chậm. Vì vậy việc áp
dụng giáo dục đặc biệt là điều không thể thiếu để chất lượng học được nâng lên
nhanh chóng. Như vậy trẻ thông minh được phát huy còn trẻ chậm được cô giúp
đỡ dành nhiều thời gian để tiếp thu bài tốt hơn theo kịp các bạn.
Việc áp dụng biện pháp đặc biệt rất khó khăn và phức tạp vì vậy ban đầu tôi
dành khá nhiều thời gian để tiếp cận trẻ và trò chuyện với gia đình trẻ để nắm
bắt đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động cô có thể mời trẻ đứng lên nếu trẻ không đứng cô
nói nhanh hơn, to hơn đồng thời âu yếm trẻ như: Nào cả lớp mình cho bạn một
tràng pháo tay thật to cổ vũ bạn để bạn đứng lên nào. Tất nhiên được sự cổ vũ
của các bạn, trẻ sẽ đứng lên và trả lời các câu hỏi của cô. Ban đầu đối với những
trẻ đó cô chỉ nên đặt ra các câu hỏi dễ rồi sau đó mới nâng dần lên đến các câu
hỏi khó.

15



Đối với cháu hay nói chuyện hoặc quay lên quay xuống trong giờ kể truyện
cô mời trẻ đứng lên, nếu cô kể đến đoạn nào thì mời trẻ kể lại đoạn đó, hoặc
đóng vai nhân vật trong truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” cho cả lớp nghe khi cô
vừa kể đến thì tự nhiên không khí trong lớp sẽ trở thành trạng thái yên lặng và
trẻ sẽ chú ý nghe cô kể.
Còn đối với những trẻ thông minh nhanh nhẹn tiếp thu bài tốt thì cô sẽ luôn
chuẩn bị một số câu hỏi khó cho trẻ trả lời, giúp trẻ ngày càng phát triển tốt hơn
nữa.
Như vậy tiến hành các biện pháp giáo dục đặc biệt đối với trẻ là một điều hết
sức cần thiết và đứng đắn. Nó giúp cho giờ kể chuyện của cô ngày càng đơn
giản và dễ dàng hơn đối với trẻ.
e. Biện pháp 5: Mọi lúc mọi nơi
Ở mọi lúc mọi nơi như: Trong giờ đón trẻ, trả trẻ, trong lúc dạo chơi ngoài
trời... Cô cho trẻ xem tranh liên quan đến câu truyện, âu yếm, trò chuyện với trẻ.
Cô cho trẻ tự kể lại câu truyện mà trẻ đã được học, cô khuyến khích trẻ kể, sửa
cho trẻ những câu chưa chính xác. Không yêu cầu trẻ kể như lời của cô nhưng
phải biết kể từ đầu đến cuối
Ví dụ: Cho trẻ xem tranh “cô bé quàng khăn đỏ”.
Tôi cho trẻ đóng vai các nhân vật, tạo tình huống để giúp trẻ cuộc sống hằng ngày biết
vâng lời ông bà bố mẹ,
Ở hoạt động chiều cô tổ chức cho trẻ thi đua kể các câu chuyện đã được học
xem ai kể hay, kể giỏi hơn cô khuyến khích để trẻ được nói nhiều, phát âm
nhiều để sửa nói lắp, nói ngọng ở trẻ.
Nói chuyện âu yếm, trò chuyện đàm thoại cùng với trẻ về câu chuyện, về các
nhân vật trong truyện, cô yêu cầu trẻ làm các động tác, cử chỉ của nhân vật.
f. Biện pháp 6: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp
không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc tạo nguồn
nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.


16


Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là thông qua giờ kể chuyện. Hàng tháng tuyên
truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nội dung về chủ điểm, về các câu
chuyện của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển
như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia
đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện trẻ đã kể, yêu cầu
phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu
chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và
đa dạng.
Huy động phụ huynh thu nhập những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như
báo họa mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp... kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ
để trao đổi với phụ huynh.
Có thể nói việc tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng
trong việc dạy trẻ kể chuyện để phát triển ngôn ngữ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua việc đọc truyện cho trẻ nghe, trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học,
hiểu nội dung, nắm được các tình tiết của câu chuyện. Qua giọng đọc và kể của
cô trẻ có thể nhận biết cách sử dụng ngữ điệu giọng kể bộc lộ được đặc điểm,
tính cách nhân vật, học được cách sữ dụng ngôn ngữ nghệ thuật. Hướng dẫn để
trẻ kể lại được câu chuyện và trả lời các câu hỏi của cô, vốn từ của trẻ tăng lên
rất nhiều. Đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu phong phú và đa dạng.
Việc áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với môn kể chuyện.
Tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất thích nghe kể chuyện. Thông qua đó mà việc
phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cao.
Sau một năm áp dụng phương pháp mới này kết quả giảng dạy của tôi đã

