Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận môn bảo hiểm trong kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.58 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***---------

TIỂU LUẬN
BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH
Đề tài
BẢO HIỂM: LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
TRONG KINH DOANH
Giảng viên: Trần Sĩ Lâm
Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Lớp: K51 – Kinh doanh quốc tế

Quảng Ninh tháng 10 năm 2015

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***---------

TIỂU LUẬN
BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH
Đề tài
BẢO HIỂM: LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
TRONG KINH DOANH
Giảng viên: Trần Sĩ Lâm
Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Lớp: K51 – Kinh doanh quốc tế

Quảng Ninh tháng 10 năm 2015


MỤC LỤC



Danh mục các chữ viết tắt
BHXH: bảo hiểm xã hội
BHYT: bảo hiểm y tế
DNBH: doanh nghiệp bảo hiểm
KDBH: kinh doanh bảo hiểm
SPBH: Sản phẩm bảo hiểm


Danh mục các bảng biểu, hình vẽ

LỜI MỞ ĐẦU
Ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người từ thời Ai Cập cổ đại, bảo hiểm đã
phát triển rất nhanh trở thành một ngành kinh doanh lớn mạnh với rất nhiều công ty
lớn và số lượng các sản phẩm bảo hiểm. Ngày nay, bảo hiểm rất phổ biến trên toàn
thế giới và đóng vai trò quan trọng vô cùng cần thiết trong đời sống xã hội. Riêng ở
Việt Nam, dù ngành kinh doanh bảo hiểm ra đời khá muộn so với thế giới nhưng
cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ.
Tuy phổ biến và phát triển mạnh mẽ trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng như vậy nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về bảo hiểm, bản chất của nó đặc
biệt là ở Việt Nam. Nhận thấy thực trạng đó, nhóm chúng em quyết định chọn thực
hiện đề tài tiểu luận “ Bảo hiểm: Lý thuyết và thực tiễn trong kinh doanh”. Bài
tiểu luận có kết cấu 2 chương chính như sau:
Chương 1: Lý thuyết bảo hiểm
Chương 2: Thực tiễn bảo hiểm trong kinh doanh
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài tiểu luận này khó tránh khỏi
những thiếu xót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy để nhóm em có thể rút ra

kinh nghiệm để thực hiện những bài sau tốt hơn.
Nhóm thực hiện
Nhóm 8


CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT BẢO HIỂM
1.1 Lịch sử phát triển
Khái niệm bảo hiểm đã hình thành từ lâu và ngành bảo hiểm trên thế giới đã
có lịch sử phát triển khá lâu dài. Trước công nguyên, ở Ai Cập, những người thợ
đẽo đá đã biết thành lập “quỹ tương trợ” để giúp đỡ nạn nhân trong các vụ tai nạn.
Từ đó, các hoạt động mang tính chất của bảo hiểm phát triển dần theo sự phát triển
của xã hội loài người. Bắt đầu bằng hình thức các quĩ dự trữ, tương trợ đơn giản,
các loại hình bảo hiểm dần dần được hình thành và phát triển.
Đầu tiên là vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên người ta đã tìm cách
giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm
nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình
thức nguyên khai của bảo hiểm. Sau đó để đối phó với những tổn thất nặng nề thì
hình thức “cho vay mạo hiểm” đã xuất hiện theo đó trong trường hợp xảy ra tổn thất
đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được miễn không phải
trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một lãi suất rất cao khi
hàng hoá đến bến an toàn, như vậy có thể hiểu lãi suất cao này là hình thức sơ khai
của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra ngày càng nhiều làm cho các nhà kinh
doanh cho vay vốn cũng lâm vào thế nguy hiểm và thay thế nó là hình thức bảo
hiểm ra đời.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm
hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm
sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi
có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo
hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu

giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ,
ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.
Về cơ sở pháp lý thì có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp
luật đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne
năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam
năm 1558. Ngoài ra còn có sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 liên quan đến hợp
đồng bảo hiểm hàng hoá.


Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương thức
sản xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu
vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Mở đường cho sự phát triển này là
luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do
Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành , đó là những đạo luật mở đường cho
lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.
Đến thế kỷ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong buôn bán và hàng
hải quốc tế với Luân Đôn là trung tâm phồn thịnh nhất. Tàu của các nước đi từ
Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi đều về cập bến hai bờ sông Thame của
thành phố Luân Đôn. Các tiệm cà phê là nơi gặp gỡ của các nhà buôn, chủ ngân
hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm … để giao dịch, trao đổi tin tức, bàn luận
trực tiếp với nhau.
Edward Lloyd’s là một thuyền trưởng về hưu bắt đầu mở quán cà phê ở phố
Great Tower ở Luân Đôn vào khoảng năm 1692. Các các nhà buôn, chủ ngân hàng,
người chuyên chở, người bảo hiểm…thường đến đó để trao đổi các thông tin về các
con tầu viễn dương, về hàng hóa chuyên chở trên tàu, về sự an toàn và tinh hình tai
nạn của các chuyến tàu… Ngoài việc quản lý quán cà phê, năm 1696 Edward
Lloyd’s còn cho ra một tờ báo tổng hợp các tình hình tàu bè và các vấn đề khác
nhằm cung cấp thông tin cho các khách hàng của ông. Tuy nhiên việc làm chính của
ông vẫn là cung cấp địa điểm để khách hàng đến giao dịch bảo hiểm, hội họp. Sau
khi Edward Lloyd’s qua đời người ta thấy rằng cần phải có một nơi tương tự như

