Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930 -1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.92 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA: KỸ THUẬT XÂY DỰNG
Bộ môn: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------

Đề tài:

ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)
-

Giảng viên HD:
Nhóm: 4

Đào Thị Bích Hồng

Tháng 9/2013
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA: KỸ THUẬT XÂY DỰNG
Bộ môn: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------

Đề tài:


ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)
-

Giảng viên HD:
Nhóm: 4

Đào Thị Bích Hồng

Tháng 9/2013
2


Mục lục

3


1. GIAI ĐOẠN 1930 - 1935:
1.1 Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Ngày 3-2-1930 Tại hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Cửu Long-Hương CảngTrung Quốc do Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị đã thông qua cương lĩnh chính trị của Đảng
do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đây được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Nội
dung của cương lĩnh bao gồm những vấn đề sau:
1.1.1 Đường lối chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Đây là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Chỉ ra cho cách mạng Việt Nam là phải
làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Cách mạng tư sản dân quyền đánh đổ
đế quốc Pháp giải phóng dân tộc, thổ địa cách mạng chống phong kiến lấy lại ruộng đất cho
nông dân.
1.1.2Cương lĩnh xác định các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam:
- Nhiệm vụ về chính trị:

+ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập, lập ra chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
- Về kinh tế:
+ Tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ công nông binh quản lý:
bệnh viện, trường học, trạm xá…
+ Tịch thu ruộng đất của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo mở mang công
nghiệp-nông nghiệp miễn thuế cho dân cày nghèo thực hiện ngày làm 8h.
- Về văn hoá:
+ Thực hiện nam nữ bình quyền và phổ thông giáo dục công nông hoá.
1.1.3 Lực lượng cách mạng
Toàn thể dân tộc Việt Nam, cương lĩnh chủ trương thu phục tập hợp quần chúng nông
dân, công nhân khỏi ảnh hưởng tư sản, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng dựa
vào hạng dân cày nghèo lãnh đạo đất nước. Đối với phú nông, tiểu chủ, tư bản Việt Nam chưa
rõ mặt phản động thì lôi kéo họ về phía cách mạng hoặc làm cho họ trung lập. Lực lượng nào
tỏ rõ bộ mặt phản cách mạng thì cần phải đánh đổ.
1.1.4 Lãnh đạo cách mạng
Đảng Cộng Sản Việt Nam là nhân tố quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam
4


1.1.5 Đoàn kết quốc tế
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới do đó phải liên kết với cách
mạng thế giới nhất là cách mạng vô sản Pháp.
* Nhận xét:
- Cương lĩnh đã xác định được nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam.
- Phù hợp với xu thế phát triển thời đại mới, giải quyết được đường lối và giai cấp lãnh đạo đã
trở thành ngọn cờ tập hợp các tầng lớp cách mạng, đấu tranh chống Pháp.
- Cương lĩnh đánh dấu bước phát triển về chất của cách mạng Việt Nam chứng tỏ giai cấp
công nhân và đội tiên phong là Đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
* Điểm sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:

- Cương lĩnh giải quyết được mẫu thuẫn: xã hội Việt Nam tồn tại hai mẫu thuẫn đó là mâu
thuẫn giai cấp giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn dân tộc giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc Pháp. Cương lĩnh cũng chỉ ra rằng mâu thuẫn dân tộc là quan trọng
nhất cần phải được giải quyết ngay sau khi giải quyết xong mâu thuẫn dân tộc thì mới giải
quyết mâu thuẫn giai cấp.
- Cương lĩnh cũng đã giải quyết được đường lối cách mạng đó là cách mạng vô sản kết thúc
bằng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
1.2. Luận cương chính trị tháng 10-1930
1.2.1

Hoàn cảnh:

- Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời, cùng Ban Thượng vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương.
- Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại
Hương Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất:
+ Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo.
+ Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
1.2.2

Nội dung Luận cương chính trị:

- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản
dân quyền”, có “tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi
sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa.
- Nhiệm vụ cách mạng:
5



Xoá bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách
mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.
- Lực lượng cách mạng: Vô sản và nông dân là lực lượng chính, trong đó vô sản lãnh đạo
cách mạng. Bỏ qua, phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và phú nông.
- Vai trò của Đảng: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là
cần phải có một Đảng Cộng sản”. Đảng phải có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng và được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động, theo khuôn phép nhà binh.
- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vì thế giai
cấp vô sản Đông Dương phải gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp.
Liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.
1.2.3

Ý nghĩa của Luận cương :

Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
- Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp.
- Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà cường điệu
hoá những hạn chế của họ.
Từ đó phủ nhận quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và hạn chế
này tồn tại tới Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) mới được khắc phục hoàn toàn.
Nguyên nhân của hạn chế:
- Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.

- Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt Nam.
- Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “tả” trong Quốc tế Cộng sản.
1.2.4

Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng

Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được một
phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp và tay sai
thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở Đảng tan vỡ,
nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong trào đấu tranh lắng
xuống.
Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể xoá bỏ
được là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô
sản, của Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông trong đấu tranh cách
mạng; Đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng.
Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì: Hà Nội, Sơn
Tây, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm lại cơ sở để lập lại tổ
chức.
6


Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa chọn
những thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung Quốc) thành
lập Ban chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư cách là Ban Chấp hành Lâm thời (thay cho Ban
Chấp hành cũ đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên….Ban lãnh đạo hải
ngoại do Lê Hồng Phong đứng đầu đã công bố Chương trình hoạt động của Đảng Cộng sản
Đông Dương (tháng 6-1932).
Trong điều kiện lịch sử mới, Chương trình hành động của Đảng nêu ra các yêu cầu trước
mắt:
- Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại.

- Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay
chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.
- Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác.
- Bỏ độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.
Cuộc đấu tranh đòi ân xá chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 toàn quyền Đông Dương đã
ký lệnh ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân xá tù chính trị.
Như vậy, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản,
đến cuối 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào quần
chúng dần được nhen nhóm lại.
1.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng
1.3.1 Hoàn cảnh
Đại hội được tiến hành trong bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước có nhiều chuyển
biến quan trọng. Trên thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tiếp tục phát triển có
lợi cho cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Những thành tựu to lớn về mọi mặt của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô có tác động to lớn tới phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa. Các nước tư bản chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế sâu sắc. Ở Đông
Dương, phong trào đấu tranh của công nhân đã từng bước hồi phục. Các tầng lớp nhân dân ở
thành thị và nông thôn tham gia đấu tranh bằng nhiều hình thức như bãi khoá của học sinh,
bãi thị của thương nhân, biểu tình chống thuế của nông dân.
Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy
ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc).
1.3.2 Nhiệm vụ
Đại hội đã nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian trước mắt của toàn Đảng là
củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và trong nước, Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu
của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng
rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
Về nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng, tăng cường phát triển đảng vào các xí
nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một thành

7


luỹ của Đảng; đồng thời phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã trải qua thử
thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các
cơ quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ
cần tăng cường phê bình và tự phê bình đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả” khuynh và “hữu”
khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng.
Về “thâu phục quảng đại quần chúng”, Đại hội chỉ rõ Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh
hưởng và thể lực của Đảng trong quần chúng. Nếu Đảng không mật thiết liên lạc với quần
chúng, không được quần chúng tán thành và ủng hộ những khẩu hiệu của mình thì những
những nghị quyết cách mạng đưa ra vẫn chỉ là lời nói không. Muốn thâu phục quảng đại quần
chúng thì nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp trước mắt của Đảng là: Bênh vực quyền lợi
của quần chúng; củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng. Đại hội chủ trương tổ chức
quần chúng chủ yếu theo hình thức bí mật, bất hợp pháp, đồng thời coi trọng những hình thức
công khai, hợp pháp.
Phải đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc, vạch trần luận điệu “hoà bình” giả dối của
bọn đế quốc, giải thích cho quần chúng thấy rõ chiến tranh đế quốc đã bắt đầu. Đại hội xem
nhiệm vụ chống chiến tranh đế quốc bảo vệ Liên bang Xô Viết là nhiệm vụ của Đảng và của
toàn thể cách mạng. Đại hội quyết định thành lập Ban Chống chiến tranh đế quốc do Đảng
lãnh đạo, bao gồm đại biểu nhiều tổ chức cách mạng và cá nhân yêu nước, hoà bình và công
lý.
Tiểu kết : Quan điểm của Đảng vẫn sai lầm và đứng trên quan điểm của Luận cương chính
trị (10/1930)
2. GIAI ĐOẠN 1936-1939:
2.1 Hoàn cảnh lịch sử
2.1.1 Tình hình thế giới
- Cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản
chủ nghĩa đã khiến cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt,
đồng thời làm cho phong trào cách mạng của quần chúng dâng trào.

- Những năm 30 của thế kỷ XX, thế lực phát xít cầm quyền ở Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản
chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới. Chế độ độc tài phát xít là nền chuyên
chính của những thế lực phản động nhất, tàn bạo nhất và dã man nhất.
- 07/1935, Đại hội lần VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcova do Dimitorop chủ trì
diễn ra. Đoàn Đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu. Đại
hội xác định nhiệm vụ chống chủ nghĩa phát xít, đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hòa
bình, thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi.
- 06/1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, thi hành cải cách tiến bộ ở thuộc
địa: Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền
mới, nới rộng quyền tự do báo chí … tạo thuận lợi cho cách mạng Việt Nam
2.1.2 Tình hình trong nước
-

Chính trị :



Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền mới,
ân xá tù chính trị ,nới rộng quyền tự do báo chí … tạo thuận lợi cho cách mạng Việt
Nam .
8




Có nhiều đảng phái chính trị hoạt động: đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải
lương, đảng phản động …, nhưng Đảng Cộng Sản Đông Dương là Đảng mạnh nhất,
có tổ chức chặt chẽ, chủ trương rõ ràng.