được năng lên rõ rệt, cụ thể như sau.
Số trẻ trong lớp
học 45

Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm
Đạt
Chưa đạt
17


T
Nội dung điều tra

Số
trẻ

K

TB

Y

Tỷ
lệ %

Số
trẻ

Tỷ
lệ %


Số
trẻ

Tỷ
lệ %

Số
trẻ

Tỷ
lệ %

22%

15

33%

19

42%

1

2%

7

16%


15

33%

17

38%

6

13%

15

33%

19

42%

10

22%

1

2%

15


33%

20

44%

9

20%

1

2%

1.Trẻ nhớ được
tên truyện và nội

10

dung câu truyện.
2.Trẻ đóng vai
các nhân vật, phát
triển được cử chỉ,
giọng điệu của
nhân vật
3.Trẻ nói được
câu phức
4.Trẻ phát âm rõ
ràng mạch lạc


Đa số các trẻ đạt loại tốt, phát âm rõ ràng, kể lại được câu chuyện, thể hiện giọng
điệu của câu chuyện, phát triển vốn từ rất tốt.
3. KẾT LUẬN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM, Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận.
Qua việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi này bản thân tôi thấy trẻ phát
triển về ngôn ngữ một cách rõ ràng, phát âm tốt, nói đúng ngữ pháp, nói rõ ràng,
mạch lạc giúp trẻ tự tin hơn trong giao tiếp ở mọi lúc, mọi nơi.
Đề tài nghiên cứu này là một nền tảng vững chắc cho thế hệ kế tiếp. Phát
triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động dạy trẻ kể chuyện là một việc làm thiết
thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi hỏi cô phải có sự sáng tạo
linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại
kết quả cao.
Vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi phải luôn tham khảo ý kiến của ban giám
hiệu giúp tôi hiểu sâu hơn về cách giới thiệu bài, cách lên lớp và những câu hỏi
dẫn dắt của nội dung kết hợp.

18


Tôi luôn tìm tòi,tham khảo sách báo, thông tin đại chúng ,sưu tầm các hình
ảnh, tranh ảnh phục vụ cho công tác giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
Tôi luôn tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn, dễ tìm đẹp và sinh động thu hút
trẻ trong giờ kể chuyện.
Chuẩn bị bài chu đáo, kết hợp dùng phương pháp tích hợp, lồng ghép các bộ
môn để thực hiện dạy trẻ tốt hơn.Thế nên tôi đã nâng cao được phong cách tự tin
khi lên lớp, giọng kể diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học tốt.
3.2. Bài học kinh nghiệm.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên vào việc dạy trẻ kể
chuyện để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi tôi đã rút ra những bài học kinh

nghiệm sau:
- Một là: tôi phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình sáng tạo phải có lòng
say mê với nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao, luôn gần gủi lĩnh hội kiến
thức của trẻ. Phải thực sự là người mẹ thứ hai trẻ.
- Hai là :Luôn bám sát nội dung chương trình để nắm vững phương pháp, tạo
ra mô hình tổ chức lớp tốt.Luôn vận dụng việc dạy ở mọi lúc, mọi nơi, nắm
được tâm sinh lý của trẻ, phát hiện bồi dưỡng tài năng trẻ (trẻ giỏi, yếu, kém, tật
nguyền....)
- Ba là: Cho trẻ tham quan, hướng dẫn trẻ từ quan sát sự vật, hiện tượng
nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ, kết hợp đàm thoại để hiểu sâu bản chất của
sự vật, hiện tượng.
- Bốn là: Phải kết hợp giữa gia đình và nhà trường để phụ huynh nắm được
trao đổi của cô và ngược lại, từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
- Năm là: Luôn khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của ban giám hiệu, các đồng
nghiệp giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Tham khảo, sưu tầm đồ dùng dạy học, nắm
vững kiến thức, cấu trúc tiết học, tác phong sư phạm tốt, lời nói, cử chỉ dịu dàng,
gần gủi trẻ.
3.3. Đề xuất:
Đề nghị các cấp lãnh đạo đã và đang quan tâm, giờ quan tâm hơn, hơn nữa về
cơ sỡ vật chất, bổ sung thêm máy tính ở các lớp để quá trình dạy học được nâng
cao hơn, các phần mềm trò chơi trên vi tính để trẻ học hỏi dễ dàng, nhận biết các
19


hiện tượng tự nhiên – xã hội, để cấp học mầm non ngày được nâng cao hơn nữa
và quan tâm đến đời sống giáo viên mầm non ngoài biên chế, để giáo viên có
động lực công tác tốt hơn.
Trên đây là quá trình thực hiện đề tài phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi
thông qua giờ kể chuyện. Tôi kính mong được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến
của cấp trên, sự góp ý của đồng nghiệp cho bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi

được tốt hơn, để tôi có thêm nhiều kinh nghiệm trong công việc giảng dạy của
mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ý kiến xét duyệt của HĐKH.
Quảng Hải: Ngày tháng năm
Nguyễn Thị Nhung

20


21



×