Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đánh giá tác động hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tới môi trường tự nhiên tại đền bà chua kho (xã vũ ninh, thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh) và hệ thống các giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.76 MB, 32 trang )

Trờng đại học s phạm hà nội 2
Khoa giáo dục chính trị
****&****

Lê thị mai hơng

Những quy phạm về chính trị trong
hơng ớc cải lơng ở lập thạch thời
pháp thuộc (1921 - 1942)

Tóm tắt khóa luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Ngời hớng dẫn khoa học
Trần Thị Thu Hà

Hà Nội 2010


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam tín ngưỡng ra đời và tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử và
được phát triển đến tận ngày nay. Tín ngưỡng thường gắn với các lễ hội
truyền thống được tổ chức vào các dịp lễ, tết trong năm. Mỗi một địa phương,
dân tộc, vùng miền đều có các hình thức tín ngưỡng khác nhau tạo nên nét
văn hoá tín ngưỡng phong phú, độc đáo của đất nước Việt Nam mà không nơi
nào có được. Hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tại Đền Bà Chúa Kho là một
trong những tín ngưỡng ở Việt Nam. Nó mang đậm nét truyền thống trường
tồn bất diệt trong tâm linh người Việt, thể hiện ước mơ khát vọng mong muốn
một cuộc sống ấm no hạnh phúc, đây là những nhu cầu rất chính đáng của
người dân, nó tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để xây dựng đất nước Việt


Nam ngày càng giàu đẹp. Đồng thời khi đến với Đền Bà Chúa Kho người ta
còn nhớ về một vị nhân thần là Bà Chúa Kho là người đã có công giúp nhân
dân khai ấp lập làng, giúp nhà Lý đánh thắng giặc Tống xâm lược (1077)
Hiện nay đứng trước xu hướng toàn cầu hoá, cùng với sự đi lên về mọi
mặt, nhu cầu văn hoá tinh thần cũng được tăng lên. Sự tham gia của du khách
thập phương vào hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc nơi đây ngày càng nhiều
kéo theo nhiều vấn đề bất cập nảy sinh, những giá trị văn hoá tín ngưỡng của
Đền có nguy cơ bị mai một dần, môi trường cũng ngày một suy thoái. Do vậy
việc bảo tồn di tích lịch sử văn hoá Đền Bà Chúa Kho và môi trường nơi đây
đang trở thành yêu cầu cấp thiết.
Để có một cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng suy thoái môi trường tự
nhiên của Đền Bà Chúa Kho cùng việc bảo tồn giá trị văn hoá tín ngưỡng cầu
tài lộc ở Đền Bà Chúa Kho và đề ra những giải pháp mang ý nghĩa thực tiễn
cao tôi chọn đề tài: “Đánh giá tác động hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tới


môi trường tự nhiên tại Đền Bà Chua Kho (xã Vũ Ninh, thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh) và hệ thống các giải pháp”
2. Mục tiêu của đề tài
Việc thực hiện đề tài này nhằm:
- Phân tích đánh giá môi trường cảnh quan của khu di tích lịch sử- văn
hoá Đền Bà Chua Kho.
- Tìm hiểu nguyên nhân và dự báo các tác động môi trường của hoạt
động tín ngưỡng cầu tài lộc ở khu vực.
- Đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường hiện tại và xây
dựng mô hình bảo vệ môi trường cho khu vực trong tương lai.
3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đã bước đầu đánh giá hiện trạng môi trường tự nhiên của khu di
tích lịch sử văn hoá Đền Bà Chúa Kho, bao gồm môi trrường đất nước, không
khí và hệ sinh thái, cũng như ảnh hưởng của các hoạt động tín ngưỡng cầu tài

lộc tới môi trường nơi đây. Từ đó tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường hiện tại và đồng thời xây dựng các biện
pháp bảo vệ môi trường bền vững.
Nước ta có vị trí thuận lợi trong giao lưu quốc tế, có nhiều danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá, nghệ thuật. Nhân dân ta giàu lòng mến
khách. Đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch thàng một ngành
kinh tế quan trọng của đất nước. Hướng tới 1000 năm Thăng long –Hà nội
cùng với việc bảo tồn Đền Bà Chúa Kho, chúng tôi với mong muốn nâng cao
sự hiểu biết của người dân Việt Nam về các giá trị lịch sử văn hoá truyền
thống, đồng thời giới thiệu cho du khác một địa điểm du lịch tâm linh để hiểu
thêm về bản sắc văn hoá Việt. Với mô hình bảo vệ môi trường tại Đền Bà
Chúa Kho, đề tài có thể được mở rộng và nghiên cứu áp dụng ở những địa
điểm di tích, danh lam thắng cảnh trong cả nước, nhằm tiến đến mục tiêu
chung là xây dựng hình ảnh du lịch Việt Nam là du lịch văn hoá văn minh và
thân thiện.


NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Lịch sử hoạt động tín ngưỡng Đền Bà Chúa Kho
Đã có truyền thuyết kể lại rằng: Ngày xưa ở đất Kinh Bắc vào tháng 3,
tháng 9, nước ngập trắng cả một vùng, đồng thời hoang hoá, tưởng như sự
sống chẳng thể nào có được nơi đây. Bấy giờ, ở làng Quả Cảm có người con
gái rất đẹp, nhan sắc tuyệt trần lại đảm đang tài giỏi. Lúc đó bà đeo bên mình
một bị trấu xuống tận núi Bài (Nham Biền) vừa lội đồng vừa vung trấu xuống
nước, trấu trôi đến đâu bà lập ấp đến đó, khoanh vùng, trị thuỷ, dạy dân cày
cấy. Từ đó các làng Đại Tảo Sở, Cô Mễ, Quả Cảm, Thượng Đồng... (72 trang
ấp) dân cư đông đúc, vạn vật tốt tươi, cuộc sống no đủ, giàu có.
Tiếng đồn về người con gái xứ Bắc đến kinh thành vua lý, vua liền đón
bà về cung và lấy làm vợ, bà trở thành vị Hoàng Phi của triều Lý. Ngày ngày