-


Kinh tế:

Sau khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, Pháp tập trung đầu tư , khai thác thuộc địa để bù
đắp sự thiếu hụt cho kinh tế Pháp .


Nông nghiệp: tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất, độc canh cây lúa , trồng cao su, đay,
gai, bông …



Công nghiệp: đẩy mạnh khai mỏ. Sản lượng ngành dệt, xi măng, chế cất rượu tăng.
Các ngành ít phát triển là điện, nước, cơ khí, đường, giấy, diêm...



Thương nghiệp: thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối và xuất nhập khẩu.,
thu lợi nhuận rất cao, nhập máy móc và hàng tiêu dùng , xuất khoáng sản và nông sản .



Những năm 1936 -1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam nhưng
kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp.

-

Xã hội :đời sống nhân dân khó khăn do chính sách tăng thuế của Pháp




-Công nhân: thất nghiệp, lương giảm.



-Nông dân: không đủ ruộng cày, chịu mức địa tô cao và bóc lột của địa chủ, cường
hào…



-Tư sản dân tộc: ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép .



-Tiểu tư sản trí thức: thất nghiệp, lương thấp .



-Các tầng lớp lao động khác: chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ .



Đời sống đa số nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do, cơm áo
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương .

2.2 Phong trào dân chủ 1936 – 1939
2.2.1 Chủ trương mới của Đảng trong những năm 1936 – 1939 .
- Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ
hai do Lê Hồng Phong chủ trì ở Thượng Hải (Trung Quốc) dựa trên Nghị quyết Đại hội 7
của Quốc Tế Cộng Sản, đề ra đường lối và phương pháp đấu tranh:



Về kẻ thù cách mạng: Bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng

9




Về nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế
quốc và phong kiến .



Về nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa,
chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa
bình.



Về phương pháp đấu tranh : Kết hợp các hình thức công khai và nửa công khai, hợp
pháp và nửa hợp pháp.



Về chủ trương: Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Tháng
3/1938, đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân
chủ Đông Dương.

- Ý nghĩa Hội nghị lần thứ 2:



Hội nghị đã đánh dấu sự điều chỉnh về chủ trương sách lược đấu tranh của Đảng trước
tình hình mới



Mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta.

- Để cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng, đòi
các quyền dân chủ, dân sinh, không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và
Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp", mà còn đề ra khẩu hiệu "ủng hộ
Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phátxít ở
Pháp và bọn phản động thuộc địa.
- Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai và hợp pháp, tránh
sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và
hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp pháp với
không hợp pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức
và hoạt động công khai hợp pháp. Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do
đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư.
- Cùng với việc đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân thành lập Mặt trận nhân dân rộng
rãi, đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn
đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong
cách mạng ở Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố
tháng 10-1936, Đảng nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết
phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải
đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng". Vì tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc,
nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề điền địa tuy quan trọng
nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc, rồi sau mới

giải quyết vấn đề điền địa. Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải
quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. "Nói tóm lại,
nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn
vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm
nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng".. Đó là nhận thức
mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc
phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
10


- Ý nghĩa: Chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và dân chủ, xác định mục tiêu trước mắt của cách mạng từ đó đề ra các hình thức tổ chức và
đấu tranh linh hoạt, thích hợp hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành chính quyền, chuẩn bị
cuộc đấu tranh sau này.

2.2.2 Những phong trào đấu tranh tiêu biểu
2.2.2.1 Đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ .
* Phong trào Đông Dương Đại hội
-

Năm 1936 ,Đảng vận động và tổ chức nhân dân thảo ra bản dân nguyện vọng gửi tới
phái đoàn chính phủ Pháp, tiên tời triệu tập Đông Dương Đại hội (8-1936)

-

Các ủy ban hành động thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận
dân chủ, dân sinh…

-


-Tháng 09/1936 Pháp giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo.

-

Qua phong trào, đông đảo quần chúng được giác ngộ, đoàn kết đấu tranh đòi quyền
sống: Đảng thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo đấu tranh công
khai, hợp pháp.

* Phong trào đón Gô –đa: Năm 1937, lợi dụng sự kiện đó Gô đa và Toàn quyền mới sang
Đông Dương , Đảng tổ chức quần chúng mít tinh, biểu dương lực lượng đưa yêu sách về dân
sinh, dân chủ .
* 1937-1939: Nhiều cuộc mít tinh , biểu tình đòi quyền sống tiếp tục diễn ra , nhân ngày
Quốc tế lao động 01/05/1938, lần đầu tiên nhiều cuộc mít tinh tổ chức công khai ở Hà
Nội, Sài Gòn có đông đảo quần chúng tham gia.
2.2.2.2 Đấu tranh nghị trường:
-

Hình thức đấu tranh mới của Đảng:

-

Đảng đưua người của Mặt trận Dân Chủ Đông Dương ra ứng cử vào Viện dân biểu
Bắc kỳ, Trung kỳ, Hội đồng quản hạt Nam kỳ….