vậy để các nhà khai thác bảo hiểm hàng hải tập trung đến giao dịch bảo hiểm và
năm 1770, “Society of Lloyd’s” với tư cách là một tổ chức tự nguyện đã thành lập
và thu xếp một địa điểm ở Pope’s Head Alley cho các thành viên của họ. Sau đó tổ
chức này rời địa điểm đến trung tâm hối đoái của Hoàng gia và ở đó đến năm 1828
thì rời đến toà nhà riêng của họ tại phố Leaden Hall. Tổ chức này hoạt động với tư
cách là tổ chức tư nhân đến năm 1871 thì hợp nhất lại theo luật Quốc hội và trở
thành Hội đồng Lloyd’s và sau này đã trở thành nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm
và hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới.
Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu bằng
vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà
trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể
cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng
chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả


hoạn như : " Fire Office" (năm 1667), "Friendly Society" (năm 1684), "Hand and
Hand" (năm 1696), "Lom Bard House" (năm 1704) ... Lúc đó Công ty bảo hiểm
Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX
mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm.
Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty
bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập đó là “Company L'assurance
Centree L'incendie” và “Company Royade” (năm 1788). Sự kiện đáng được lưu
truyền thời gian này và trong lịch sử bảo hiểm là công trình toán học của Pascal về
"Hình học của rủi ro " (Lageometric Du Hasard) năm 1654 đã đưa đến toán học xác
suất. Đó là cơ sở thống kê xác suất phục vụ cho hoạt động bảo hiểm và ngày nay
vẫn được coi là kỹ thuật cơ bản của ngành bảo hiểm.
1.2 Rủi ro và các biện pháp đối phó với rủi ro
1.2.1 Rủi ro
Trong cuộc sống hàng ngày, trong sinh hoạt kinh tế của con người thường có
những tai họa, tai nạn, sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra,gây thiệt hại về con người

và tài sản. Những tai họa, tai nạn, sự cố xảy ra một cách bất ngờ,ngẫu nhiên như
vậy gọi là rủi ro.
1.2.2 Các biện pháp tránh rủi ro
Để đối phó với các rủi ro con người đã dùng các biện pháp sau đây:


Tránh rủi ro

Tránh rủi ro tức là làm việc gì đó không quá mạo hiểm, không chắc chắn. Biện pháp
này có nhược điểm làm con người lúc nào cũng sợ sệt, không dám làm việc gì, mà
không dám làm gì thì cũng không thu được kết quả gì.


Ngăn ngờ, hạn chế rủi ro

Biện pháp này, thể hiện ở việc các công ty, các cá nhân dùng những biện pháp để
phòng ngờ, hạn chế rủi ro và hậu quả của nó như: hệ thống phòng cháy chữa cháy;
hệ thống bảo vệ chống trộm cắp; các biện pháp an toàn lao động; các biện pháp oan
toàn lao động; các biện pháp hạn chế tai nạn giao thôn…Tuy nhiên, biện pháp này
cũng không thể ngăn chặn được hết các rủi ro xảy ra.




Tự khắc phục rủi ro

Biện pháp này thể hiện ở việc các công ty, các cá nhân dụ trữ một khoản tiền nhất
định để khi có rủi ro xảy ra thì dung các khoản tiền đó bù đắp khắc phục hậu
quả.Biện pháp này còn gọi là tự bảo hiểm. (Biện pháp này cũng có những hạn chế
nhất định như: không phải cá nhân hay công ty nào cũng có sẵn tiền để dự trữ; tiền

dự trữ này không thê bù đắp được những rủi ro, tổn thất lớn cá tính chất thảm họa,
sẽ gây động vốn lớn trong xã hội nếu công ty cá nhân nào cũng dự trữ như vậy.