ở nơi cung đình, Bà luôn nhớ về quê hương, lòng thương dân không dứt. Một
hôm Bà xin vua cho Bà về chốn cũ mong giúp dân làng làm ăn. Tin tưởng ở
tài năng, đức độ, lòng trung thực, tính chắt chiu của Bà, nhà vua đồng ý giao
cho Bà trọng trách trông coi kho lương thực của triều đình ở ven sông Cầu để
tiếp tế lương thực cho tướng sĩ trên chiến tuyến Như Nguyệt chống giặc Tống
đồng thời cai quản một số tù binh do nhà Lý bắt được trong chiến tranh, đủ
cung cấp cho quân Đại Việt phòng chống giặc Tống ngoại xâm.
Cũng từ đó núi Cô Mễ mang tên núi Kho, làng Thượng Đồng được gọi
là làng Lẫm (làng Kho).
Sau đó Bà đã anh dũng hi sinh vì sự nghiệp đánh giặc giữ nước vào
ngày 12 tháng Giêng âm lịch (1077). Nhà vua thương tiếc phong cho Bà làm
Phúc Thần. Nhân dân nhớ thương công ơn của Bà lập Đền trên núi Kho. Nơi


đặt kho lương xưa trở thành trung tâm thờ phụng và lễ hội của vùng. Mọi
người vẫn gọi Bà với niềm tôn kính thân thuộc Bà Chúa Kho.
2.2. Các công trình bảo tồn
Ban đầu Bà Chúa Kho chỉ là một ngôi miếu nhỏ dân ở làng tuần rằm
nhang khói. Đến đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hoà (1680-1705) miếu
được xây dựng thành Đền lớn. Toàn bộ công trình kiến trúc như: sắc phong,
tượng, hoành phi, câu đối đỏ... đều được tạo dựng trong thời gian này. Ngoài
ra nhiều công trình cũng được mở rộng trong thời gian này như: Đền Trình,
Cổng Tam Quan, sân Giải Vũ, toà Tiền Tế, cung Đệ Nhị, Hậu cung,...trung
tâm thờ tự tôn nghiêm với tượng Bà Chúa kho được chạm khắc rất công phu,
tài nghệ. Gần 200 năm sau công trình bị xuống cấp đời Nguyễn Dực Tông
niên hiệu Tự Đức (1848 – 1883) dân làng Cô Mễ đã trùng tu lại diện mạo cơ
bản của khu Đền.
Qua thời gian chiến tranh tàn phá, Đền Bà Chúa Kho tuy được thường
xuyên tu bổ, nhưng đến những năm 30 thế kỷ XIX thì sụp đổ hoàn toàn sau
đó được khắc phục dựng lại nhưng lại bị phá tan trong cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ.
Năm 1980 khi có chủ trương của nhà nước chống mê tín dị đoan thì
ngôi Đền đã bị phá huỷ hoàn toàn, tượng Bà bị vứt xuống sông. Đến khi nhà
nước chủ trương cho tự do tín ngưỡng thì Đền Bà Chúa Kho mới được hoạt
động trở lại. Tượng Bà Chúa Kho đã được vớt lên trùng tu tôn tạo lại và đặt
trong cung Thượng để ngày ngày tuần nhang hương khói tưởng nhớ công ơn
của Bà.
Sự hồi sinh thật sự của ngôi Đền được bắt đầu từ tháng 1 năm 1989, khi
nhà nước chính thức ra quyết định công nhận toàn bộ khu di tích lịch sử - văn
hoá làng Cô Mễ gồm Đền, Đình, Chùa là di tích lịch sử - văn hoá. Từ khi


được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá cộng với việc tuyên truyền của địa
phương thì tín ngưỡng về Đền Bà Chúa Kho được phát triển.
Năm 1991, dưới sự lãnh đạo của chính quyền địa phương và ngành văn
hoá các cấp cùng bách gia trăm họ, công đức tiền của dân làng Cô Mễ đã
dựng lại ngôi Đền toạ lạc trên nền thiêng đất cũ. Theo thuyết phong thuỷ, Đền
toạ lạc trên đầu rồng (núi Cô Mễ, Thị Cầu) nối liền về phía Tây Nam là những
quả đồi lớn nhỏ kéo dài đến Từ Sơn thì dừng lại, giống như hình con rồng
đang uốn lượn, phun châu nhả ngọc. Và tên đất, tên làng cũng tạo nên từ đó,
gắn với bao truyền thuyết của một vùng văn hoá xứ Bắc, quê hương của 8 vị
vua triều lý, với những làn điệu dân ca quan họ Bắc Ninh. Đặc biệt pho tượng
Bà Chúa Kho đã được đúc lại bằng đồng và hoàn thành vào ngày 29/5/1993
(tức ngày 10/8 năm Quý Dậu). Bà Chúa Kho được an vị trong khám thờ của
cung thượng .Toàn bộ tượng được thếp vàng rực rỡ, ánh sáng của những ngọn
nến bạch lạp đặt ở phía dưới khám thờ càng tôn thêm vẻ huyền ảo và tôn
kính của ban thờ Bà.
Từ trung tâm thành phố Bắc Ninh du khách theo quốc lộ 1 (đi Lạng
Sơn) đến với suối Hoa rẽ 1000m là tới chân núi Kho, với hệ thống điện thờ
trong khuôn viên 6000m2 tổng thể kiến trúc độc đáo. Leo qua 15 bậc gạch đến

khu sân thứ nhất (chiếu nghỉ). Qua 13 bậc nữa đến khu sân thượng tiếp thêm
11 bậc là nhà Tiền Tế, toà nhà này xưa là 3 gian 2 trái, phần khung gỗ làm
kiểu rốn rồng kẻ tràng, 4 góc mái là 4 đầu đao cong vút. Ngày 29 tháng 10
năm 1997, Công ty thương mại Bến Thành công đức trùng tu lại nguyên mẫu
cũ, bằng chất liệu quý, bền, chắc hơn. Tiếp đó là 3 toà nhà đường bệ, trầm
mặc trên đỉnh núi thoáng tĩnh, đây là trung tâm của Đền gồm 3 cung: cung
Thượng, Cung Đệ Nhị, cung Đệ Tam.
1. Cung Thượng: gian giữa thờ Bà Chúa Kho, gian bên phải đặt ban thờ
Đức Ông, gian bên cạnh đặt ban thờ Chấu Bà.