-

Mục tiêu: Mở rộng lực lượng Mặt trận dân chủ và vạch trần chính sách phản động của
thực dân, tay sai, bênh vực quyền lợi của nhân dân.

2.2.2.3 Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí:

-

Từ 1937 báo chí công khai của Đảng bằng tiếng Việt: Tin tức, Đời nay, Phổ Thông,
Dân chúng …, bằng tiếng Pháp: Lao động, Tranh đấu….trở thành mũi xung kích trong
cuộc vận động dân chủ, dân sinh .

11


-

Nhiều sách chính trị – lý luận xuất bản công khai hoặc đưa từ Pháp về. Nhiều tác
phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như: Bước đường cùng, Tắt đèn, Số đỏ ,Thơ
cách mạng, kịch Đời cô Lựu…

-

Cuối 1937, Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ giúp quần chúng đọc
được sách báo, nâng cao sự hiểu biết về chính trị và cách mạng.

-

Cuộc đấu tranh trên lãnh vực báo chí đã thu kết quả to lớn về văn hóa – tư tưởng:
đông đảo các tầng lớp nhân dân được giác ngộ về con đường cách mạng.

2.3 Chung quanh vấn đề chính sách mới
2.3.1 Chiến sách lập mặt trận nhân dân phản đế
-

Chiến sách của Đảng là nhận rõ ai là kẻ địch nhân nguy hiểm nhất trong lúc hiện thời

nhất định sẽ tập trung ngọn lửa vào đó mà đánh.

-

Đứng về phương diện dân tộc bị áp bức, phương diện giai cấp bị bóc lột, ai cũng công
nhận đế quốc Pháp là kẻ thù địch chính của nhân dân Đông Dương.

-

Tranh đấu chống đế quốc là nhiệm vụ chung của nhân dân Đông Dương. Nghị quyết
của Quốc tế Cộng sản nói: "Trong các xứ thuộc địa và bán thuộc địa, nhiệm vụ rất
quan trọng của những người cộng sản là cần lập ra mặt trận nhân dân chống đế quốc.
Muốn đạt tới mục đích ấy cần phải kéo quảng đại quần chúng vào cuộc vận động giải
phóng, chống sự bóc lột của đế quốc ngày càng tăng thêm, chống việc đàn áp dã man,
đòi đuổi đế quốc ra khỏi xứ, đòi quyền độc lập cho xứ, phải hăng hái tham gia những
cuộc vận động phản đế của quần chúng do bọn quốc gia cải lương lĩnh đạo, phải căn
cứ theo một cái chương trình phản đế rộng rãi, rõ rệt mà thiết pháp thống nhất hành
động với các đoàn thể quốc gia cách mạng và quốc gia cải lương".

-

Nhưng xét tình hình quần chúng vận động hiện thời cả về chính trị và về tổ chức chưa
tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn
đề điền địa. Vậy nhiệm vụ lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm
các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau,
các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn
sơ. Tự do hội hiệp, tổ chức, tự do ngôn luận, xuất bản; tự do đi lại, xuất dương, ân xá
hết chính trị phạm, ngày làm việc 8 giờ; các luật lao động cho thợ thuyền; mở rộng các
cơ quan kinh tế, tài chính, hội đồng quản hạt, các viện dân biểu, v.v.


2.3.2 Chính sách mặt trận nhân dân phản đế với chủ nghĩa giai cấp hợp tác
-

Đứng về mặt phản đế, Đảng hết sức liên lạc các lực lượng phản đế. Từ xưa tới nay
Đảng vẫn chủ trương làm Mặt trận thống nhất phản đế với các đảng quốc gia cách
mạng tuy rằng trước kia Đảng hết sức công kích sự không triệt để của các đảng quốc
gia cách mạng, và những lý thuyết có tính chất quốc gia trong hàng ngũ của Đảng, vì
rằng trong thời kỳ Đảng mới thành lập di tích quốc gia còn mạnh trong hàng ngũ
Đảng. Nay hàng ngũ của Đảng đã bồi dưỡng có tinh thần quốc tế, Đảng không sợ
Đảng chúng ta sẽ biến thành đảng quốc gia.

12


-

Đảng nhắc lại cho các đảng viên biết rằng một dân tộc bị áp bức như xứ Đông Dương
vấn đề dân tộc giải phóng là một nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản. Vậy Đảng
phải mật thiết với các đảng quốc gia hơn nữa.