Chuyển nhượng rủi ro

Một cá nhân hay công ty khi tự mình thấy không thể chịu đựng được một hay nhiều
rủi do lớn, có tính chất thảm họa, phải tìm cách san sẻ bằng cách chuyển nhượng rủi
do cho các công ty khác. Khi chấp nhận rủi ro, các công ty khác đó phải bồi thường
những thiệt hại do rủi do đã thỏa thuận gây ra, còn người chuyển nhượng rủi ro phải
trả một khoản tiền. Biện pháp đó gọi là bảo hiểm. Biện pháp này có nhiều ưu điểm:
không gây động vốn trong xã hội; phạm vi bù đắp rộng lớn; có thể bù đắp những rủi
ro có tính chất thảm họa … và phát triển cho đến ngày nay.
1.3 Bảo hiểm
“Bảo hiểm” là một biên pháp tốt nhất, hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả của
rủi ro. Có thể định nghĩa bảo hiểm như sau: bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường
của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của
đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện người được
bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tưởng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là
phí bảo hiểm.
Trong định nghĩa trên, cần lưu ý một số khái niệm sau đây:
- Người bảo hiểm là người nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo
hiểm và phải bồi thường khi có tôn thất xảy ra. Người bảo hiểm có thể là công ty
nhà nước hay của tư nhân.
- Người được bảo hiểm là người có lợi ích bảo hiểm là người bị thiệt hại khi
rủi ro xảy ra và được người bảo hiểm bồi thường. Người được bảo hiểm là người có
tên trong hợp đồng bảo hiểm và là người phải nộp phí bảo hiểm.
- Đối tượng bảo hiểm là tải sản hoặc lợi ích mang ra bảo hiểm. Đối tượng bảo
hiểm có thể là tài sản, con người hoặc trách nhiệm đối với người thứ ba.
- Rủi ro được bảo hiểm là rủ ro đã thỏa thuận trong hợp đồng. Người bảo hiểm

chỉ bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thỏa thuận gây ra mà thôi.


1.4 Bản chất của bảo hiểm
Thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người
ra cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo
hiểm nào đó muốn tiến hành phải có nhiều người tham gia hay nói cách khác bảo
hiểm chỉ hoạt động trên cơ sở luật số đông (the law of large numbers). Càng có
nhiều người tham gia thì xác suất xảy ra rủi ro đối với từng người cảng nhỏ và bảo
hiểm càng có lãi.
1.5 Vai trò của bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm là cần thiết do có sự tồn tại khách quan của rủi ro.
Bảo hiểm có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống nhân
dân thể hiện ở những mặt sau đây:
- Sử dụng những khoản tiền nhàn rỗi một cách hiệu quả;
- Bù đắp những thiệt hại, mất mát về người và tài sản của nhà nước, của
các doanh nghiệp, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của cá nhân do các
rủi ro gây ra nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro để ổn định sản xuất,
-

kinh doanh đời sống;
Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm mà tập trung vào một số

-

đấu mối để đầu tư vào những lĩnh vực khác;
Bổ sung và ngân sách của nhà nước bằng lãi của bảo hiểm;
Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia;
Tạo ra một tâm lí an tâm trong hoạt động kinh tế và đời sống;
Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong mọi lĩnh vực

hoạt động của con người.

1.6 Các nguyên tắc bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản sau
đây:
• Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (Fortuity not
certainty): Chỉ bảo hiểm một rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn
của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra.
• Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Tất cả các giao dịch kinh
doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối. Cả
người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều phải trung thực trong tất cả các vấn
đề.


• Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest): Quyền lợi có
thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với, hay phụ
thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Nguyên tắc này
chỉ ra rằng người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm.
Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong đối
tượng bảo hiểm.
• Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất
xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người
được bảo hiểm có vị trí tái chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn
không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.
• Nguyên tắc thế quyền (subrobgation): Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo
hiểm sau khi bồi thường cho người đượcbảo hiểm, có quyền thay mặt người
được bảo hiểm để đòi người thứ ba trách nhiệm bồi thường cho mình.
1.7 Phân loại bảo hiểm
1.7.1 Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm, có thể phân loại
• Bảo hiễm xã hội (social insurance) : Bảo hiểm xã hội là biện pháp bảo đảm,

thay đổi hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động do gặp phải những
biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm thông qua một quỹ
tiền tệ được tập trung từ sự đóng góp của người lao động và gia đình họ, đồng
thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ
thống an sinh xã hội ở mỗi nước
Đặc điểm: BHXH của nhà nước có những đặc điểm như sau:
Đối tượng của BHXH là người lao động nói chung. Phạm vi áp dụng bảo hiểm xã
hội ở nước ta đến người lao động làm công ăn lương, cán bộ, công chức và một số
đối tượng khác.
BHXH mang tính xã hội rộng rãi, trên nguyên tắc lấy số nhiều bù số ít.
BHXH có chế độ trợ cấp đa dạng, toàn diện, ổn định.
Bảo hiểm xã hội có các loại sau đây :
_ Chế độ bảo hiểm xã hội với cán bộ, viên chức nhà nước
_ Bảo hiểm thất nghiệp
_ Bảo hiểm y tế


• Bảo hiểm thương mại (comercial insurance) là loại hình bảo hiểm mang tính
chất kinh doanh, kiếm lời. Loại bảo hiểm này có đặc điểm: không bắt buộc, có
tính đến từng đối tượng, từng rủi ro cụ thể, nhằm mục đích kinh doanh…
1.7.2 Căn cứ và tính chất của bảo hiểm, có:
• Bảo hiểm nhân thọ (life insurance) là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của
con người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời
hạn bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ
vĩnh viễn. Bảo hiểm nhận thọ bao gồm các loại nghiệp vụ:
- Bảo hiểm trọn đời
- Bảo hiểm sinh kỳ
- Bảo hiểm tử kỳ
- Bảo hiểm hỗn hợp
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ…

