TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
LƯU THỊ THANH HUẾ
THỜI GIAN TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
GIÃ BIỆT BÓNG TỐI CỦA TẠ DUY ANH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
HÀ NỘI, 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Thời gian tự sự trong tiểu thuyết
Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, của
các thầy cô giáo trong Tổ bộ môn Lí luận văn học, Khoa Ngữ văn. Tôi xin gửi
tới các thầy, cô lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến sĩ Phùng Gia Thế, người thầy
đã trực tiếp giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày ... tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Lưu Thị Thanh Huế
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
luận trong khóa luận là trung thực. Khóa luận này chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nào.
Nếu những lời cam đoan trên là sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày ... tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Lưu Thị Thanh Huế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1. Lí do chọn đề tài:
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6
5. Phương pháp nghiên cứu
6
6. Đóng góp của khóa luận
6
7. Bố cục khóa luận
6
NỘI DUNG
7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THỜI GIAN TỰ SỰ
7
1.1. Về khái quát thời gian tự sự
7
1.1.1. Khái luận về thời gian
7
1.1.2. Các loại thời gian trong tự sự
8
1.1.3. Khái niệm thời gian tự sự
10
1.2. Các cấp độ của thời gian tự sự
12
1.2.1. Trình tự kể chuyện
12
1.2.2. Tốc độ nhịp điệu kể
15
1.2.3. Tần suất kể
16
CHƯƠNG 2. TRÌNH TỰ KỂ
2.1. Trình tự kể ở cấp độ mạch truyện
19
19
2.1.1. Trình tự kể biên niên
21
2.1.2. Phi tuyến tính hóa trình tự kể
28
2.2. Trình tự kể ở cấp độ văn bản
33
Chương 3. TỐC ĐỘ NHỊP ĐIỆU KỂ CHUYỆN VÀ TẦN SUẤT KỂ
CHUYỆN
34
3.1. Tốc độ kể chuyện
34
3.2. Nhịp điệu kể chuyện
45
3.3. Tần suất kể trong Giã biệt bóng tối
48
3.3.1 Tự sự đơn nhất
48
3.3.2. Tự sự trùng lặp
55
3.3.3. Tự sự khái quát
55
KẾT LUẬN
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
60
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Văn học, hiểu theo ý nghĩa rộng nhất của từ này, là tấm gương
phản ánh, tái tạo đời sống. Nó có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại với
đời sống, là nơi in dấu cuộc sống con người trong quá trình vận động, biến
thiên lịch sử. Bởi vậy, khi hiện thực cuộc sống thay đổi tất yếu sẽ kéo theo sự
thay đổi của văn học.
Sau Tổng khởi nghĩa Mùa xuân năm 1975, nước ta đã bước sang một
trang sử mới, một kỉ nguyên mới. Đổi mới trở thành nhu cầu bức thiết trên
mọi lĩnh vực trong đó có văn học nghệ thuật. Hiện thực đất nước tác động,
những luồng văn học nước ngoài ảnh hưởng và ngay bản thân nhà văn cũng
nhận thấy “không thể viết như cũ được nữa”. Thị hiếu của độc giả cũng thay
đổi. Họ hào hứng với những cách viết, lối viết mới. Tất cả những yếu tố đó đã
thôi thúc các nhà văn đổi mới tư tưởng, đổi mới cách viết của mình. Đội ngũ
sáng tác, tác phẩm văn học không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất
lượng. Các nhà văn đã mang đến sự mới mẻ, phong phú đa dạng về nội dung
phản ánh, hình thức thể hiện, thể loại...
1.2. Đối với một nền văn học hiện đại, tiểu thuyết được coi là “cỗ máy
cái”, là thể loại “cái”, nơi biểu hiện tập trung nhất trình độ tư duy văn học, nơi
kết tinh quan trong nhất thành tựu của một thời đại văn học.
Ở nước ta, tiểu thuyết sau 1975 không phải “đoạn tuyệt” hẳn với truyền
thống mà nó vẫn kế thừa, có điều ý thức “làm mới, làm giàu, làm khác”
truyền thống đã trở thành nhu cầu mạnh mẽ của hầu hết người viết. Người
cầm bút phải đối diện với một đòi hỏi nghiệt ngã: “Mỗi nhà tiểu thuyết, mỗi
cuốn tiểu thuyết phải áng tạo ra một hình thức riêng. Không tôn trọng những
hình thức bất biến, mỗi cuốn sách mới cần xây dựng cho mình những quy luật
vận động đồng thời sản sinh ra sự diệt vong của chúng” (Alain Robbe Grillet).
6
Tiểu thuyết Việt Nam đặc biệt nở rộ từ sau 1986 cao trào của công
cuộc đổi mới mà nói như cách cảm nhận của Nguyễn Huy Thiệp thì thời bây
giờ là “thời của tiểu thuyết”. Sự phát triển mạnh mẽ của tiểu thuyết Việt Nam
đã chứng minh được sức sống mãnh liệt của thể loại. “Số phận của tiểu
thuyết” không còn là điều phải lo ngại. Tiểu thuyết đã trở thành nhân vật quan
trọng bậc nhất trên sân khấu văn học Việt Nam hiện đại.
Tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 đã dung nạp vào bản thân nó những
yếu tố của chủ nghĩa hậu hiện đại: giải khu biệt hóa và phi tâm hóa; tính chất
hỗn loạn và sự bất ổn của trật tự đời sống; sự xáo trộn giữa hư và thực, giữa cái
huyền bí siêu nhiên với đời thường; những kiểu cấu trúc mới: Mảnh vỡ tự sự,
liên văn bản, gián cách; không gian, thời gian huyền ảo, mơ hồ về biên độ,....