2. Cung Đệ Nhị: là bàn thờ Tam toà Thánh Mẫu
3. Cung Đệ Tam: gian giữa (ban trên) thớ Tứ Phủ Công Đồng. Ban
dưới thờ Ngũ Hổ, gian bên phải thờ ông Hoàng Bơ (Ba). Kề cạnh là 2 gian
nhà thờ đặt ban thờ Cô, ban thờ Cậu.
Ở phía Tây khu Đền đặt ban thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên (dân gian còn
gọi là bàn Trùng cửu, hoặc đài Cửu Thiên) cao 4m.
Ngoài ra một số công trình kiến trúc khác phục vụ du khách nghỉ ngơi,
soạn hành lễ. Các công trình này cũng vừa được xây dựng khang trang mang
đậm bản sắc phương Đông.
Sau ngôi Đền Bà Chúa Kho là nhà thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây
dựng năm 1998 để tưởng nhớ đến một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Đến nay, dù trải qua những thăng trầm của lịch sử, chiến tranh tàn phá,
cùng những hiểu biết khác nhau của người dân thì tín ngưỡng về Bà Chúa
Kho vẫn giữ nguyên giá trị. Nó là món ăn tinh thần không thể thiếu được
trong đời sống tâm linh của mỗi người dân Việt Nam. Tín ngưỡng về Bà
Chúa Kho từ lâu là chỗ dựa tinh thần cho dân làng Cô Mễ và hoà vào mạch
nguồn tín ngưỡng dân tộc.
2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến Đền Bà Chúa Kho
Khu di tích lịch sử - văn hoá Đền Bà Chúa Kho có vị trí đặc biệt quan

trọng trong đời sống văn hoá tâm linh của nhiều người dân Việt, đã thu hút
nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau đó
là: kiến trúc, văn hoá dân gian, lịch sử, du lịch...
Trong đề án phát triển du lịch tỉnh Bắc Ninh (2006), công trình nghiên
cứu đã đề cập đến Bà Chúa Kho như: mục đích đến Đền của du khách, lượt
khách trung bình đến hàng năm.


Trong sách non nước Việt Nam – sách hướng dẫn du lịch của Tổng cục
Du lịch Việt Nam – NXB Hà Nội 2006, đã giới thiệu khái quát về lịch sử Đền
Bà Chúa Kho, kiến trúc Đền, mục đích của người đi cầu.
Tất cả những nghiên cứu trên đều nhằm tìm hiểu về lịch sử văn hoá
Đền Bà Chúa Kho, bảo tồn và phát triển những giá trị của khu di tích này.
Hiện nay, cùng với hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc là các hoạt động
du lịch, thương mại tại khu di tích đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập mà các
nhà tổ chức và các cơ quan chức năng chưa kiểm soát được. Đề tài này không
ngoài mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững khu di tích, chúng tôi đã xem
xét vấn đề ở một khía cạnh khác đó là nguy cơ xuống cấp môi trường tự nhiên
trước tác động của các hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc


Chương 2: ĐỐI TƯỢNG - THỜI ĐIỂM - ĐỊA ĐIỂM –
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Kiến trúc Đền Bà Chúa Kho
- Hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc Đền Bà Chúa Kho
- Môi trường tự nhiên của khu vực
2.2. Thời điểm nghiên cứu
Từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2008
2.3. Địa điểm nghiên cứu

Tại Đền Bà Chúa Kho thuộc thôn Cô Mễ xã Vũ Ninh thành phố Bắc
Ninh và khu vực phụ cận
2.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát - điều tra
+ Quan sát các hoạt động Tế, Lễ diễn ra tại lễ hội
+ Quan sát hoạt động của người tham gia lễ hội
+ Quan sát công tác quản lý và tổ chức lễ hội
+ Điều tra tình hình xây dựng, bảo tồn và phục vụ lễ hội
+ Điều tra thực địa khu vực Đền Bà Chúa Kho
- Phương pháp thu thập số liệu và tài liệu có liên quan
Tôi đã thu thập số liệu có liên quan đến đề tài từ phía ban quản lí khu
di tích, các tài liệu về Đền Bà Chúa Kho cũng như một số tài liệu liên quan
khác.
- Phương pháp dự báo
Dựa vào hiện trạng môi trường tự nhiên, các hoạt động tín ngưỡng tại
khu di tích lịch sử - văn hoá Đền Bà Chúa Kho để đưa ra xu hướng diễn biến
môi trường trong tương lai.


Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tại Đền Bà Chúa Kho
Hiện nay việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc của Đền Bà
Chúa Kho tuân theo quyết định số 100 VHQĐ ngày 21/01/1989 về việc công
nhận Đền Bà Chúa Kho là di tích lịch sử văn hoá.
Theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, mùa xuân là mùa khởi đầu của
một năm, là mùa để vạn vật sinh sôi nảy nở đồng thời là mùa có nhiều dịp lễ
hội quan trọng: tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Giêng (Tết Nguyên Tiêu), lễ hội
Chùa Hương vào tháng 2 âm lịch. Và khi đi lễ ở bất kì nơi nào người dân
cũng đều mong muốn một điều là cầu được ước thấy. Quan niệm của người
Việt Nam là “có Thánh có thiêng” chính vì thế mỗi địa danh đều gắn với mục

đích mong muốn của người dân như để cầu con cái lên Chùa Hương (tháng 2
âm lịch); cầu xuất ngoại lên Bia Bà, La Cả, La Khê thuộc Hà Đông, Hà Nội;
để cầu quan chức xin ở Đền Trần Nam Định, Đền Đức Thánh Cả thuộc quần
thể chùa Hương, Đền Cửa Ông, động Tam Thanh, Nhị Thanh, Đền Cô Chín
bên sông Đồng Dao. Nhưng về tài lộc có thuyết đã nói phong trào xin lộc ở
Đền Bà Chúa Kho là tâm điểm nhất. Mỗi du khách khi hành hương về Đền
đều mong muốn được đắc tài đắc lộc, mong được Bà phù hộ...Ở Đền Bà Chúa
Kho, lượng khách hành hương về Đền hàng năm tăng lên đáng kể vào dịp lễ
hội 3 tháng đầu năm (10/01 đến hết tháng 3 âm lịch) và 3 tháng cuối năm (từ
tháng 10 đến hết tháng 12 âm lịch). Ngoài ra số lượng khách vãng lai hành
hương vào các dịp khác trong năm đều tăng. Theo ban di tích sở văn hoá - thể
thao - du lịch tỉnh Bắc Ninh, lượng khách trung bình đến điểm này vào năm
2006 đạt 25000 – 30000 lượt/năm, năm 2007, 2008 số lượng du khách đến
đây tăng gấp 2 đến 3 lần thậm chí có thể hơn, trong đó chủ yếu là vào dịp lễ
hội. Du khách đến đây không chỉ có du khách trong nước mà cả du khách
nước ngoài trong đó du khách trong nước chiếm 93,2%, du khách quốc tế