-

Đảng có thể bồi dưỡng một tinh thần dân tộc giải phóng mạnh mẽ trong đám dân
chúng bị áp bức không trái với nguyên tắc dân tộc tự quyết của Quốc tế Cộng sản,
không trái với quyền lợi của vô sản giai cấp, nghĩa là cuộc dân tộc giải phóng theo
nguyên tắc dân tộc bình đẳng, theo tinh thần quốc tế liên ái với các dân tộc bị áp bức,
với vô sản thế giới và với nhân dân những xứ cách mạng đã thành công, và nhân dân
những xứ đối đãi nhau bình đẳng, nhất là với vô sản cùng nhân dân Pháp, chống sự
ghen ghét về nòi giống, cừu thù về chủng tộc hẹp hòi.


2.3.3 Chính sách mặt trận nhân dân phản đế với pháp - việt đề huề
-

Theo hoàn cảnh hiện thời thì nhiệm vụ của Mặt trận dân nhân phản đế ở Đông Dương
chưa phải là đánh đổ nền thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương, mà chỉ là tranh
đấu chống chế độ thuộc địa dã man, đòi những quyền dân chủ tự do, v.v..

-

Chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương không phải là chống người Pháp, mà chỉ
chống đế quốc Pháp. Vậy cho nên lúc tranh đấu đòi những điều yêu cầu ấy,
không những chúng ta chủ trương mật thiết với vô sản Pháp và đội tiền phong của họ
và của quần chúng lao động ở Pháp là kẻ đồng minh trung thực, vĩnh viễn, mà chúng
ta còn cả quyết liên lạc với các phái khác, các cá nhân và chi bộ của Mặt trận nhân dân
Pháp ở Đông Dương, để thực hiện những điều yêu cầu của nhân dân Đông Dương, để
chống lại với bọn tây thuộc địa phản động, bọn chân tay phát xít ở Đông Dương.

-

Một vài người thấy rằng ta ra khẩu hiệu ủng hộ Chính phủ Blum thì ngạc nhiên mà
cho rằng chính sách "Pháp - Việt đề huề". Phải biết rằng Đảng Cộng sản Đông Dương
không bao giờ hô hào nhân dân ra ủng hộ Chính phủ Laval và Doumergue. Chỉ có bọn
Lê Quang Liêm thì mới hô hào "đồng bào" ra ủng hộ hết các chính phủ, vô luận là ai
tổ chức mà họ còn ủng hộ hết các tên toàn quyền khâm sứ ném bom, tàn sát đồng bào
An Nam. Làm bạn với hổ với beo, kêu gào với bọn ăn thịt người không thấy tanh thấy
mặn! Đấy mới gọi là Pháp - Việt đề huề.

-

Đảng Cộng sản Đông Dương không phải cứ một mực nhắm mắt lại ủng hộ. Đảng đã

biết tính chất của Chính phủ Blum là chính phủ tả phái, nên Đảng ủng hộ để mong
thực hiện mấy điều yêu cầu dân chủ cho xứ Đông Dương.

-

Sự thực đã chứng minh rằng chính sách Pháp - Việt đề huề của bọn Lê Quang Liêm đã
chia rẽ mặt trận dân tộc, nên đã gây ra việc đàn áp cuộc hành động chính đáng có trật
tự của nhân dân Đông Dương. Đó cũng tỏ cho ta biết rằng lực lượng phản động bao
vây còn mạnh, thế lực của chính phủ tả phái có dưới quyền chỉ đạo của Đảng Xã hội,
hoạt động có phạm vi, chớ không phải như nhiều người đã mộng tưởng.

-

Nói tóm lại, Đảng tán thành đề huề với vô sản và quần chúng lao động ở Pháp, ủng hộ
chính phủ tả phái để đòi những yêu cầu chính đáng cho toàn dân Đông Dương, phản
đối sự đề huề với bọn đại tư bản Pháp, với bọn phản động tay chân Hítle, chúng làm
phản cả nhân dân Pháp. Ai chống chủ trương của Đảng tức là những kẻ chống một
cách như máy, không có ý nghĩa, tán nhảm.

2.3.4 Mặt trận nhân dân với cuộc dân tộc giải phóng
13


-

Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa.
Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng
điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có
chỗ không xác đáng. Vì rằng tuỳ hoàn cảnh hiện thực bắt buộc nếu việc tranh đấu
chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan

trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước đánh đổ đế quốc rồi sau giải
quyết vấn đề điền địa, nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế liên tiếp giải
quyết vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động, nghĩa là
cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời vì muốn
tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc cần phải phát triển cuộc cách mạng điền
địa.

-

Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế
thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch
nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được
toàn thắng.

2.3.5 Mặt trận nhân dân phản đế với vấn đề tranh đấu cho các tổ chức công khai tồn
tại
-

Cách tổ chức mới là làm cho quần chúng có tổ chức sơ sài, dầu các xu hướng, các
tín ngưỡng, tư tưởng khác nhau mặc lòng người cộng sản ở trong ấy học tập chỉ
huy luyện tập tranh đấu, có chỉ huy được các hội quần chúng rộng rãi và phức tạp
như thế thì mới phải là người lĩnh đạo quần chúng và có luyện tập trong trường
tranh đấu thì mới biết sự nhu cầu thiết thực của quần chúng, và quần chúng mới tự
hiểu rằng cần phải củng cố hàng ngũ, mở rộng tổ chức của mình là cái khí cụ tranh
đấu có hiệu quả, và hội ấy sẽ thành các đoàn thể tranh đấu cách mạng.