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến, một trong hai đặc điểm về chủ
nghĩa hậu hiện đại trong văn học là coi trọng cách kể phi tuyến tính hơn là
cách kể tuyến tính. Với cách kể phi tuyến tính, buộc nhà văn phải có cách xử
lí thời gian tinh vi hơn, thời gian được mở rộng biên độ, có xáo trộn, cách
quãng, nhảy cóc, thế giới trong tác phẩm bị “đứt gãy” cả về không gian và
thời gian.
Các yếu tố của hậu hiện đại đã được các nhà tiểu thuyết đương đại Việt
Nam tiếp nhận và sáng tạo. Các yếu tố này trên thực tế đã góp phần vào việc
đổi mới lối viết, nhất là việc tổ chức thời gian tự sự. Bởi vấn đề thời gian tính
và nghệ thuật tự sự là những vấn đề cốt lõi của tiểu thuyết. Nhà cấu trúc chủ
nghĩa Pháp Gérard Genette cho rằng: “Tiểu thuyết đặc biệt có khả năng nhấn
mạnh quá trình thời gian hơn bất kì thể loại nào khác”. Và khi đi tìm định
nghĩa cho khái niệm tự sự thì cách hiểu đơn giản nhất đó là: nghệ thuật xếp
đặt các chuỗi tình tiết hay nghệ thuật trình bày các sự biến trong mối liên hệ
với thời gian. Tiếp cận tiểu thuyết từ góc độ thời gian tự sự là một lối đi mới
giúp chúng ta đào sâu tác phẩm từ nhiều khía cạnh.
7
1.3. Tạ Duy Anh là tác giả thuộc trào lưu đổi mới tiểu thuyết Việt Nam
từ sau 1990. Tạ Duy Anh bắt đầu viết văn từ những năm 1990. Nỗ lực đổi
mới, cách tân của nhà văn được ghi nhận bởi một loạt tiểu thuyết ấn tượng:
Khúc dạo đầu (1991), Lão khổ (1992), Đi tìm nhân vật (2002), Thiên thần
sám hối (2004), Giã biệt bóng tối (2008)....
Giã biệt bóng tối là cuốn tiểu thuyết gây nhiều sự chú ý trong giới phê
bình thời gian gần đây: Nó đã tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn
với những ý kiến khen chê thậm chí trái chiều về cuốn tiểu thuyết này. Tạ Duy
Anh đã thực sự “làm mới” nghệ thuật tiểu thuyết trên một góc độ nhất định.
Ông đã đem đến cho người đọc Việt Nam một “kiểu tiểu thuyết” khá mới so với
những cuốn tiểu thuyết phổ biến trong xã hội Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu chung về Tạ Duy Anh
Tạ Duy Anh sáng tác ở khá nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, tản
văn.... Thời gian gần đây, nhà văn tập trung ngòi bút vào thể loại tiểu thuyết.
Ông liên tiếp đưa tới cho bạn đọc những tiểu thuyết mới mẻ về hình thức.
Sáng tác của ông thời gian gần đây đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều công trình khoa học, có thể kể đến Nguyễn Thị Mai Loan (2004) với
Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Ninh với Thế giới
nghệ thuật Tạ Duy Anh, Cảm thức về cái phi lí trong sáng tác của Tạ Duy
Anh của Cao Tố Nga. ; Nguyễn Thị Hồng Giang (2005) Tạ Duy Anh và việc
làm mới nghệ thuật tiểu thuyết, luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội;
Cao Tố Nga (2006), Cảm thức về cái phi lý trong sang tác của Tạ Duy Anh,
luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội; Vũ Lê Lan Hương (2006), Thế giới nhân
vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội; Võ Thị
Thanh Hà (2006), Nhân vật tiểu thuyết Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, Đại học
Vinh, Nghệ An; Nguyễn Thị Kim Lan (2006), Nghệ thuật kết cấu trong một
8
số tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ Duy Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái,
ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Tiến Hùng (2008), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội; Đào Thị Bích Thuỷ
(2008), Biểu tượng trong cấu trúc tiểu thuyết Thiên thần sám hối của Tạ Duy
Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội,…
Các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu nghiên cứu về những bình
diện như nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ... trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Tuy
chưa đề cập trực tiếp tới vấn đề thời gian tự sự trong tiểu thuyết của nhà văn
nhưng những bài viết này chính là những gợi dẫn quan trọng để chúng tôi soi
chiếu tiểu thuyết Giã biệt bóng tối dưới góc độ thời gian tự sự.
2.2. Tình hình nghiên cứu Giã biệt bóng tối
Giã biệt bóng tối vừa ra đời đã gây xôn xao dư luận, tạo ra nhiều sự
tranh cãi khen chê. Nhưng dường như khen chê của các nhà nghiên cứu đều
có cái lý riêng của họ.
Ngoài 20 bản tham luận tham gia trong buổi tọa đàm về Giã biệt bóng
tối còn rất nhiều bài báo, bài viết cảm nhận của những độc giả, những nhà
nghiên cứu, phê bình, nêu những nhận xét, bình luận về cuốn tiểu thuyết này.
Trong bài báo giới thiệu về Giã biệt bóng tối mang tựa đề “Bóng tối
hãy biến đi” trên báo Thanh niên, tác giả Ngô Thị Kim Cúc viết “cuốn tiểu
thuyết vừa thật vừa không thật, không thật mà lại rất thật với không gian biến
ảo mà tác giả dành để thi thố khả năng sử dụng ngôn từ của một người viết
tiểu thuyết”. Tác giả bài báo đi vào nhấn mạnh tính luận đề của cuốn tiểu
thuyết: “Giã biệt bóng tối khẳng định thêm một cách dựng tiểu thuyết luận đề
của tác giả Tạ Duy Anh”.