• Bảo hiểm phi nhân thọ
- Bảo hiếm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người
- Bảo hiểm hàng hải, gồm bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm chủ tàu
- Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng
không…
- Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm hàng không
- Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
- Bảo hiểm dầu khí
- Bảo hiểm xe cơ giới
- Bảo hiểm trách nhiệm của người giao nhận
- Bảo hiểm trách nhiệm chung và trách nhiệm sản phẩm
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
- Bảo hiểm nông nghiệp
- Bảo hiểm du lịch
- Bảo hiểm bồi thường cho người lao động…
1.7.3 Căn cứ vào dối tượng bảo hiểm, có:
• Bảo hiểm tài sản: đối tượng bảo hiểm là tài sản, của tập thể hay cá nhân bao
gồm vật có thực, tiền giấy tờ có giá… Thiệt hại được bồi thường trong loại hình
bảo hiểm này mang tính vật chất(physical)
• Bảo hiểm trách nhiệm: đối tượng bảo hiểm trong loại hình này là trách nhiệm
dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba hay đối với sản phẩm…


• Bảo hiểm con người: đối tượng bảo hiểm là con người hay các bộ phận của cơ
thể con người hay các vấn đề có liên quan như tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai
nạn…
1.7.4 Theo quy định của pháp luật, còn có thể phân ra:
Bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Theo luật kinh doanh bảo hiểm
Việt Nam do chủ tịch nước công bố ngày 22 – 12 – 2000, các loại hính sau đây là

bắt buộc:
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối
với khách hàng
• Bảo hiểm trách nhiệm dân của chủ xe cơ giới
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp
luật
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm
• Bảo hiểm cháy, nổ.
1.8 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm (premium) là một khoản tiền nhỏ mà người được bảo hiểm phải
nộp cho người bảo hiểm để được bồi thường. Mức bỏa hiểm thường do người bảo
hiểm định ra trên cơ sở tính toán xác suất xảy ra rủi ro hoặc trên cơ sở thống kê tổn
thất nhằm đảm bảo số phí thu về đủ để bồi thường và bù đắp các chi phí khác đồng
thời có lãi. Số thu về phí bảo hiểm trong khi chưa bồi thường là một nguồn vốn
quan trọng để công ty bảo hiểm đầu tư sang những lĩnh vực kinh doanh khác.
Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu đối tượng bảo hiểm của
người được bảo hiểm nào đó bị tổn thất do một rủi ro được bảo hiểm gây nên thì
người bảo hiểm sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm đó. Khoản tiền mà công ty
bảo hiểm bồi thường lấy từ số phí bảo hiểm của tất cả những người tham gia bảo
hiểm đã nộp. Trong số những người tham gia bảo hiểm không phải tất cả đều bị tổn
thất mà thường chỉ có một hoặc một số người. Những người không bị tổn thất hiển
nhiên bị mất không số phí bảo hiểm.
1.9 Sản phẩm bảo hiểm
1.9.1 Khái niệm
Xét theo góc độ khách hàng: SPBH là sự cam kết của DNBH đối với bên
mua bảo hiểm về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Định nghĩa này xuất phát từ việc khi mua bảo hiểm, bằng việc trả một khoản
tiền nhất định - nộp phí bảo hiểm, bên mua bảo hiểm sẽ được DNBH cấp cho hợp



đồng bảo hiểm xác nhận rằng DNBH sẽ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho họ
khi xảy ra các sự kiện như đã thỏa thuận.
Xét theo góc độ quản trị KDBH: SPBH là sản phẩm mà DNBH bán.
Xét theo khía cạnh quản trị kinh doanh theo triết lý marketing, SPBH gồm 3
cấp độ:
- Cấp độ 1: thành phần cốt lõi (bảo đảm bảo hiểm) lợi ích cơ bản mà khách hàng
nhận được khi mua bảo hiểm.
- Cấp độ 2: Thành phần hiện hữu (tên gọi, đặc tính) phản ánh sự có mặt thức tế của
sản phẩm.
- Cấp độ 3: Thành phẩn gia tăng( sản phẩm bổ sung) các yếu tố thuộc dịch vụ sau
khi bán.
1.9.2 Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm
SPBH có các đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ và cũng có các đặc điểm
riêng biệt
 Đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ thể hiện trong SPBH:


Tính vô hình:

Vào thời điểm bán, sản phẩm chủ yếu mà các nhà bảo hiểm cung cấp ra thị
trường chỉ là lời hứa, lời cam kết bồi thường hay trả tiền bảo hiểm của nhà bảo hiểm
khi xảy ra các rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm. Đó là sản phẩm vô hình mà người bán
không chỉ ra được màu sắc, kích thước hay hình dạng của nó và người mua cũng
không cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Người mua buộc phải tin vào
người bán - nhà bảo hiểm.