chiếm 6,8% . Tâm nguyện của người đi lễ rất khác nhau tuỳ thuộc vào ngành
nghề, lứa tuổi, hoàn cảnh... nhưng chủ yếu du khách đến đây để dâng hương,
cầu tài, cầu lộc, cầu bình an, xin vay, nhờ Bà hộ độ, trả nợ năm cũ...
Lễ hội ở Đền Bà Chúa Kho về cơ bản vẫn duy trì các lễ nghi truyền
thống trang trọng như: tế lễ, dâng hương, tổ chức các trò chơi dân gian như
cướp cầu, đô vật, chọi gà, hát quan họ,...Bên cạnh những nghi thức truyền
thống xưa thì bây giờ hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc là loại hình tín ngưỡng
phát triển nhất ở Đền Bà Chúa Kho. Hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tại Đền
Bà Chúa Kho gồm có các hình thức: xin lộc rơi, lộc vãi và hình thức vay trả.
3.2. Các vấn đề môi trường đặt ra
Các hoạt động của du khách và dân địa phương có thể tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp lên môi trường tự nhiên ở nhiều mức độ khác nhau. Nếu

như không được quan tâm bảo vệ kịp thời thì nguy cơ cạn kiệt, suy thoái tài
nguyên môi trường là điều không thể tránh khỏi. Tại Đền Bà Chúa Kho tín
ngưỡng cầu tài lộc, tham quan du lịch đang rất phát triển chính điều đó đã góp
phần làm cho môi trường ngày một suy thoái nghiêm trọng hơn.
Hiện nay hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc đã được coi là một hoạt động
tín ngưỡng lành mạnh. Do vậy việc giữ gìn hoạt động tín ngưỡng này đi kèm
với bảo vệ giá trị Đền Bà Chúa Kho. Chính vì vậy để bảo tồn những giá trị vật
thể - phi vật thể nên có sự kết hợp giữa du lịch di tích lịch sử danh lam thắng
cảnh với du lịch sinh thái. Chi cục kiểm lâm Bắc Ninh cùng với ban quản lí
Đền Bà Chúa Kho và sở tài nguyên môi trường tỉnh Bắc Ninh đã trồng và
phát triển rừng sinh thái sau khu vực Đền Bà Chúa Kho (núi Kho). Đây là khu
rừng đặc dụng nằm trong khu di tích lịch sử được bảo vệ và phát triển, hứa
hẹn là khu vực sinh thái trong lành, cảnh quan đẹp. Du khách đến đây không
chỉ được thoả mãn về nhu cầu tín ngưỡng cầu tài lộc mà còn thoả mãn về nhu
cầu thăm thú cảnh sắc thiên nhiên.


Trên thực tế, những vấn đề đặt ra cho môi trường tự nhiên có thể bị tác
động theo hướng tiêu cực. Hiện trạng môi trường tự nhiên ở Đền Bà Chúa
Kho cụ thể như sau:
3.2.1. Môi trường không khí
Vào dịp lễ hội chính nhìn bầu không khí của khu vực Đền thấy khói
bốc lên nghi ngút. Khói hương cùng với việc đốt vàng mã, hoá sớ quá nhiều
tại các điểm nhà hoá sớ khiến bầu không khí trở nên ngột ngạt. Cùng với đó
việc đốt sớ, vàng mã qua nhiều gây ra muội than lơ lửng, muội đen bám xung
quanh các khu vực Đền gây mất mĩ quan. Lượng vàng mã đốt cũng thay đổi
theo số lượng khách đến Đền, vào mùa xin lộc đầu năm và trả lễ cuối năm thì
lượng vàng mã đốt nhiều không thể kiểm soát nổi. Đó là vì nhiều du khách
hiểu sai về tín ngưỡng cầu tài lộc mang theo quan niệm “tốt lễ dễ kêu”, “lễ
sao lộc vậy” nên họ sắp lễ to vàng mã nhiều. Các thời gian còn lại trong năm

số lượng du khách ít hơn do vậy mà lượng vàng mã cũng đốt ít hơn. Vàng mã
có thể do du khách chuẩn bị trước ở nhà hoặc khi đến Đền mới bắt đầu mua ở
những hàng vàng mã ở cửa Đền, số lượng vàng mã du khách đốt ngày một
tăng do đó kéo theo số lượng hàng bán vàng mã cũng tăng theo. Cụ thể số
lượng cửa hàng bán vàng mã tăng lên qua các năm như sau (tính từ Đền Trình
đến Đền chính):
Năm
Số lượng hàng kinh doanh bán đồ vàng mã,viết sớ
2006
40 – 50
2007
100 – 110
2008
130 – 140
Để đáp ứng nhu cầu của du khách thập phương, ban quản lí di tích đã
xây dựng hai khu hoá vàng mã có kích thước mỗi khu là 3.8m x 2m x 2.2m
nhưng vào mùa lễ hội vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu hoá vàng mã của du
khách. Sản phẩm của đốt vàng mã là nhiều khí thải độc hại như: C (bụi than),


CO, CO2, SOx (SO, SO2, SO3), NOx (NO, NO2, N2O5) các chất này khi vào
trong không khí có khả năng gây nên hiện tượng mưa axit
Đặc biệt, Đền Bà Chúa Kho nằm trên núi nên khí đốt có khả năng phân
tán ra xung quanh bao phủ lên một diện tích làng mạc, đồng ruộng rất lớn.
Khi không có gió khói bụi có thể lan phủ trong không khí theo quy tắc Gause:
Gọi h1 là chiều cao của ngôi Đền so với mặt đất xung quanh
h2 là chiều cao của ống khói
h = h1 + h2
Bán kính lan toả của bụi trong không khí bằng 15 – 30h. Ngôi Đền ở vị
trí càng cao so với mặt đất xung quanh thì bán kính lan toả của bụi càng lớn