Với bài “Vài suy nghĩ về sự đổi mới của tiểu thuyết nhân đọc Giã biệt
bóng tối của Tạ Duy Anh”, Hữu Đạt nhận định: “Đọc Giã biệt bóng tối của Tạ
9
Duy Anh ta thấy ông quả là đã gắng công tìm tòi, có thể nói là đến mức hì hục
nhằm cố gắng thay đổi bộ mặt cấu trúc của tiểu thuyết truyền thống” và kết
quả của sự cố gắng đó phần nào đã góp công vào sự “Trở mình” của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
Trên Vietvan. vn có bài: “Giã biệt bóng tối và cách kể của tiểu thuyết
hôm nay”. Bài báo cho rằng Giã biệt bóng tối đã dựng lên hình tượng thế giới
bị lộn trái. Tuy nhiên tác giả bài báo cũng chỉ ra vết gợn đáng tiếc của cuốn
tiểu thuyết. Đó là sự lạm dụng cái huyền ảo trong tác phẩm này.
Nhìn chung những tham luận, bài viết trên chưa đưa ra được cái nhìn
toàn diện về Giã biệt bóng tối nhưng đã phần nào phân tích, mổ xẻ, trình bày
về các phương diện thành công của cuốn tiểu thuyết hấp dẫn này. Mặc dù có
những hạt sạn nhỏ nhưng có thể nói Giã biệt bóng tối là một tiểu thuyết ghi
nhận thành công nhất định của nhà văn trong việc “làm mới” nghệ thuật viết
tiểu thuyết so với truyền thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài đã chọn, người viết xác định nhiệm vụ của khóa luận là đi
sâu vào tìm hiểu vấn đề thời gian tự sự trong tiểu thuyết Giã biệt bóng tối của
Tạ Duy Anh, từ đó thấy được lối đi riêng của tác giả trong lãnh địa tiểu thuyết
và những đóng góp của ông cho sự đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại
nhất là từ sau 1990.
Chúng tôi hi vọng qua việc tìm hiểu đề này sẽ học tập và tích lũy được
những kinh nghiệm quý báu trong công việc nghiên cứu khoa học, giúp cho
sự vững vàng trong nghề nghiệp của bản thân người viết sau này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những vấn đề khái quát về thời gian tự sự.
Tìm hiểu thời gian tự sự trong tiểu thuyết Giã biệt bóng tối .
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thời gian tự sự trong tiểu thuyết Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp và sự hạn chế của khả
năng làm chủ tư liệu, chúng tôi không đi sâu tìm hiểu thời gian tự sự ở tất cả
các tiểu thuyết của Tạ Duy Anh mà chỉ giới hạn tìm hiểu vấn đề này trong
tiểu thuyết Giã biệt bóng tối của nhà văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này người viết khóa luận đã sử dụng chủ yếu những
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của khóa luận
Qua nghiên cứu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nào đó
trong việc tiếp cận tiểu thuyết Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh nói riêng và
tác phẩm tự sự nói chung trên tinh thần của Tự sự học ở góc độ thời gian tự
sự.
7. Bố cục khóa luận
Khóa luận bao gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và tài
liệu tham khảo. Riêng phần nội dung được trình bầy trong hai chương:
Chương 1: Khái quát về thời gian tự sự.
Chương 2: Trình tự kể trong Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh.
Chương 3: Tốc độ nhịp điệu và tần suất kể trong Giã biệt bóng tối
của Tạ Duy Anh
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THỜI GIAN TỰ SỰ
1.1. Về khái quát thời gian tự sự
1.1.1. Khái luận về thời gian
Đối với triết học, thời gian là một phạm trù phức hợp, mỗi nhà triết học
lại có một cách hiểu, cách luận giải riêng của mình về nó.
Theo các nhà nghiên cứu, ở Phương Tây, ngay từ thời Hi Lạp cổ đại đã
tồn tại hai khuynh hướng tư tưởng về sự vận động của thế giới nhìn từ
phương diện thời gian: “Tất cả đổi thay” của Héraclite và “Tất cả bất biến”
của Parménide. Theo Héraclite, đặc tính của cuộc sống là sự lưu chuyển
không ngừng: “Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông”.
Điều đó nằm trong định luật chung của vũ trụ gọi là “logos”, bao trùm và tác
động lên trên tất cả mọi hiện tượng của thế giới. Mọi thứ luôn luôn biến đổi,
cái này đưa tới cái kia, vừa đối lập, mâu thuẫn với nhau lại vừa nảy sinh ra
nhau giống như: sáng/tối, ngày /đêm. Parménide thì lại quan niệm ngược lại,
ông cho rằng sự có mặt là vĩnh viễn, những đổi thay chỉ là ở vẻ bên ngoài.
Cũng trong chiều hướng này, Platon chủ trương bên cạnh thế giới hiện tượng
đổi thay còn có thế giới của Tư Tưởng, của Linh Hồn, một thế giới vĩnh cửu
vượt khỏi thời gian, không chịu sự khống chế của quy luật thời gian. Thời
gian trở thành “Hình ảnh chuyển động của sự vĩnh cửu bất động”. Aristote lại
quan niệm thời gian cũng như sự chuyển động mang tính chất vĩnh cửu, vô
thủy vô chung. “Thời gian là thước đo của sự chuyển động giữa trước và sau,
thời gian liên tục bởi vì thuộc vào sự liên tục”. Chỉ có thời gian hiện tại mới là
thời gian thực sự. Theo trường phái Khắc Kỷ (stoiciens), thời gian không có
thực chất, nhân “Mọi sự vật hiện hữu và chuyển động chính ở trong thời
12
gian”. Thời gian nằm trong cuộc sống của thế giới, tức là của Tạo Hóa, bởi vì
vũ trụ chính là Thiên Nhiên, là Tạo Hóa. Bởi vậy mà các nhà hiền triết của
trường phái Khắc Kỷ tuân theo thời gian, chấp nhận thời gian, sống phù hợp
với thời gian để hòa đồng với tạo hóa.