Tính không thể tách rời và không thể cất trữ:


Không thể tách rời tức là: tạo ra SPBH trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó
(quá trình cung ứng và tiêu thụ là một thể thống nhất)


Không thể cất trữ: khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm vào 1 thời điểm nào
đó sẽ không thể cất trữ vào kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong
tương lai.


Tính không đồng nhất:

Do sản phẩm thực hiện chủ yếu bởi con người, nên chất lượng phục vụ của
một cá nhân nào đó tại mỗi thời điểm khác nhau, khách hàng khác nhau là hác nhau.


Tính không được bảo hộ độc quyền:

Một hợp đồng bảo hiểm dù là bản gốc cũng không được cấp bằng phát minh
sáng chế và không được bảo hộ về bản quyền. Về lý thuyết, mọi doanh nghiệp bảo
hiểm đều có thể bán một cách hợp pháp những hợp đồng là bản sao chép của đối
thủ cạnh tranh ngoại trừ tên và cách thức tuyên truyền quảng cáo.
 Đặc điểm riêng của SPBH:


SPBH là sản phẩm không mong đợi:

Đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần túy,mặc dù đã mua bảo hiểm
nhưng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra để DNBH bồi thường, vì
điều đó đồng nghĩa với thương tích, thiệt hại, mất mát. Do đó số tiền DNBH bồi
thường khó có thể bù đắp được.



SPBH là sản phẩm của chu trình hạch toán đảo ngược:

Giá cả của SPBH dựa trên số liệu ước tính về các chi phí phát sinh trong tương
lai. Trong đó khoản chi chiếm tỷ lệ lớn nhất là chi bồi thường, xác định dựa trên số
liệu thống kê quá khứ và ước tính tương lai về tần suát và qui mô tổn thất.


SPBH là sản phẩm có hiệu quả xê dịch.:

Có nghĩa là lợi ích đối với khách hàng từ việc chi trả, bồi thường cũng bấp
bênh và xê dịch theo thời gian. Người ta mua bảo hiểm nhưng không biết mình sẽ
sử dụng khi nào. đối với loại sản phẩm chỉ mang tính rủi ro thì khách hàng mua bảo
hiểm không những mong muốn mà không bao giờ có ý nghĩ sẽ gặp rủi ro để được
bồi thường. Khách hàng chỉ thấy được tác dụng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với họ.


1.9.3 Chu kì sống của sản phẩm bảo hiểm
Chu kỳ sống hay vòng đời của sản phẩm bao gồm các giai đoạn mà một sản
phẩm tồn tại từ lúc xuất hiện cho đến lúc biến mất trên thị trường. Chu kỳ sống có
thể dài hoặc ngắn mặc dù doanh nghiệp luôn mong mỏi sản phẩm của doanh nghiệp
sẽ tồn tại lâu dài và sinh lợi. Mỗi hàng hóa trong quá trình phát triển, phải trải qua
một số giai đoạn nhất định.


Giới thiệu hay triển khai




Phát triển hay tăng trưởng



Chín muồi hay bão hoà



Đi xuống hay suy thoái

1.9.4 Giá cả sản phẩm bảo hiểm
 Việc xác định giá dựa trên 2 khía cạnh cơ bản:


Thứ nhất: “mức giá hợp lý” mức giá này giúp doanh nghiệp hình thành quỹ
tài chính đủ để chi trả cho các khiếu nại, trang trải cho các chi phí hoạt động
và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mức giá này xác định trên tần suất
xảy ra sự kiện bảo hiểm, mức độ tổn thất bình quân, lãi suất đầu tư…



Thứ hai: “giá bán thực tế” giá này tính đến các mục tiêu thị trường, môi
trường cạnh tranh của doanh nghiệp, dựa trên cơ sở thu thập ý kiến của nhiều
bộ phận liên quan trong doanh nghiệp.

Vậy nên giá cả của SPBH phải đáp ứng các yêu cầu trang trải chi phí, mang lại
lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh … và yêu cầu về
mặt quản lý nhà nước. Giá không được quá cao, không được phân biệt đối xử mọt
cách bất công bằng. Ngoài ra cũng phải đảm bảo tính ổn định theo thời gian, phản
ứng trước được những thay đổi của môi trường cũng như bản thân doanh nghiệp.



1.10 Thị trường bảo hiểm
1.10.1 Khái niệm và phân loại thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ, là nơi mua bán các sản phẩm bảo
hiểm. Phân loại: thông thường phân loại thị trường bảo hiểm theo các tiêu thức sau:


Theo đối tượng bảo hiểm.



Theo lĩnh vực bảo hiểm: nhân thọ và phi nhân thọ



Theo khách hàng tham gia bảo hiểm: cá nhân, tổ chức



Kết hợp 3 tiêu thức trên với 4 tiêu thức dùng trong marketing: là địa lý, nhân
khẩu học, tâm lý và hành vi người tiêu dùng.