-

Đảng không những tranh đấu để công khai và bán công khai tổ chức các hội quần
chúng và hoạt động theo cách liên lạc bí mật với công khai. Do không phải là đảng

bỏ cách bí mật mà theo chủ nghĩa công khai (légalisme). Đảng vẫn củng cố tổ
chức và công tác bí mật của Đảng hơn xưa trong các tổ chức quần chúng phát triển
và phong trào vận động lan rộng, Đảng lại hết sức thu nạp đảng viên và củng cố
hàng ngũ của mình.

-

Tranh đấu cho Đảng được công khai là việc cần thiết. Đảng được công khai, thì
ảnh hưởng của Đảng dễ được lan rộng trong các lớp quần chúng nhân dân, Đảng
dễ lĩnh đạo và tổ chức quần chúng tranh đấu để bênh vực quyền lợi cho giai cấp
thợ thuyền, cho quần chúng lao động, cho các hạng nhân dân trong dân tộc, đòi
quyền tự do cho dân tộc, chống cách bóc lột quần chúng, chống khủng bố, chống
áp bức về dân tộc.

2.3.6 Mặt trận nhân dân phản đế với phương pháp tuyên truyền
14


-

Nghị quyết của Đại hội thứ VII của Quốc tế Cộng sản bảo rằng: Phải đổi hẳn những phương
pháp tuyên truyền cổ động có tính chất cô độc và ít thích hợp cho quần chúng; sự tuyên
truyền cổ động phải hiện thực liên lạc với những đều nhu yếu trực tiếp và "quyền lợi hằng
ngày của quần chúng".

-

Chúng ta theo chủ nghĩa quốc tế, không phải theo chủ nghĩa quốc gia, nhưng đứng trong hoàn
cảnh một dân tộc bị hai từng bóc lột, chúng ta phải nâng cao tinh thần tranh đấu dân tộc giải
phóng mật thiết liên kết với quyền lợi của quần chúng lao động, nghĩa là hình thức dân tộc mà

nội dung quốc tế.
2.3.7 Kết luận
Chiến sách mới của Đảng căn cứ theo học thuyết Mác - Lênin, Ăngghen, Xtalin mà thảo ra để
làm kim chỉ nam cho cuộc cách mạng vận động ở Đông Dương, để chiến thắng những khuyết
điểm, những di tích hẹp hòi. Đảng đưa cuộc vận động ấy thành cuộc vận động dân tộc giải
phóng lớn lao, mạnh mẽ, rộng rãi. Chiến sách mới của Đảng là chiến sách theo điều kiện hiện
thực ở xứ Đông Dương, theo kinh nghiệm tranh đấu của Đảng, học kinh nghiệm của Quốc tế
Cộng sản và kinh nghiệm của cuộc vận động cộng sản thế giới, không phải đem kinh nghiệm
xứ này sang xứ khác một cách như máy.
Tuy vậy, chiến sách mới còn là cái đại cương cho phương hướng hành động và phát triển
công tác của Đảng trong việc lập Mặt trận nhân dân phản đế ở Đông Dương. Trong lúc thi
hành chúng ta còn nghiên cứu học tập kinh nghiệm riêng từng địa phương, đặng giúp cho
công tác của Đảng được mĩ mãn phát triển.
Trong công tác hằng ngày để ý tranh đấu chống những xu hướng tả khuynh và hữu khuynh,
chống sự tàn tích chật hẹp, đặng khiến cho hàng ngũ của Đảng được kiện toàn, được thống
nhất.
Đứng đầu cuộc tranh đấu dân tộc giải phóng có hàng triệu dân chúng tổ chức hăng hái tham
gia. Đó là điều kiện bảo chứng cho cuộc cách mạng vận động ở Đông Dương được thắng lợi.

2.4 Ý nghĩa của phong trào dân chủ 1936 – 1939
- Là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng..
- Buộc Pháp phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ.
- Quần chúng được giác ngộ về chính trị, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách
mạng.
- Cán bộ đựợc tập hợp và trưởng thành.
- Là một cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
2.5 Bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ 1936 – 1939
- Về việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
15



- Tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp.
- Đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng và với các đảng phái phản động.
- Đảng thấy được hạn chế trong công tác mặt trận, dân tộc…
* Nhận xét: Là một cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