Hegel thì lại cho rằng, thời gian có ba kích thước, cụ thể là:
1. Quá khứ, là sự hiện hữu như bị xóa bỏ, như không có mặt.
2. Tương lai, là sự không có mặt nhưng tất định có.
3. Hiện tại, là sự trở thành lập tức và là sự kết hợp của hai cái trên. “Chỉ
có thời gian có lịch sử, tức là có sự hiện hữu của con người... Con người ở
trong thời gian và thời gian không có ngoài con người, do đó con người chính
là thời gian và thời gian chính là con người”.
Thời gian là một nhân tố rất quan trọng trong nghệ thuật tự sự. Ở một
số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, giới lí luận đồng thời quan tâm
tới cả hai yếu tố: không gian và thời gian. Nhưng ở phương Tây, họ quan tâm
đặc biệt tới trục thời gian hơn là không gian. Nhà tự sự học người Pháp
Gérard Genette quan niệm: “Tôi có thể kể một câu chuyện mà không cần nói
chính xác địa điểm nó xảy ra, hoặc nó xa cách bao năm so với địa điểm phát
ngôn của tôi, nhưng dường như tôi không thể nào loại bỏ việc xác định thời
gian trong tương quan với hành động kể chuyện của mình, bởi lẽ tôi cứ nhất
thiết phải kể lại câu chuyện trong một thì nhất định về hiện tại, quá khứ hoặc
tương lai” [8,tr.85].
Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nhất là sau 1986 với sự đổi mới kĩ thuật
viết, với những cách tân táo bạo trong nghệ thuật tự sự đã phá vỡ (nhưng
không cắt lìa) cấu trúc thời gian truyền thống, góp phần tạo nên những sắc
thái độc đáo của thời gian trong tiểu thuyết đương đại.
1.1.2. Các loại thời gian trong tự sự
Tự sự học coi một câu chuyện được kể lại như là việc đã xảy ra.Từ đó
đi tìm mối liên hệ giữa cái được coi như là đã xảy ra đó với cái người ta thể
13
hiện khi kể lại. Mối liên hệ ấy được tìm thấy trong các cặp phạm trù: Câu
chuyện và truyện kể, thời gian câu chuyện được kể và thời gian truyện kể.
Theo E. Benveniste, thời gian của truyện bao gồm “thời gian của cái
được kể thời gian quy chiếu và thời gian kể, thực hiện hành động kể truyện
thời gian phát ngôn” [15, tr.109].
Chiristan Metz lại viết: “Truyện là một chuỗi thời gian hai lần thời
gian... có thời gian của cái được kể và thời gian của truyện (thời gian của cái
được biểu đạt và thời gian của cái biểu đạt)... một trong những chức năng của
truyện là đổ khuôn (monayer) thành một thời gian trong một thời gian khác
(Dẫn theo G. Genette – Figures tập III, tr.77)” [15,tr.109].
Thời gian được coi như một nhân tố cấu trúc nghệ thuật của truyện. G.
Genette đã phân chia thành ba loại: thời gian của chuyện, thời gian của
chuyện và thời gian phát ngôn (kể truyện).
Về thời gian của chuyện, nó được coi như là “sự diễn tiến của các sự
kiện trong tính kế tiếp hay đồng thời, nghiêm ngặt như là chúng đã được hoàn
thành, xét về mặt chiếu vật, là trật tự niên biểu của các sự kiện hình thành nên
truyện” [12,tr.18]. Thời gian của câu chuyện không phải lúc nào cũng trùng
với thời gian của truyện kể.
Thời gian của truyện tức là thời gian của sự kiện, của nhân vật đã được
sắp xếp lại, phân bố lại theo chủ quan của người kể. Thời gian của truyện thể
hiện tài năng của người viết trong việc xử lí thời gian, thể hiện khả năng nhìn
nhận và phản ánh cuộc đời của họ. Thời gian của truyện có khi trùng với thời
gian của câu chuyện, có khi không. Đó là khi trật tự thời gian trong truyện bị
xáo trộn, không theo trật tự thời gian niên biểu của các sự kiện, nhân vật, sự
việc xảy ra sau đưa lên trước, sự việc xảy ra ở quá khứ lại đưa về sau, quá
khứ, hiện tại, tương lai không theo trình tự tuyến tính.
14
Thời gian kể truyện (thời gian phát ngôn): thời gian kể và thời gian của
truyện là một thể xoắn kép, khó tách bạch mà không phải lúc nào người đọc
cũng nhận ra. Thời gian kể là “thời gian đã được định lượng rõ ràng và đó là
thời gian hình tuyến của ngôn từ” [15,tr.113]. Lấy cái hình tuyến của lời kể để
diễn đạt cái phi tuyến của không gian, nhân vật là một nét đặc trưng của tiểu
thuyết hiện đại. Nếu thời gian của câu chuyện được đo bằng thước đo thực tế
tức là giây, phút, ngày, tháng, năm... thì thời gian kể lại được “đo bằng những
thước đo để tính khoảng cách từ lúc nhà văn kể câu chuyện đến lúc nó chấm
dứt, hoặc từ lúc câu chuyện xảy ra đến lúc nhà văn kể lại nó” [8,tr.88].