và nó gây ra tác hại càng nhiều. Sự tương ứng giữa tốc độ gió và chiều cao
của ống khói được thể hiện trong bảng sau (trích từ “Acidrain” của các tác
giả Stephen Tilling, Andy Nisbet, Keith Chell)
Chiều cao ống khói so với mặt đất (m) Tốc độ gió trung bình(km/phút)
0
4
50
7
100
10
200
14
300
18
400
22
500
26
Khi có gió thì bụi sẽ theo gió lan toả trong không khí theo chiều của gió
(từ tháng XI – IV hàng năm là gió Đông - Bắc, từ tháng V – X hàng năm là
gió Đông – Nam) và sẽ lan toả đi xa hơn nữa.
Các hoạt động giao thông vận tải đặc biệt vào dịp lễ hội hàng ngàn xe
cơ giới đổ về đây với đủ các loại phương tiện như các loại xe ô tô, mô tô 2
bánh... hoạt động hết công suất vào mùa lễ hội để phục vụ nhu cầu đi lại của
nhân dân. Các khí thải bao gồm các khí độc hại phát sinh trong quá trình đốt
cháy nhiên liệu của các loại động cơ đốt trong như: CO, CO 2, hơi chì, NOx,


SOx là nguyên nhân gây ô nhiễm lớn tới không khí ở khu vực Đền và các
vùng phụ cận.

Lượng khách hành hương đến với Đền Bà Chúa Kho ngày một tăng là
nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường không khí do nguồn CO 2 thải ra
tăng đột biến. Khu vực Đền thì nhỏ hẹp mà lượng CO 2 tăng đột biến như vậy
đã làm cho bầu không khí trở nên ngột ngạt khó chịu, nhiệt độ cũng tăng lên
so với nhiệt độ trung bình của thời tiết. Hơn nữa sự khuếch tán chậm không
khí làm cho lượng CO2 khó phân tán vào tầng khí cao hơn do vậy ảnh hưởng
đến hệ hô hấp của con người.
3.2.2. Chất thải rắn và môi trường đất
Những ngày thường lệ, lượng du khách không quá nhiều, rác thải sinh
hoạt ở dạng rắn được thu gom và đưa ra khỏi khu dân cư nhìn chung môi
trường rất trong sạch đảm bảo cho sức khoẻ.
Vào dịp lễ hội tình trạng rác thải trở nên quá tải, lượng rác khổng lồ tập
trung tại một khu vực nhỏ hẹp diễn ra lễ hội. Việc vứt rác bừa bãi là nguyên
nhân trực tiếp làm lượng rác thải rắn tăng lên khó kiểm soát
Rác thải chủ yếu là bao bì đựng các sản phẩm ăn uống được du khách
sử dụng và vô ý thải ra mọi nơi không đúng quy định. Thực trạng ở khu di
tích là chưa trang bị các thiết bị thu gom và chứa rác thải nên có một số du
khách bỏ rác đúng nơi quy định cũng không biết bỏ vào đâu? Đó là chưa kể
đến sự hoạt động hết công suất của các nhà hàng phục vụ ăn uống đã thải ra
lượng rác rất lớn, bao gồm nhiều loại như: các loại rác thải sinh hoạt như bao
ni lông, vỏ lon nước ngọt, giấy ăn, thức ăn dư thừa... Lượng rác thải ngày một
nhiều hơn do số lượng du khách ngày một đông và số lượng cửa hàng phục vụ
ăn uống cũng tăng rất nhanh theo các năm như sau (tính từ Đền Trình đến
Đền chính):
Năm

Số cửa hàng phục vụ ăn uống


2006

20 – 30
2007
80 – 90
2008
100 - 110
Các loại chất thải rắn thải ra một cách hỗn độn nên việc phân loại và xử
lí rất khó khăn. Trên thực tế, một lượng rác lớn không được đem xuống mà để
sau khu di tích, các loại rác thải đó một phần được lấp đi nhưng một phần bị
lộ thiên ra ngoài vừa làm mất mĩ quan và là nguồn gây ô nhiễm rất lớn đối với
môi trường đất.
Lượng rác thải quá lớn nên các vi sinh vật đồng hoá các rác thải có bản
chất hữu cơ bị quá tải. Đây là nguyên nhân gây hại đến những vi sinh vật
trong đất. Rác thải ngày càng nhiều lại không được phân huỷ kịp thời, làm
cho môi trường đất nay lại càng ô nhiễm. Đặc biệt khí hậu quanh năm nóng
ẩm, mưa nhiều nhiệt độ trung bình / năm dao động 24,30C – 25,10C. Độ ẩm
tương đối trung bình 79% là điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật gây bệnh phát
triển
Trong khu vực rừng sinh thái tại Đền Bà Chúa Kho còn có một số nhà
vệ sinh không được quy hoạch xây dựng gọn gàng, chỉ là những tấm đan bằng
nứa, cói tự che lại, làm mất mĩ quan và bốc mùi khó chịu.
Những người trong ban quản lí Đền chủ yếu là những người cao tuổi
hàng ngày chăm lo các công việc trong Đền như quản lí, chăm lo hương khói,
tu bổ, vệ sinh chưa có nhân công thu gom rác riêng. Nên với nhân lực như
vậy khó có thể đảm trách được hết công việc trên toàn bộ khu di tích.
Quá trình xây thêm các công trình nhà ở, nhà ăn, nhà nghỉ việc nạo vét,
san lấp để giải phóng mặt bằng gây hậu quả làm tăng độ trầm lắng trong nước
do quá trình hoà tan cơ học, làm thay đổi tầng thổ nhưỡng rất có thể dẫn tới
hiện tượng sụt lở, gây rửa trôi bào mòn. Mà đất ở đây chủ yếu là đất feralit có
thành phần cơ giới nặng, kém tơi xốp, đất có độ dày trung bình nên khi mất