3. GIAI ĐOẠN 1939 – 1945:
3.1 Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
3.1.1 Hội nghị Trung ương 6 (11/1939)
- Nhiệm vụ Cách mạng:
+ Đánh đổ Đế quốc và địa chủ phong kiến nhưng áp dụng phù hợp với tình
hình mới. Kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất của Cách mạng Đông Dương lúc này
là chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc, tính chất cuộc cách mạng
hiện tại là cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị nhấn mạnh “giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương”, “Cách mạng phản đế
và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền…Các nguyên
tắc ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải được ứng dụng một cách
khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là
đánh đổ đế quốc”.
+ Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ, chỉ đề ra chính
sách chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi và tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội lại quyền lợi dân tộc chia cho dân cày; thay đổi khẩu
hiệu lập chính quyền Xô Viết công nông binh bằng khẩu hiệu thành lập chính
quyền cộng hoà dân chủ.
- Tập hợp lực lượng Cách mạng:
+ Công nhân, nông dân, trí thức đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông
thôn, đồng minh hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ,
do giai cấp công nhân lãnh đạo.
+ Đảng thành lập và tập hợp nhân dân vào Mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc ở Đông Dương, tất cả các

giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, đánh đổ
đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và bọn tay sai Đế quốc thực hiện mục tiêu cách
mạng.
- Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Các dân tộc thuộc 3 nước Đông Dương.
3.1.2 Hội nghị Trung ương 7 (11/1940)
- Nhiệm vụ cách mạng: Đánh đổ Đế quốc, kẻ thù chính của cách mạng lúc này là
Phát xít Pháp – Nhật.
- Tập hợp lực lượng Cách mạng: Duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn – đơn vị tập trung đầu tiên của lực lượng vũ trang do Đảng lãnh đạo,
về cơ bản lực lượng vũ trang đã được hình thành nằm dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là bước chuẩn bị quan trọng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang tiến
tới tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi sau này.
3.1.3 Hội nghị Trung ương 8 (5/1941)
- Nhiệm vụ cách mạng:
16


+ Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt Cách mạng là giải phóng dân tộc.
+ Tạm gác khẩu hiệu Cách mạng ruộng đất (11/1939), tập trung chĩa mũi nhọn
chống Đế quốc và tay sai giành độc lập Dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm
tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới người cày có ruộng.
+ Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật, thành lập chính phủ nhân dân của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Tập hợp lực lượng Cách mạng:
+ Hình thái khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.
+ Hội nghị quyết định thay tên Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân
cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão
cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc,…); thành lập Mặt trận Việt Nam đồng minh
(Việt Minh) thay cho Mặt trận dân tộc phản đế Đông dương để vận động, thu

hút mọi người dân yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai,
không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đoàn kết bên nhau đặng cứu
Tổ quốc, cứu giống nòi.
+ Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang từ thấp đến cao, như các đội tự vệ
cứu quốc, các tổ chức cứu quốc và các đội du kích. Từ đó dẫn đến ngày
22/12/1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập “đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân” hoạt động theo phương châm: “chính trị trọng hơn quân sự, dựa
vào dân và vận động toàn dân kháng chiến” kết hợp với lực lượng chính trị
chuẩn bị chờ thời cơ đến là phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
+ Xúc tiến xây dựng các căn cứ địa Cách mạng (Cao Bằng, Bắc Sơn – Vũ
Nhai) tiến tới thành lập khu giải phóng gồm 2 căn cứ lớn nằm trên 6 tỉnh (Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang) và một số
vùng thuộc ngoại tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái.
- Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Toàn thể nhân dân trong toàn bộ Tổ quốc
Việt Nam.
3.2 Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta
3.2.1 Hoàn cảnh lịch sử
- Nhật xâm lược Đông Dương. Nhật – Pháp cấu kết với nhau đàn áp phong trào
cách mạng Việt Nam. Song, mâu thuẫn giữa chúng ngày càng gay gắt. Bấy
giờ, Đảng ta đã dựa đoán: nhất định Nhất – Pháp sẽ thôn tính lẫn nhau.
- Cuối năm 1944, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc…
Nước Pháp được giải phóng, Chính phủ Đờgôn trở lại Paris. Quân Anh đánh
lui quân Nhật ở Miến Điện. Mỹ đổ bộ lên Philippines, khống chế phần đường
biển từ Nhật Bản đến Indonesia.
- Thực dân Pháp theo phái Đờgôn ở Đông Dương ngóc đầu dậy, hoạt động ráo
riết, chờ quân Đồng minh vào sẽ lật đổ Nhật để khôi phục quyền thống trị.
Trong khi đó, phát xít Nhật đứng trước tình thế thất bại ở Thái Bình Dương
nên phải nhanh chóng làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp.
- Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương.
- Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương họp hội nghị mở rộng tại Đình

Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12/9/1945, Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”.
3.2.2 Nội dung chỉ thị
- Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
17