Giữa thời gian của chuyện và thời gian của truyện có một độ chênh lớn.
Đồng thời lại có một độ chênh khác giữa thời gian của truyện và thời gian kể
(thời gian phát ngôn) nhưng độ chênh này thường rất ít, khó nhận thấy. Nó
chỉ lộ ra ở một vài tác phẩm tiêu biểu. Trong phần lớn các truyện (bao gồm cả
tiểu thuyết) thì thời gian của truyện và thời gian kể (thời gian phát ngôn) xoắn
kép với nhau, không thể bóc tách ra được. Vì thế mà người ta thường gộp
chung thời gian tự sự và thời gian phát ngôn vào thời gian của truyện. Những
đổi mới trong việc xử lí thời gian của truyện có khả năng lớn trong việc hiện
đại hóa các sự kiện. Thời gian thực sự có tính nghệ thuật là thời gian tự sự và
thời gian phát ngôn.
1.1.3. Khái niệm thời gian tự sự
Nếu thời gian của nhân vật, của các sự kiện trong tác phẩm là đối tượng
quan tâm của bộ môn Thi pháp học thì đối tượng quan tâm của bộ môn Tự sự
học lại là thời gian của truyện, thời gian kể. Họ phân biệt thời gian cốt truyện
(thời gian được trần thuật) và thời gian truyện kể (thời gian trần thuật, thời
gian tự sự) vốn gắn liền với người kể chuyện. Giữa hai loại thời gian này có
mối tương quan với nhau và “Mối tương quan giữa thời gian trần thuật và thời
gian được trần thuật đã được các nhà hình thức Nga và Vưgôtxki phát hiện từ
15
lâu. G. Genette có công lập ra công thức để phân tích như là một phép tu từ
của trần thuật” [24, tr.94]. G. Genette đã tìm ra “độ lệch văn bản thông qua
mối liên hệ của hai lớp thời gian này”.
Dưới quan niệm tự sự học, G. Genette đã đưa ra định nghĩa về thời gian
như sau: “thời gian nghệ thuật là một chuỗi thời gian kép, có thời gian của cái
được kể lại và thời gian của truyện, tức là thời gian của cái được biểu đạt và
thời gian của cái biểu đạt”. Không phải thời gian nào xuất hiện trong truyện
cũng là thời gian nghệ thuật. Đi vào khám phá thời gian nghệ thuật của một
tác phẩm tức là đi vào tìm hiểu cả thời gian được trần thuật và thời gian trần
thuật (thời gian tự sự) và Tự sự học quan tâm chủ yếu đến thời gian tự sự
nghệ thuật xử lí thời gian của nhà văn.
Thời gian tự sự (narrative time), còn được gọi là “thời gian giả”
(pseudo temporal) theo cách nói của G. Genette, để phân biệt với thời gian
của bản thân câu chuyện hoặc sự kiện được trần thuật chính là thời gian của
truyện kể. Đó là “thời gian của trật tự các sự kiện đã được phân bố lại trong
truyện do sắp xếp chủ quan của người kể chuyện” [12,tr.33]. Thời gian tự sự
không tuân theo quy luật của thời gian vật lí thông thường mà đã được tái tạo
lại bởi chủ quan của người kể chuyện. Người kể chuyện bao giờ cũng sử dụng
thời gian như một phương tiện đặc thù làm bối cảnh để kể chuyện, thoát ra
ngoài thời gian quy ước. Trình tự trần thuật sẽ bị đảo lộn bằng cách thuật lại
những việc đã qua hay chưa đến. Các thủ pháp rút gọn, tỉnh lược, kéo dài,
ngừng nghỉ, lặp lại... cũng thường được người kể chuyện sử dụng để tổ chức
thời gian của trật tự các sự kiện sao cho đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
Giữa thời gian tự sự và thời gian của bản thân câu chuyện có mối quan
hệ với nhau. Nói cách khác đó là mối quan hệ giữa thời gian trần thuật và thời
gian được trần thuật. Mối quan hệ này được tác giả Trần Đình Sử xem xét qua
ba tương quan, cụ thể là:
16
1. Tương quan điểm mở đầu kết thúc của thời gian trần thuật (thời
gian tự sự, thời gian của truyện) với điểm mở đầu kết thúc của thời gian sự
kiện (thời gian được trần thuật, thời gian của cái được kể). Điểm mở đầu kết
thúc của hai loại thời gian này có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau.
2. Tương quan sự kiện trong thời gian trần thuật. Các sự kiện trong thời
gian trần thuật có thể được thuật lại không giống nhau. Có khi sự kiện được
kể liên tục, theo trình tự của sự kiện đời sống, có khi lại được kể không theo
trình tự trước sau. Các sự kiện có thể gối đầu nhau. Có những sự kiện bị tỉnh
lược hay kéo dài. Tất cả sẽ tạo nên độ chênh giữa hai loại thời gian này.
3. Tương quan thời gian trần thuật và thời gian nhân vật. Thời gian trần
thuật (thời gian tự sự) còn được xem xét trong quá trình tự ý thức hay hồi ức
của nhân vật. Kí ức của nhân vật được sử dụng như một phương tiện để thuật
lại những sự kiện đã thuộc về “hoài niệm”, về quá khứ.
Sự khác nhau giữa thời gian của cái được biểu đạt và thời gian của cái
biểu đạt được G. Genette cụ thể hóa ở các cấp độ khác nhau của thời gian tự sự.
1.2. Các cấp độ của thời gian tự sự
“Thời gian thật sự có tính nghệ thuật, đó là thời gian của hành động kể
chuyện và thời gian của văn bản” [8,tr.88] hay đó chính là thời gian tự sự.