lớp phủ rừng đất rất dễ bị rửa trôi và bào mòn trong mùa mưa do đó nếu
không có biện pháp bảo vệ, đất nghèo đi nhanh chóng.
3.2.3. Môi trường nước
3.2.3.1. Nước mặt
Việc thải rác bừa bãi, chủ yếu là rác sinh hoạt từ dân địa phương, từ các
cơ sở dịch vụ, các cửa hàng kinh doanh, đặc biệt từ khách thập phương làm
cho nguồn nước mặt bị ô nhiễm nặng bởi cặn bã hữu cơ, chất vô cơ độc hại,
kèm theo các loài sinh vật gây bệnh.
Sông Cầu là một tuyến thuỷ lợi cách Đền Bà Chúa Kho không xa,
nguồn nước ở đây cũng bị ảnh hưởng. Rác thải sinh hoạt ở dạng lỏng, dạng
rắn được tập trung ở hệ thống cống rãnh, mương máng do các nhà ăn, quán xá
đổ trực tiếp vào sông Cầu làm nước sông bị ô nhiễm gây ô nhiễm cả khu vực
thành phố Băc Ninh, Bắc Giang.
Ngoài ra các phương tiện cơ giới phục vụ lễ hội trong quá trình hoạt
động cũng để lại một lượng xăng dầu rơi vãi đáng kể (trong thành phần xăng
dầu có chì và các hidrocacbon (C xHy)) theo nước mưa ngấm xuống đất chảy
xuống các hệ thống mương máng thuỷ lợi làm ô nhiễm tầng nước mặt.
Ô nhiễm vi sinh vật nước mặt thường gặp ở các khu vực nhận nước thải
sinh hoạt. Mùa lễ hội, lượng khách thập phương rất lớn dẫn đến lượng nước
thải, rác thải sinh hoạt cũng rất lớn mang theo nhiều mầm bệnh. Vì vậy để hạn
chế lượng vi sinh vật này cần quản lý tốt nguồn thải, xử lý tốt nguồn nước
thải trước khi cho ra bể chứa cải thiện tình trạng vệ sinh môi trường khu dân
cư.


3.2.3.2. Nước ngầm
Theo độ sâu có thể phân thành nước ngầm mặt và nước ngầm tầng sâu.
Đặc điểm của nước ngầm là khả năng di chuyển nhanh trong các lớp đất rỗng
xốp, tạo thành dòng chảy ngầm theo địa hình bề mặt và tính chất phụ thuộc

vào trạng thái nước bề mặt, nếu như tầng nước mặt bị ô nhiễm thì kéo theo sự
ô nhiễm của tầng nước ngầm.
Nguyên nhân lớn nhất gây ô nhiễm nước ngầm là nước thải và rác thải
không được xử lí làm ô nhiễm tầng nước mặt và tầng đất mặt, từ đó ngấm
xuống tầng nước ngầm ở bên dưới. Nguồn nước thải chính của khu vực là
nước thải sinh hoạt thường xuyên và chủ yếu của khách du lịch, cửa hàng ăn
uống, các khu vực vệ sinh. Hệ thống nhà vệ sinh công cộng tại khuôn viên
của khu vực Đền Bà Chúa Kho là rất ít, không đáp ứng đủ nhu cầu của khách
tham quan. Số nhà vệ sinh tạm bợ sau núi kho vừa không đảm bảo vệ sinh
vừa mất mĩ quan. Đây cũng là một vấn đề gây bức xúc nhiều năm tại Đền Bà
Chúa Kho chưa được giải quyết triệt để. Hiện nay tầng nước mặt đang bị ô
nhiễm do nhiều nguyên nhân khác nhau (ở trên đã nói) từ đó ngấm xuống đất
theo chu trình lắng đọng tự nhiên gây ô nhiễm nước ngầm tầng mặt là nguyên
nhân gây ô nhiễm nước ngầm chung của thành phố.
Nếu không có hệ thống cấp thoát nước và xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn
cả về chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động ngay bây giờ thì vấn đề này
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước của thành phố, là vấn đề nan giải
khi mà một loạt các dự án trong tương lai sẽ được khởi công xây dựng.
Việc khai thác nguồn nước ngầm bừa bãi cũng ảnh hưởng tới trữ lượng
và chất lượng nguồn nước ngầm. Hơn thế, trữ lượng nguồn nước ngầm của
khu vực không lớn, nước ngầm mạch sâu rất hạn chế và phân bố không đều.
Đây là nguyên nhân dẫn đến việc thiếu nước sinh hoạt cho dân cư ở khu vực
này trong tương lai. Vì thế với quy mô hiện tại và trong tương lai thì nguồn


nước ngầm cung cấp đảm bảo vệ sinh cũng là một thách thức lớn cho các nhà
quản lí ở khu vực này.
3.2.4. Hệ sinh thái
Hệ sinh thái bao gồm các sinh vật sống (thực vật, động vật, con người)
và điều kiện tự nhiên như ánh sáng, nước, không khí, nhiệt độ. Hệ sinh thái

gồm tất cả các yếu tố hữu sinh (Biotic component) và vô sinh (Abiotic
component) tác động hỗ ttrợ lẫn nhau và cùng tác động đến chất lượng cuộc
sống của con người. Cân bằng được sinh thái được xác lập khi số lượng quần
thể ở trạng thái ổn định hướng tới sự thích nghi cao nhất với điều kiện môi
trường.
Các yếu tố gây ô nhiễm như rác thải, khí thải, nước thải... đều ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hệ sinh thái.
Đối với hệ sinh thái thuỷ sinh, do tăng các vi khuẩn lạ, các động vật
thuỷ sinh bị chết hàng loạt do ăn phải vi khuẩn gây bệnh, các thực vật khó
phát triển. Trên thực tế chỉ có các loại sinh vật chỉ thị (bèo Nhật Bản, rau
muống) mới sống được. Ngoài ra do nồng độ H + trong nước cao nên các loài
động vật thân mềm có vỏ cứng đều bị mài mòn (các loại ốc, trai, ở khu vực
này có vỏ mỏng hơn và thường dòn, dễ vỡ hơn so với các loại ốc ở các khu
vực khác).
Hệ sinh thái trên cạn: do rác thải không được thu gom nên đây là nguồn
mầm bệnh gây hại cho con người và động vật. Đối với thực vật, các chất thải
làm hỏng hệ sinh vật đất, làm độ tơi xốp phì nhiêu của đất giảm, ảnh hưởng
xấu đến quá trình đồng hoá làm cho thực vật phát triển chậm, còi cọc. Động
vật sống trong rừng mất nơi cư trú ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, là nguyên
nhân gây mất cân bằng sinh thái
Việc khai thác và sử dụng đất ngày càng tăng phục vụ cho các hoạt
động cầu tài lộc, tham quan du lịch tại Đền Bà Chúa Kho. Việc tập trung


trùng tu xây dựng các công trình để phục vụ các hoạt động lễ hội làm cho môi
trường xuống cấp. Các hoạt động này dẫn đến sự phân bố quỹ đất bị ảnh
hưởng. Lượng đất cứ tiếp tục giảm dần dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh
thái là điều tất yếu.
3.3. Hệ thống các giải pháp bảo vệ môi trường tự nhiên của khu di tích
lịch sử - văn hoá Đền Bà Chúa Kho