-

-

-

3.2.3
-

-

3.2.4

nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho
những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Chỉ thị xác định: Phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy
nhất của nhân dân Đông Dương. Vì vậy, phải thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát
xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.
Chỉ thị chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ
chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi
nghĩa như tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị,

biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các
đội tự vệ cứu quốc,..
Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du
kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa.
Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi
quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận
ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật
bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc
Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh
thần.
Cao trào kháng Nhật cứu nước:
Từ tháng 3/1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra rất sôi nổi,
mạnh mẽ và phong phú về nội dung cũng như hình thức.
Ngày 15/4/1945, trong lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng lên mạnh
mẽ, Ban Thường vụ trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng
Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang), quyết định thống nhất các lực lượng vũ
trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; xây dựng 7 chiến khu trong cả
nước; chủ trương phát triển lực lượng vũ trang và nửa vũ trang…
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước ở cả nông thôn và thành thị
đang dâng lên mạnh mẽ thì do chính sách cai trị, vơ vét, bóc lột của đế quốc
Pháp và phatxit Nhật đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp ở cả Bắc và
Bắc Trung Bộ. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng
kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc của Nhật”, cứu đói cho nhân dân.
Phong trào phá kho thóc Nhật đã tạo đà tiến quan trọng cho sự phát triển tiếp
theo của cao trào “kháng Nhật cứu nước”.

Phát động Tổng khởi nghĩa
- Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hành quân Đồng minh. Ở Đông Dương, quân
Nhật bắt đầu rệu rã. Ngày 14/8/1945, quân phiệt Nhật hạ vũ khí đầu hàng
Đồng minh, đẩy quân Nhật đang chiếm đóng ở Đông Dương vào tình thế tuyệt

vọng như rắn mất đầu, hoang mang cực độ.
- Ngày 13-15/8/1945, TƯ Đảng quyết định họp Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào
(Tuyên Quang). Hội nghị nhận định đây là cơ hội tốt cho nhân dân ta đứng lên
giành chính quyền và quyết định phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính
quyền từ tay phatxit Nhật trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta.
- Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội khai mạc, tán thành chủ trương Tổng khởi
nghĩa của Đảng và Mười chính sách lớn của Việt Minh, quyết định thành lập
18


Ủy ban giải phóng dân tộc, thông qua Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy của đất
nước, thảo luận, bổ sung và thông qua một số chính sách cần phải thực hiện
ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Hội nghị thông qua mệnh lệnh Tổng
khởi nghĩa.
- Ngay sau Hội nghị, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến, toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta!”
- Với chủ trương, đường lối và phương hướng chỉ đạo của Đảng, Tổng khởi
nghĩa thành công nhanh chóng, thắng lợi hoàn toàn triệt để, ít tổn thất cho cách
mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày, Tổng khởi nghĩa lần lượt thành công trên khắp
các địa phương trong cả nước.
3.3 Nghệ thuật chớp thời cơ
- Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã chứng tỏ, Đảng
ta đã rất chủ động trong việc nắm bắt tình hình cách mạng, kịp thời đề ra
những chủ trương đúng đắn, phù hợp, tiên lượng được tình hình để có hành
động kịp thời, sẵn sàng cho những thời khắc quyết định của cách mạng. Bản
chỉ thị đã đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, chuyển phong trào cách mạng từ
thời kỳ vận động chính trị là chủ yếu sang thời kỳ phát động đấu tranh vũ
trang, khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở các địa phương.
- Sự kịp thời, nhanh chóng, chính xác của Đảng ta thể hiện ở việc nhận định tình

hình, đánh giá tình hình khi Nhật đảo chính Pháp đề đưa ra hướng chỉ đạo
đúng đắn. Sự chỉ đạo của Đảng ta trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền
này đã đạt đến nghệ thuật, nghệ thuật nắm bắt tình hình và nghệ thuật chỉ đạo
chớp thời cơ cách mạng. Đảng ta đã nhận định chính xác thời cơ Tổng khởi
nghĩa đã chín muồi, quyết định hạ lệnh Tổng khởi nghĩa đúng lúc, sau khi Nhật
Bản đã đầu hàng quân đồng minh, để quân đội Thiên hoàng không còn vị thế
can thiệp vào Việt Nam và bằng mọi cách phải giành chính quyền trước khi
quân Đồng minh tiến vào Đông Dương để tước vũ khí quân đội Nhật, buộc
chúng phải nói chuyện với Chính phủ lâm thời, đại diện cho nước Việt Nam
mới sau Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Như vậy, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng ta trong suốt thời kỳ
1930 – 1945 đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, nghệ thuật lãnh đạo của Đảng. Đó là
bản lĩnh vượt qua khó khăn, thử thách của thời kỳ bị khủng bố, là sự năng động,
sáng tạo trong việc đưa ra những chủ trương mới thời kỳ dân chủ 1936 – 1939, là
trí tuệ trong việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thời kỳ 1939 – 1945, và là nghệ
thuật trong việc đánh giá đúng tình thế và thời cơ cách mạng để lãnh đạo toàn
dân đứng lên giành chính quyền. Đường lối đó đã thể hiện sự đúng đắn, chủ động,
sáng tạo, nhanh chóng và kịp thời của Đảng ta qua từng giai đoạn, chuẩn bị
những điều kiện chủ quan cần thiết để chớp thời cơ, giành chính quyền cách
mạng.

.
19



×