Tiếp cận, khám phá thời gian tự sự của một tác phẩm cần phải có một mô
hình, một phác đồ chỉ dẫn. Nhà tự sự học người Pháp G. Genette đã đề xuất lí
thuyết thời gian tự sự.Thời gian tự sự hay còn được gọi là thời gian giả,
được xây dựng trên mối quan hệ giữa thời gian trần thuật và thời gian được
trần thuật. Theo G. Genette có ba cấp độ làm nên mối quan hệ đó, đó là: trình
tự kể chuyện, tốc độ nhịp điệu kể, tần suất kể chuyện.
1.2.1. Trình tự kể chuyện
Trình tự kể (order), theo G. Genette là nghiên cứu mối quan hệ giữa
trình tự thời gian tiếp nối các sự kiện trong câu chuyện với trình tự thời gian
17
giả được sắp xếp trong trần thuật. Nghĩa là trình tự kể chuyện xác định mối
quan hệ tiếp nối của các sự kiện trong câu chuyện với cái cách mà chúng
được sắp xếp trong truyện (sự sắp xếp thời gian giả). Trong tự sự cổ trung đại,
thường thì trình tự thời gian tiếp nối các sự kiện và trình tự thời gian giả được
sắp xếp trong trần thuật là thống nhất, trùng khít với nhau; trần thuật trong
văn bản theo thời gian hình tuyến, việc xảy ra trước kể trước, việc xảy ra sau
kể sau, không có sự sai trật tự niên biểu. Nhưng về sau, trình tự biên niên của
các sự kiện trong câu chuyện thường bị xáo tung. Trình tự của cái được kể
được ngắt ra bằng một số cách khác nhau.
Thời sai (anachrony) là thuật ngữ mà G. Genette sử dụng để chỉ ra tất cả
những kiểu lệch pha, các độ chênh giữa trình tự thời gian của chuyện và thời
gian của truyện. Đảo thuật và dự thuật là hai biểu hiện cơ bản của thời sai.
Đảo thuật (analepse) là “thuật lại những sự việc đã qua” [20,tr.496],
nghĩa là kể lại các sự kiện đã diễn ra trước hiện thời “bây giờ” của câu chuyện
đang được kể.
G. Genette chia đảo thuật ra thành các loại: đảo thuật bên ngoài, đảo
thuật bên trong và đảo thuật hỗn hợp.
Đảo thuật bên ngoài (external analepse) là ngoái về phía sau, trước
điểm bắt đầu của truyện và cũng kết thúc trước đó. Đảo thuật bên ngoài
không can thiệp vào khung thời gian của câu chuyện.
Đảo thuật bên trong (internal analepse) là “kể lại những sự việc có
giao thoa về thời gian ở đầu... sự việc đang trần thuật” [20,tr.496]. Đảo thuật
bên trong có phạm vi nằm trong khung thời gian của câu chuyện. G. Genette
đã phân biệt hai loại đảo thuật bên trong thường gặp là: đảo thuật bổ sung và
đảo thuật tuần hoàn.
+ Đảo thuật bổ sung (completing analepse) hay còn gọi là “quay
ngược” (return) bao gồm những đoạn hồi tưởng lấp đầy một khoảng trống
trước đó trong truyện kể, những khoảng trống này có thể là những tỉnh lược
18
đơn thuần, song cũng có thể được tạo ra bởi sự cố ý che giấu hoặc né tránh.
G. Genette gọi những khoảng trống “cố ý” này là paralipse tức là biện pháp
“giả vờ” quên để nhấn mạnh hay tránh nói đến một cách có chủ tâm.
+ Đảo thuật tuần hoàn (repeating analepse), còn gọi là “gợi nhắc”
(recall), nhằm vào việc phục hồi toàn bộ “những gì có trước” của truyện kể.
Nó làm sống lại một câu chuyện dài xảy ra trong quá khứ và cũng là nội dung
sự kiện của truyện kể.
Đảo thuật hỗn hợp (mixed analepse) nghĩa là “bao gồm một đảo thuật
bên ngoài được nối dài để gắn kết và xuyên qua điểm bắt đầu của câu
chuyện”. Nói khác đi, loại đảo thuật này lui về phía sau tới một điểm sớm hơn
điểm bắt đầu của câu chuyện và phạm vi của nó tiến đến một điểm muôn hơn
điểm kết thúc của câu chuyện.
Dự thuật ( prolepse) là kể lại những sự việc chưa đến, sự kiện sẽ diễn
ra sau. Cũng giống như đảo thuật, dự thuật cũng bao gồm: Dự thuật bên
ngoài, dự thuật bên trong và dự thuật hỗn hợp.
Dự thuật bên ngoài vươn ra ngoài giới hạn phạm vi của câu chuyện,
gắn với những tình tiết xẩy ra sau điểm kết thúc của câu chuyện và cũng
không can thiệp vào khung thời gian của câu chuyện.
Dự thuật bên trong “Kể trước những sự việc có giao thoa về thời gian
ở ... cuối sự việc đang trần thuật” [20,tr.496]. Dự thuật bên trong cũng bao
gồm: Dự thuật bổ sung và dự thuật tuần hoàn.
+ Dự thuật bổ sung (completing prolopse): Lấp đầy về phía trước một
khoảng trống thời gian sẽ xuất hiện sau đó.
+ Dự thuật tuần hoàn (repeating prolopse):là những lời báo trước cho
sự kiện sẽ được kể vào thời điểm thích hợp của truyện.
Genette còn đưa ra khái niệm “achrony”, nhiều người dịch là dự thuật
hồi tưởng và định nghĩa nó là “Một đảo thuật dự báo” hay “Một dự thuật có
19
tính hồi tưởng”, nghĩa là “Nó xảy ra muộn hơn khi chúng ta đã nhìn thấy nó”
hoặc “Nó đã xảy ra và chúng ta sẽ nhìn thấy nó sau”.