3.3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp
Hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường đang là vấn đề mang tính chất
toàn cầu, nó đã và đang đe doạ tới sự sống của toàn thế giới. Bất kì một hoạt
động nào của con người cũng đều làm suy thoái môi trường do đó vấn đề gìn
giữ môi trường bên cạnh các hoạt động của con người được đặt ra. Bởi vậy
xuất phát từ thực trạng môi trường như trên chúng tôi đã nghiên cứu và đưa ra
các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường trước mắt, song song là
các giải pháp phát triển môi trường bền vững
3.3.2. Hệ thống các giải pháp
3.3.2.1. Một số giải pháp trước mắt
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước
+ Phải xây dựng và quy hoạch một cách khoa học hệ thống xử lí nước
thải cho toàn bộ khu vực. Hệ thống này phải đạt tiêu chuẩn về môi trường do
nhà nước quy định và phải hoạt động được trong một thời gian lâu dài. Nước
thải sinh hoạt phải được xử lí qua ba bước: xử lí cấp một nhờ các phương
pháp phân tách lí học nhằm giảm nhu cầu oxy, xử lí cấp hai nhờ quá trình
phân huỷ sinh học của các vi sinh vật để giảm tiếp nồng độ chất hữu cơ trong
nước thải, xử lí cấp ba sử dụng các phương pháp hoá học để loại bỏ các hợp
chất vô cơ


Xử lí cấp một (lí học)

Xử lí cấp hai (sinh học)

Xử lí cấp ba (hoá học)

Bể bùn

Nước thải


Tạo bông
Bùn

Chia nhỏ
Lưới lọc

Bể sục khí

Nước qua xử lí Chất rắn

Đá mạt
Lắng thứ cấp
Lắng sơ cấp

Khử
Nước trùng
bằng
clo

Lưới lọc nhỏ giọt

Thải chất rắn

Sông, suối

Thải

Hình: Sơ đồ các công đoạn trong xử lí nước thải. Vi sinh vật phân
huỷ chất thải ở giai đoạn thứ hai

+ Việc xử lí nước thải đi ra từ các hộ gia đình hoặc các đơn vị độc lập
như các khách sạn, hàng ăn uống có thể được thực hiện nhờ các loại bể phân
giải kị khí hay hiếu khí
+ Quy hoạch lại các nhà vệ sinh công cộng trong khu vực rừng sinh
thái thuộc di tích lịch sử văn hoá Đền Bà Chúa Kho, đảm bảo tính khoa học
và mỹ quan.
+ Tăng cường trồng các thực vật thuỷ sinh nhằm đồng hoá bớt lượng
chất độc trong môi trường nước, đặc biệt trồng những cây đem lại nguồn lợi


kinh tế nhưng không phát triển quá nhiều và lâu tránh gây tắc nghẽn dòng
chảy ví dụ như rau muống, rau rút, rau ngổ...
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí
+ Làm những biển cấm du khách đốt hương, mỗi bát hương chỉ cần nhà
Đền thắp bằng hương vòng khi du khách đến chỉ khấn, vái trước các bát
hương không thắp thêm hương vào các bát hương để tránh tình trạng khói
hương nghi ngút làm cho không khí ngột ngạt, nóng bức
+ Giảm lượng vàng mã đốt bằng cách quy định mỗi du khách khi đến
Đền chỉ được mang theo một lượng vàng mã nhất định tượng trưng cho lòng
thành của mình.
+ Nên tăng cường sử dụng các phương tiện giao thông công cộng như
xe buýt, giao thông đường sắt để giảm áp lực do các phương tiện giao thông
gây ra
- Xử lí chất thải rắn
+ Cần phải trang bị các thùng rác trong toàn bộ khu di tích. Các thùng
rác phải được thiết kế sao cho dung tích chứa rác lớn nhưng phù hợp với cảnh
quan. Mỗi một địa điểm đặt thùng rác cần có thêm một bản nội quy nhằm
nâng cao ý thức của du khách thập phương, các thùng rác cần phải đánh dấu ở
ngoài để phân loại rác ngay từ đầu. Tuỳ bản chất của rác để phân loại nên
thiết kế 4 loại thùng: một thùng đựng rác hữu cơ, một thùng đựng rác kim

loại, một thùng đựng nhựa polime (vỏ túi nilon...), một thùng đựng giấy.
+ Bổ sung thêm nhân công thu gom rác.
+ Tăng cường ca hoạt động trong ngày và cường độ làm việc của ban
vệ sinh để kịp thời thu gom, phân loại đưa rác ra khỏi khu vực một cách
nhanh chóng đặc biệt vào mùa lễ hội. Ban quản lí Đền Bà Chúa Kho cần
nghiên cứu kĩ tình hình thực tế để đề xuất các phương án bảo vệ môi trường,


kiến nghị sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch tỉnh Bắc Ninh, từ đó có biện pháp
đồng bộ nhằm bảo vệ môi trường.
3.3.2.2. Một số giải pháp lâu dài
- Giải pháp quy hoạch
+ Trục đường đi vào Đền Bà Chúa Kho có rất ít cây xanh vì vậy sở môi
trường Bắc Ninh cần kết hợp với Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch sát sao với
Ban quản lí di tích Đền Bà Chúa Kho phải quy hoạch trồng cây hai bên đường
những loại cây xanh có dáng đẹp, đem lại lợi nhuận kinh tế có khả năng đồng
hoá các chất gây ô nhiễm môi trường nhằm tạo cảnh quan đẹp, môi trường
trong lành ở khu vực này như keo hoa vàng, bạch đàn
+ Phát triển rừng sinh thái nằm trong khu vực Đền Bà Chúa Kho kết
hợp gắn du lịch văn hoá tín ngưỡng cầu tài lộc với mô hình du lịch sinh thái.
Bước đầu xây dựng khu nhà nghỉ, các làng sinh thái để phục vụ du khách nghỉ
ngơi ăn uống
+ Các khu vực rừng sinh thái có thể gắng thêm tên riêng, tên khoa học
của các loại cây nhằm phục vụ cho những chuyến thực tế thiên nhiên của học
sinh các trường trong tỉnh giúp cho thế hệ trẻ có thêm những kiến thức về sinh
học
- Giải pháp quản lí
+ Xây dựng chính sách bảo vệ môi trường và hoàn thiện nội quy của
Đền Bà Chúa Kho. Xây dựng mô hình quản lí môi trường có khả năng bao
quát có chuyên môn hơn, hệ thống quản lí hiện đại để có thể quản lí tốt các

vấn đề môi trường tự nhiên tại khu di tích.
+ Xử phạt nghiêm minh những người vi phạm việc bảo vệ môi trường
tự nhiên (hút thuốc lá, vứt rác bừa bãi...) phải trả tiền để việc bảo vệ môi
trường đạt hiệu quả cao.
- Giải pháp giáo dục