1.10.2 Đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm
 Cung, cầu về các loại sản phẩm luôn biến động:

Cung tăng do DNBH ngày càng nhiều, SPBH gắn với sự phát triển của khoa học, kĩ
thuật, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa…
Cầu về bảo hiểm dân cư, tổ chức xã hội ngày càng tăng.
Cung - cầu về các SPBh phát triển song hành, không có hiện tượng mất cân đối và

khủng hoảng thừa.
 Giá cả sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

Giá tức là phí bảo hiểm, thay đổi theo thời gian, theo các chihs sách quản lý của nhà
nước, các quy luật cung cầu theo thị trường và quy luật cạnh tranh.
 Cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục:

Cũng như các doanh nghiệp khác, sự cạnh tranh giữa các DNBH để giành khách
hàng thu được nhiều lợi nhuận cũng diễn ra liên tục, quyết liệt trên nhiều khía cạnh,
thủ thuật. Do đặc điểm của SPBH là dễ bắt chước, không bảo hộ độc quyền nên các
DNBH đổ xô vào những sản phẩm được thị trường chấp nhận bằng cách cải tiến,
oàn thiện sản phẩm, quảng bá sâu rộng… Cùng với đó sự liên kết diễn ra mạnh mẽ,
tăng sức mạnh cho doanh nghiệp nhỏ, tăng thêm đồng minh cho doanh nghiệp lớn.


 Thị phần các doanh nghiệp luôn thay đổi:

Thị phẩn bảo hiểm là tỷ lệ % của mỗi DNBH chiếm trong thị trường bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm = (doanh thu phí bảo hiểm doanh nghiệp/tổng phí thu được
trên toàn thị trường ×100 %


Hình 1.1: Mô hình diễn tả thị phần của doanh nghiệp

Toàn bộ thị trường
Thị trường tiểm năng

Thị trường thực tế
Thị phần của doanh
nghiệp


Bộ phận không
tiêu dùng tuyệt
đối

Bộ phận khách hàng tiêu dùng tương
đối
Thị phần của các doanh nghiệp khác

Nguồn: Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm- trang 33
Thị trường bảo hiểm còn có các đặc điểm riêng như:
• Thị trường bảo hiểm có đối tượng khách hàng rất rộng, đa dạng, bao
gồm tài sản, trách nhiệm dân sự, con người.
• Thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính, chịu sự kiểm soát
chặt chẽ của nhà nước.
• Thị trường bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các thị trường khác, phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường tự nhiên, môi
trường pháp lý…
• Thị trường bảo hiểm cung cấp các sản phẩm liên quan đến rủi ro,sự bấp
bênh. Trong thực tế, bảo hiểm cung cấp những sản phẩm nhằm bồi
thường về tài chính cho những tổn thất do tai nạn, rủi ro bất ngờ.
• Thị trường bảo hiểm hoạt đôngj theo quy luật “số đôg bù số ít”. Bảo
hiểm thực chất là hoạt động phân tán rủi ro và tổn thất mà rủi ro gây ra
giữa những người tham gia bảo hiểm có cùng nguy cơ gặp rủi ro tương
tự. Việc phân tán rủi ro hiệu quả theo quy luật số đông sẽ góp phần
giúp doanh nghiệp bảo hiểm hạn giá thành sản phẩm bảo hiểm, cải
thiện lợi nhuận, nâng cao chất lượng dịch vụ.


CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN BẢO HIỂM TRONG
KINH DOANH
2.1 Thị trường bảo hiểm trên thế giới
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Như đã nói ở mục 1.1 bảo hiểm có mặt rất sớm trong lịch sử ở khắp mọi nơi,
từ Ai Cập, Babylon cổ đại tới Ấn Độ và Trung Hoa. Trong đó phát triển mạnh nhất
là bảo hiểm hàng hải. Nhưng việc kinh doanh bảo hiểm chỉ phát triển vượt bậc khi
xuất hiện hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi đó sản xuất phát triển mạnh, giao
thương và xâm chiếm thuộc địa cũng phát triển mạnh, bảo hiểm có cơ hội phát triển
mạnh tại các nước tư bản lớn. Đặc biệt là nước Anh, khi đó là đế quốc mạnh nhất và
có ngành hàng hải rất phát triển, có lẽ cũng vì lý do đó mà các luật về bảo hiểm trên
thế giới sau này thường theo các đạo luật bảo hiểm của Anh hoặc có ý giống luật
của Anh.
2.1.2 Một vài công ty bảo hiểm nổi tiếng trên thế giới
 Hội đồng bảo hiểm Lloyd’s
Hội đồng bảo hiểm Lloyd’s có vai trò rất quan trọng trong lịch sử phát triển
ngành bảo hiểm trên toàn thế giới, khởi đầu chỉ là một quán cà phê cho các thủy thủ
ngồi thư giãn nói về hành trình của mình, trải qua rất nhiều biến cố, khó khăn như
phải chi trả cho thảm họa Titanic và 11/9 nhưng Hội đồng bảo hiểm Lloyd’s vẫn
phát triển không ngừng tới mức người ta gọi nó là thị trường bảo hiểm chứ không
phải là công ty hay tập đoàn.
 AXA
Với hơn 102 triệu khách hàng tại 56 quốc gia và số lượng nhân viên lên tới
157.000 người, AXA là một trong những tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới. Hoạt
động kinh doanh chính của AXA là bảo hiểm tài sản và bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm
nhân thọ, tiết kiệm, và quản lý tài sản. AXA được thành lập năm 1817 khi một số
công ty bảo hiểm sáp nhập để tạo AXA. Công ty có trụ sở tại Paris và có chi nhánh
ở khắp thế giới
 Tập đoàn Bảo hiểm Zurich
Zurich Insurance Group, một công ty bảo hiểm toàn cầu có trụ sở tại Thụy Sĩ,