Dự thuật trong văn học, nhất là văn học cổ điểm hay xuất hiện dưới
hình thức “điềm báo”hoặc “Báo mộng”.
Dù là đảo thuật hay dự thuật cũng đều có hai loại: Đồng sự và dị sự.
Loại trước là kể lại hoặc kể trước những sự việc liên đới. Loại sau thì ngược
lại, tức là kể lại hoặc kể trước những sự việc không liên đới.
Thời sai còn bao gồm tầm thời sai và phạm vi. “Thời điểm của cốt
truyện mà ở đó truyện kể được ngắt ra để kể chuyện, G.Genette gọi là tầm
thời sai là khoảng cách thời gian từ chuyện đến truyện kể. Nó cũng có thể bao
phủ nên khoảng thời gian cốt truyệt dài hay ngắn hơn, Genette gọi là biên độ
(amplytude) của nó” [15,tr.116].
Thời sai cũng bao gồm khoảng thời gian ( duration) của câu chuyện, đó
là sự kiện đã diễn ra bao nhiêu lâu, hoặc nó sẽ kéo dài trong bao nhiêu lâu.
Như vậy, để khám phá, phân tích được thời gian tự sự của một tác
phẩm tự sự trước hết phải khảo sát được trình tự kể hay chính xác hơn là tìm
ra được ý nghĩa của thời sai. “Công việc có tính chất phân tích nghệ thuật
thực sự, đó không phải tách rời việc phân tích thời gian sự kiện và thời gian
trần thuật mà là đi tìm mối liên hệ giữa hai cái đó để phát hiện ra những độ
lệch giữa chúng” [8,tr.89].
1.2.2. Tốc độ nhịp điệu kể
Tốc độ kể chuyện là yếu tố thứ hai của thời gian tự sự. Nó liên quan
chặt chẽ, chi phối, làm thành nhịp điệu kể.
Tốc độ kể chỉ ra mối liên hệ giữa thời gian có thể thay đổi của các
phần của câu chuyện với độ dài của văn bản mà trong đó các phần truyện
được kể lại.
20
Khoảng cách giữa thời gian tự sự và thời gian câu chuyện G.Genette
gọi bằng thuật ngữ “phi đẳng thời” (anisochronie). Khoảng cách này không
đồng đều giữa các đoạn tình tiết của câu chuyện với nhau. Thời gian có khi
gia tốc, có khi giảm tốc so với thời gian của câu chuyện. Gia tốc ở những chỗ
tỉnh lược, lược thuật, giảm tốc ở những chỗ ngừng nghỉ, “đặc tả”, miêu tả tỉ
mỉ người và cảnh. Lại có những chỗ không gia giảm gì cả, thời gian câu
chuyện và thời gian trần thuật là bằng nhau, chẳng hạn như những đoạn thuật
lại đối thoại giữa các nhân vật với nhau.
Ông phân biệt bốn vận động tự sự cơ bản, đó là: lược thuật, tỉnh lược,
ngừng nghỉ, hoạt cảnh.
Lược thuật là thuật lại trong một vài đoạn hay một vài trang sự tồn tại
của những quãng thời gian tương đối dài mà không có những chi tiết của hành
động hoặc lời nói. Nói cách khác, lược thuật nghĩa là trần thuật rất khái quát.
Tỉnh lược là kể rất ít hay không kể một vài phần của câu chuyện.
Ngừng nghỉ là những đoạn miêu tả dài của người kể mà trong đó
không có hành động nào xảy ra. Chức năng quan trọng của ngừng nghỉ là tạo
đường viền không khí cho truyện hoặc tạo phông nền cho các hoạt cảnh.
Hoạt cảnh là những giai đoạn sinh động của hành động, xảy ra đồng
thời với những thời khắc sôi nổi nhất của câu chuyện. Trong tiểu thuyết, hoạt
cảnh chủ yếu là đối thoại, nó chiếm tỉ lệ tương đối lớn so với các vận động tự
sự khác. Sử dụng các hoạt cảnh sẽ đưa câu chuyện tiến gần tới đời thường,
với những gì rất chân thật “đang diễn tiến” trong cuộc sống.
Từ sự khảo sát những chỗ nhanh hay chậm, hoặc không nhanh không
chậm cho thấy rõ nhịp điệu tự sự trong văn bản.
1.2.3. Tần suất kể
Tần suất kể chuyện là một bình diện của mối quan hệ giữa thời gian câu
chuyện và thời gian truyện kể. Tần suất (frequency), theo G.Genette là
21
“nghiên cứu mối quan hệ về mức độ lặp lại giữa câu chuyện và việc trần thuật
nó” [20,tr.497]. Nghĩa là quan hệ về các sự kiện xuất hiện (nhiều hay ít) trong
câu chuyện và số lần mà chúng được kể lại trong truyện. Genette đã quy hệ
thống những quan hệ về tần suất thành hai kiểu chính: “sự kiện được nhắc lại
hoặc không” và “lời trần thuật được nhắc lại hoặc không”.
Tần suất kể chuyện có ba loại:
Tự sự đơn nhất (rescit singulier) là “sự việc xảy ra một hay bao nhiêu
lần thì trần thuật lại bấy nhiêu lần” [20,tr.497]. Gọi là trần thuật đơn nhất là vì
lời kể và sự kiện được kể là tương đương với nhau. Trong tự sự đơn nhất lại
có hai dạng:
+ Kể lại một lần điều xảy ra một lần. Dạng này thường thấy trong các
diễn ngôn hội thoại, trong truyện ngắn.