+ Cần phải giáo dục cho người dân và du khách hiểu được giá trị tâm
linh của hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc đồng thời chính hoạt động này đem
lại hiệu quả kinh tế cho địa phương. Giáo dục cho họ nên hiểu hoạt động tâm
linh chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nên đốt ít vàng mã còn lại công
đức để xây dựng và tu bổ Đền. Như vậy vừa bảo vệ được môi trường không
khí vừa đem lại nguồn kinh phí lớn góp phần tu bổ, tôn tạo Đền Bà Chúa
Kho.
+ Hình thành đạo đức sinh thái là cần thiết đối với mỗ người dân ở
vùng du lịch đó là tinh thần yêu thiên nhiên và ý thức bảo vệ môi trường tự
nhiên. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường thông qua đó giúp người
dân hiểu được rằng môi trường tự nhiên cần được bảo vệ trước hết là vì lợi
ích của chính họ. Sau là tài sản của quốc gia cần được giữ gìn.
+ Phải nâng cao ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên của du khách bằng
cách sử dụng loa đài để nhắc nhở tường xuyên. Có thể tuyên truyền về hoạt
động bảo vệ môi trường tại Đền bằng các tờ rơi, chúng phải được thiết kế
một cách cụ thể rõ ràng dễ hiểu đối với mọi đối tượng
+ Muốn bảo vệ môi trường cũng như phát triển bền vững Đền Bà Chúa
Kho thì các ngành các cấp của tỉnh Bắc Ninh phải ý thức được sâu sắc nhiệm
vụ của mình và làm việc một cách tâm huyết. Để thực hiện tốt nội dung này
cần có sự kết hợp giữa các Sở nhất là Sở Giáo dục – Đào tạo và Sở Văn hoá –
Thể thao – Du lịch cùng các cơ quan chức năng khác.
- Thiết lập chương trình quan trắc
+ Lập danh sách các đối tượng có chính sách quy hoạch hoặc chương

trình về bảo vệ môi trường tại Đền Bà Chúa Kho bao gồm các quyết định
chính thức của tỉnh Bắc Ninh. Cần phải thực hiện và xác định rõ khó khăn
chính, trình bày các mục tiêu ưu tiên phát triển.


+ Phân tích các vấn đề môi trường và các đối tượng cần được bảo vệ ở
khu di tích Đền Bà Chúa Kho. Ban quản lí Đền Bà Chúa Kho tiến hành sàng
lọc và xác định nội dung phù hợp với thực tế khách quan về vấn đề môi
trường ở Đền.
+Xác định các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, kiến nghị
các biện pháp thích hợp, lựa chọn phương án tối ưu.
+Thiết lập sự giám sát cần thiết trong từng giai đoạn hành động bảo vệ
môi trường ở Đền Bà Chúa Kho.
Thực tế là chưa có một quan trắc môi trường tổng hợp nào được thực
hiện ở Đền Bà Chúa Kho với kết quả đầy đủ các chỉ tiêu đánh giá mức độ ô
nhiễm môi trường tự nhiên. Vì vậy đề nghị sở tài nguyên môi trường tỉnh Bắc
Ninh thiết lập một mạng lưới quan trắc trong khu vực Đền để có sự đánh giá
toàn diện thực trạng môi trường nơi đây, tạo được nền tảng khoa học vững
chắc, qua đó việc bảo vệ môi trường sẽ đạt hiệu quả cao hơn.


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ngày nay chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao kéo theo nhu cầu
của con người cũng ngày một khác. Nhu cầu của con người không chỉ là “ăn,
mặc, ở” mà nhu cầu về du lịch ngày một tăng. Và xu thế hiện nay địa điểm du
lịch không chỉ là các danh lam thắng cảnh mà là các địa điểm du lịch tâm linh,
trong đó địa điểm Đền Bà Chúa Kho là nơi mà rất đông du khách đổ về hàng
năm. Chính các hoạt động đó của con người đã làm môi trường nơi đây đang
bị suy thoái, do đó chúng ta cần phải có các biện pháp để bảo vệ môi trường

của khu vực di tích Đền Bà Chúa Kho.
Qua quá trình thực hiện đề tài “Đánh giá tác động hoạt động tín
nngưỡng cầu tài lộc tới môi trường tự nhiên tại Đền Bà Chúa Kho (xã Vũ
Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) và hệ thống các giải pháp” mà
kết quả nghiên cứu chính đã được trình bày ở trên cho phép tôi đưa ra một số
kết luận sau:
1. Hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tại Đền Bà Chúa Kho là hoạt động
mang tính chất tâm linh chứ không phải hoạt động giải trí thông thường. Hoạt
động này thể hiện văn hoá tín ngưỡng dân gian rất đặc trưng không riêng của
vùng đất Kinh Bắc mà là của cả dân tộc Việt Nam.
2. Hoạt động tín ngưỡng cầu tài lộc tại Đền bà Chúa Kho thể hiện
những mong muốn, khát vọng chính đáng của nngười dân về một cuộc sống
tốt đẹp hơn, xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp. Chính hoạt động này đã
đánh thức tiềm thức dân tộc của người Việt. Do vậy mà sức sống mãnh liệt
của Đền Bà Chúa Kho vẫn còn đến ngày nay dù đã trải qua bao thăng trầm
của lịch sử.
3.Môi trường cảnh quan của khu di tích lịch sử - văn hoá Đền Bà Chúa
Kho thực sự vẫn đang đứng trước những nguy cơ xuống cấp, mặc dù trong


×