được thành lập vào năm 1872. Tập đoàn có các công ty con, hoạt động tại hơn 170
quốc gia, cung cấp sản phẩm bảo hiểm và các dịch vụ. Hoạt động chính của tập
đoàn bao gồm bảo hiểm nói chung, cuộc sống toàn cầu, và bảo hiểm nông dân. Với
sức mạnh của của hơn 55.000 nhân viên, Zurich phục vụ cho các nhu cầu bảo hiểm


lớn của các cá nhân và các doanh nghiệp thuộc mọi quy mô, công ty cỡ vừa và lớn
có kích thước nhỏ và thậm chí các tập đoàn đa quốc gia.
 Tập đoàn Bảo hiểm nhân thọ Trung Quốc
Tập đoàn Bảo hiểm nhân thọ Trung Quốc là một trong những công ty bảo
hiểm nhà nước và các dịch vụ tài chính lớn nhất của Trung Quốc đại lục, cũng như
một thành phần quan trọng trong thị trường vốn của Trung Quốc như là một tổ chức
đầu tư. Tập đoàn có bảy công ty con. Hoạt động chính trên bảo hiểm nhân thọ, kế
hoạch hưu trí, quản lý tài sản, tài sản và thương vong, cổ phần đầu tư, và các hoạt
động ở nước ngoài. Công ty được niêm yết trên sàn chứng khoán New York, thị
trường chứng khoán Hồng Kông, và thị trường chứng khoán Thượng Hải, và là
công ty bảo hiểm nhân thọ công cộng lớn nhất về vốn hóa thị trường trên thế giới.
 Berkshire Hathaway
Berkshire Hathaway được thành lập vào năm 1889 và sau đó được điều hành
bởi Warren Buffet, người đã biến công ty từ tầm thường thành một trong những
công ty lớn nhất trên thế giới. Berkshire Hathaway Inc hiện tại là một tập đoàn quản
lý đầu tư hàng đầu, tham gia bảo hiểm và các lĩnh vực khác như giao thông vận tải
đường sắt, tài chính, điện nước và năng lượng, sản xuất, dịch vụ và bán lẻ thông qua
các công ty con của nó.
2.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Không có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào
năm 1880 có các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ,
Hoa kỳ... đã để ý đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt
Nam bởi các Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở

thêm một Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là
của Công ty Franco- Asietique. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở
tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe
ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình
thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại
quốc. Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo
Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến
hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm
tàu viễn dương…Nhìn chung, bảo hiểm Việt Nam ra đời khá muộn so với sự phát
triển chung của ngành bảo hiểm thế giới do nhiều điều kiện chủ quan cũng như
khách quan. Tuy nhiên, hiện nay, ngành bảo hiểm đang dần dần bắt kịp xu thế phát


triển chung của bảo hiểm trong khu vực và quốc tế và ngày càng chứng tỏ vai trò
không thể thiếu được của mình đối với nền kinh tế.
2.2.2 Thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay
 Thị trường phát triển nhanh và chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ
Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một thị trường tiềm năng, tốc độ tăng trưởng
hằng năm cao và vẫn tiếp tục tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng của thị trưởng bảo
hiểm Việt Nam đạt khoảng 22% trong giai đoạn từ 2011 tới 2014. Trong đó, lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh nhất và cũng là loại hình bảo hiểm phổ biến
nhất tại Việt Nam, chiếm hơn nửa thị phần bảo hiểm.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo
hiểm Việt Nam như là sự ổn định về kinh tế - chính trị, chính sách mở cửa thu hút
đầu tư nước ngoài,… và quan trọng nhất là việc sửa đổi Luật kinh doanh bảo hiểm
tạo điều kiện pháp lí cho các doanh nghiệp phát triển.
 Các thành phần tham gia thị trường bảo hiểm
• Tính tới năm 2014 có 29 doanh nghiệp tham gia thị trường bảo hiểm Việt
Nam. Tồn tại dưới các hình thức: cổ phần, doanh nghiệp nhà nước, liên
doanh, trách nhiệm hữu hạn.