+ Kể lại n lần điều xảy ra n lần [15,tr.117].
Hai dạng này thoáng nhìn thì có vẻ giống nhau. Bởi ở dạng sau khi ta
thay n = 1 thì không khác gì dạng trước. Song, điều lí thú ở đây là ở chỗ “sự
việc có thể giống nhau nhưng mỗi lần kể là mỗi lần khác”.
Tự sự trùng lặp (rescit répétitif) là “sự việc chỉ xảy ra một lần, nhưng
được trần thuật rất nhiều lần” [20,tr.497]. Đây là sự trùng lặp trong lời kể,
thường xuất hiện ở những lời nói của các nhân vật có trạng thái không bình
thường. Theo Genette thì kiểu trần thuật này dường như chỉ có trong giả định.
Nó nhấn mạnh vào một sự ám ảnh nào đó, hoặc thể hiện một thái độ, một
hành vi vô lí.
Tự sự mang tính tổng hợp (récit itératif) là “trần thuật một lần sự việc
xảy ra rất nhiều lần” [20,tr.497]. Loại tự sự này có thể được xem xét bởi các
yếu tố: khoảng thời gian mà sự kiện xuất hiện, nhịp độ lặp lại của sự kiện và
quãng thời gian được mở rộng ra bởi sự thuật lại sự kiện.
22
Tần suất chính là “cách tính thời gian kể theo tần số xuất hiện trong
mối tương quan giữa lời kể và cốt truyện” [15tr.140].
Tần suất kể truyện chính là một phương diện cơ bản của thời gian tự
sự, tuy nhiên nó ít được các nhà lí luận phê bình chú ý tới.
Ba cấp độ kể trên là những phương diện cơ bản nhất và cũng gần như
hoàn thiện nhất về thời gian tự sự. Khảo sát thời gian trong một tác phẩm tự
sự dựa trên lí thuyết thời gian tự sự mà G.Genette đã đề xuất sẽ giúp ta nắm
bắt được những chuyển vận phức hợp, bóc tách được các lớp thời gian, luận
giải được quan niệm thời gian, phương cách tự sự, tư tưởng... của tác giả.
Genette đã có công lớn trong việc lập ra “công thức” thời gian tự sự để khám
phá tác phẩm.
23
CHƯƠNG 2
TRÌNH TỰ KỂ CHUYỆN
2.1. Trình tự kể ở cấp độ mạch truyện
Được xây dựng trên kết cấu phân mảnh, Giã biệt bóng tối là sự kết hợp
của chuỗi các câu chuyện nhỏ xoay quanh chỉnh thể lớn. Mỗi mảnh ghép là
một câu chuyện nhỏ kể về các nhân vật, tuy nhiên nó lại xoay quanh cuộc đời
quá khứ của thằng bé Thượng và những cái chết bí ẩn liên quan đến nó. Theo
chúng tôi Giã biệt bóng tối là sự xâu chuỗi của nhiều mảnh ghép( bloc truyện)
gắn với những sự kiệ chính như sau.
STT
Tiêu đề
Nội dung
Phần 1 Tường thuật trên một bản tin Những cái chết bí hiểm xảy ra
Đầu
thời sự .
trong làng. (a)
năm
Dư luận làng Thổ Ô xung quanh Các giả thiết được đưa ra xung
2000
những cái chết kì lạ.
quanh những cái chết kì lạ.(b)
Tiếp lời của người tường thuật
Những cái chết có phần do bàn
tay của ma quỷ(c)
Nhân vật xưng tôi thằng bé
Quá khứ hạnh phúc và hiện tại
lang thang của thằng bé với
những cãm bẫy chờ đón.(d)
Lời người dẫn chuyện
Thằng bé nhớ lại trước khi đến
ngôi miếu hoang, bị rơi vào đám
đắt gái cho người nước ngoài,
làm bưng bê ở một quán bia.
Sau đó bị đuổi và gặp ả cave tốt
bụng.(e)
Cái chết bí ẩn của cô giáo
24
trong làng. Sự xuất hiện của các
nhà khoa học.(f)
Nhân vật xưng tao, kẻ ẩn mình Quá khứ của kẻ ẩn mình trong
trong bóng tối
bóng tối.(g)
Thằng Thượng (thằng bé lang
thang nhận được một điều
ước).(h)
Phần Những kẻ xấu số
Sự ứng nghiệm của lời nguyền
hai
với những chái chết.(i)
cuối
năm
Lời người dẫn chuyện nhưng bị
1990.
chen ngang .
Nhân vật phụ thứ nhất gã đào Cách làm giàu của nhân vật
mỏ xưng tớ cho thân tình và dễ xưng tớ.(k)
phân biệt.
ả cave nhờ tìm thằng bé ả gặp
Phần
ba
chuyệ
trên vỉa hè.(l)
Giữa năm 2000 ngày đầu tháng. Làng Thổ ô nổi tiếng nhờ
Nhân vật phụ chuyển sang xưng những cái chết.(m)
n giữa tôi mà không giải thích rõ lí do
Sự trở về của thằng khố rách
2 thế
áo ôm.(n)
kỉ
Nhân vật vụ thứ hai nhà thiết kế Sự xuất hiện của một khách
.
hàng kì quặc.(o)
Lời tác giả chen ngang và bị Cuộc sống của thằng Thượng
chen ngang.
trong căn nhà gã Bính.(ô)
Một buổi chiều tại trại phục hồi ả cave bị bắt và áp tải lên trại
nhân phẩm .
phục hồi nhân phẩm.(p)
Trích tự truyện 1 cave
Ước vọng từ quá khứ và nguyên
25