• Tổng doanh thu các công ty bảo hiểm trong năm 2014 đạt khoảng 40000 tỉ
trong đó tuy chiếm thị phần lớn hơn nhưng doanh thu bảo hiểm nhân thọ
(đạt khoảng 16000 tỉ) lại thấp hơn doanh thu của bảo hiểm phi nhân thọ
(đạt khoảng 24000 tỉ)
• Về thị phần trên thị trường bảo hiểm Việt Nam: trong lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ, đứng đầu là công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVI) với doanh thu
phí bảo hiểm gốc đạt khoảng 3462 tỉ đạt tốc độ tăng trưởng 28% và chiếm
tới 25% thị phần trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ thị đứng đầu là công ty Bảo hiểm Prudential Việt Nam đạt
doanh thu khai thác mới lên tới 800 tỉ đồng và chiếm 39% thị phần bảo
hiểm nhân thọ.
 Các loại hình bảo hiểm
• Bảo hiểm phi nhân thọ:
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam có những loại
hình bảo hiểm phổ biến sau: bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tài sản
thiệt hại, bảo hiểm xây lắp đặt, bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con
người, bảo hiểm thân tàu và chủ tàu, bảo hiểm rủi ro cháy nổ tài sản,


bảo hiểm hàng hóa vận chuyển…Trong đó doanh thu cao nhất là bảo
hiểm xe cơ giới với doanh thu khoảng 3500 tỉ.
• Bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam không đa dạng về loại hình bảo
hiểm nhưng phát triển rất nhanh do sự phát triển của tầng lớp trung
lưu, thị phần nắm chủ yếu trong tay Prudential (39%) và Bảo Việt
(34%).
2.3 Thị trường bảo hiểm Quảng Ninh
Năm 2015 vừa qua, là một năm đầy biến động và có nhiều dấu ấn đối với
ngành bảo hiểm nói chung và với thị trường bảo hiểm Quảng Ninh nói chung. Sau
đợt lũ lớn tại Quảng Ninh vừa qua, nhiều nhà đầu tư đã đặt câu hỏi về tác động đến

kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong thời gian sắp
tới.
Theo khảo sát nhanh của CTCK Rồng Việt (VDSC) đối với các công ty bảo
hiểm đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán gồm: Bảo Việt (BVH),
Bảo hiểm Dầu khí (PVI), Bảo hiểm Bưu điện (PTI), Bảo hiểm Bảo Minh (BMI), kết
quả cho thấy con số bồi thường thiệt hại ước tính chỉ vào khoảng 1-5 tỷ đồng so với
tổng thiệt hại gần 2.000 tỷ đồng của trận lũ.
Theo VDSC, kết quả này chủ yếu do mức độ tham gia bảo hiểm thiệt hại tại
Việt Nam hiện vẫn khá thấp, chỉ khoảng 0,7%.
Từ thực tế này, trước mắt có thể thấy các công ty bảo hiểm gần như không bị
ảnh hưởng gì từ trận lũ lịch sử. Do đó trận lũ này cũng không ảnh hưởng nhiều đến
kết quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm trong giai đoạn cuối năm 2015.
Số liệu thống kê về chỉ số ngành trong phiên giao dịch ngày 05/08/2015, bảo
hiểm cũng là ngành có mức tăng điểm cao nhất, khoảng 4%. Bên cạnh đó, một số
ngành như vật liệu xây dựng, thực phẩm, dịch vụ tài chính, tiện ích công cộng cũng
ghi nhận diễn biến tích cực.
Ngoài ra, những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật về Bảo hiểm xã
hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) xảy ra ngày càng phổ biến, không chỉ thiệt hại
đến Quỹ BHXH, BHYT mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và
trật tự an toàn xã hội.


Để khắc phục tình trạng trên, cơ quan BHXH đã áp dụng biện pháp khởi kiện
ra toà đối với các đơn vị vi phạm, tuy nhiên theo đại diện Ban Pháp chế - BHXH
Việt Nam, biện pháp này vẫn chưa hiệu quả đối với những đơn vị cố tình vi phạm,
không thực hiện nghiêm quyết định thi hành án dân sự, dẫn đến các bản án được thi
hành án thấp.
Lãnh đạo Ban Thu thuộc BHXH Việt Nam cho biết, lý do nợ đọng tăng là có
một số doanh nghiệp lớn được phép khoanh, giãn nợ. Cùng với đó, việc khởi kiện ra
toà để đòi quyền lợi về bảo hiểm cho người lao động cũng gặp nhiều khó khăn.

Việc thẩm định tài sản để thi hành án cũng gặp khó do đa số doanh nghiệp nợ
BHXH lớn đều đang trong nguy cơ dừng hoạt động. Cũng chính vì thế mà luật bảo
hiểm cùng việc xử lí các sai sót liên quan trong vấn đề bảo hiểm cũng ngày được
thắt chặt hơn. Mục đích chính là để ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung, và bảo
hiểm Quảng Ninh nói chung, luôn làm đúng được vai trò của mình và phát triển hơn
nữa.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, 2006, Nhà xuất bản Lao động Xã hội


Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm,2008, Nhà xuất bản Đại học Kinh
tế Quốc dân

• Giáo trình Bảo hiểm, 2012, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân


×