Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

skkn một số lưu ý khi giảng dạy bài ký cô tô của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.7 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ VINH
TRƯỜNG THCS HÀ HUY TẬP.

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ LƯU Ý KHI GIẢNG DẠY BÀI KÝ
"CÔ TÔ" CỦA NGUYỄN TUÂN.

GI ÁO VI ÊN: ĐẶNG THỊ HƯƠNG.
N ĂM H ỌC: 2008- 2009

1


A. MỞ ĐẦU:
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chương trình cải cách thay sách giáo khoa môn Ngữ Văn đã thực hiện tròn
vòng và bước sang năm thứ 6. Năm học 2007 - 2008 là năm mà chương trình
Ngữ Văn lớp 6 đã thực hiện sáu năm. Trong thời gian ấy, chúng tôi - những
người trực tiếp giảng dạy Ngữ Văn đã có cố gắng cải cách thực sự về phương
pháp tích cực và tích hợp và đã có những bước tiến đáng kể.
- Một trong những thể loại được đưa vào sách Ngữ Văn mới khá nhiều là
thể ký: Chỉ riêng ở sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - tập 2 đã có 5 tác phẩm. Học sinh
lớp 6 là đối tượng còn non nớt ngây thơ. Một bài ca dao, một câu chuyện cổ có lẽ
lôi cuốn hấp dẫn các em dễ dàng hơn là những trang ký ngồn ngộn sự sống. Đó
chưa kể những bài ký nặng về chất chính luận, thiên về sự kiện, quả là một thử
thách đối với các em. Vậy làm thế nào để các em tiếp nhận với những bài ký một
cách hứng thú, phát hiện ra được nét riêng, hấp dẫn ở mỗi tác phẩm là điều trăn
trở khi tôi dạy thể loại này cho đối tượng lớp 6.
Với những băn khoăn trên tôi đã cố gắng khai thác các cách tiếp cận


những bài ký khác nhau. Cùng thể loại nhưng bài thì thiện về ký sự( sự việc), bài
thì thiên về cảm xúc( tuỳ bút), bài lại thiên về chất chính luận( Lòng yêu nước),
bài lại thiên về thuyết minh (Cây tre Việt Nam), bài ký mở đầu cho chuỗi tác
phẩm ấy là "Cô Tô" của Nguyễn Tuân.
- Trong thực tế dự giờ của một số đồng nghiệp, tôi thấy có một số người
dạy chưa đúng thể loại, dạy ký mà chẳng khác gì một bài văn tả cảnh. Số khác lại
quá nặmg về thể loại- bài dạy trở nên khô khan nặng nề, học sinh chán học, nhất
lạilà học sinh lớp 6 còn ngây thơ chưa có bản lĩnh trong việc tiếp nhận một thể
loại văn học mới lạ so với cấp I mà cá em vừa trải qua.
- Mặt khác, trong xu hướng tích hợp hiện nay, trong những văn bản ký ta
vẫn có thể khai thác những điều thú vị nếu đi sâu tìm hiểu (yếu tố miêu tả, yếu tố
2


biểu cảm...). Và văn bản "Cô Tô" mà tôi lựa chọn để thực hiện đề tài sau đây đã
có những đặc điểm ấy.
Trong khi đó thì qua thực tế giảng dạy và khảo sát sách giáo khoa, sách
giáo viên và một số tài liệu tôi nhận thấy có nhiều điểm của bài ký chưa được
khai thác hết , ví dụ: Sách giáo khoa cso yêu cầu và hướng dẫn học sinh khai thác
chủ yếu vào cảnh đẹp thiên nhiên, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên
dảo, chứ không khắc sâu cái thời điểm diễn ra những yếu tố ấy: đó là khi cơn bão
vừa đi qua.
Đó là chưa kể cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ Văn của Nguyễn Văn Đường Hoàng Dân lại viết quá sơ sài.
Ngay cả trong cuốn Bình giảng Ngữ Văn 6 cũng đã viết khá hay về bài
này vẫn còn bỏ qua những hình ảnh đặc sắc trong bài mà theo tôi là Nguyễn Tuân
đã có dụng ý đưa vào.
Với những lý do trên đây, tôi đã chọn đề tài" Một số lưu ý khi giảng dạy
bài ký "Cô Tô" của Nguyễn Tuân".
II. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
Với đề tài này, tôi muốn trình bày những nhận thức chung của bản thân về

phương pháp dạy bài Cô Tô và sau đó trình bày cụ thể hướng khai thác hai tiết
dạy bài ký Cô Tô với một số phát hiện ngoài những gì mà các tài liệu giảng dạy
đã có.
Ngoài ra đề tài còn trình bày các thao tác trắc nghiệm, kiểm tra để đánh
giá thông tin và xử lý kết quả của đề tài.
III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Bài ký đã từng có mặt trong văn học 6 tập I ( sách chỉnh lý); khi đưa vào
Ngữ Văn 6 - tập 2 đã lược bỏ một phần của đoạn giữa - đoạn tả con thuyền của
Châu Hoà Mãn và màu xanh nước biển buổi chiều. Đây là một đoạn đặc sắc,

3


nhưng để cảm thụ được cái hay của nó phải có một vốn hiểu biết văn học và đời
sống thật phong phú; mà điều này chưa thể có ở học sinh lớp 6.
Tìm hiểu đánh giá phân tích về bài ký đã có nhiều cuốn sách; riêng về sách
tham khảo đã có: Sách giáo viên Ngữ Văn 6 - Bình giảng Văn 6 ( Vũ Dương
Quỹ).
Hệ thống câu hỏi Ngữ Văn 6 - Trần Đình Chung; Thiết kế bài giảng Ngữ
Văn 6 - Nguyễn Văn Đường - Hoàng Dân.
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
V. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
VI. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ĐỀ TÀI:
1. Đối tượng:
Học sinh khối 6, đặc biệt là hai lớp tôi trực tiếp giảng dạy 6A, 6B năm học
2007- 2008.
2. Phạm vi nghiên cứu.
Một số phát hiện mới và phương pháp dạy bài ký "Cô Tô" của Nguyễn
Tuân.
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

1. Phương pháp nghiên cứu:
Đọc - tìm hiểu tham khảo các taì liệu có liên quan đến bài học theo tinh thần cải
cách mới: tìm hiểu ưu, nhược điểm từ đó xây dựng một cách dạy cho bài ký.
2. Phương pháp thực nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy trực tiếp lớp 6A, 6B - qua thực tiễn kiểm tra khả
năng tiếp thu bài của học sinh.
3. Phương pháp điều tra: Qua việc
- Dự giờ đồng nghiệp.
- Thảo luận. góp ý xây dựng giờ dạy cảu học sinh trong các lớp tôi giảng
dạy.
4


B.N ỘI DUNG:
I.XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU BÀI HỌC:
- Đây là một đoạn trích từ thiên ký dài cùng tên của Nguyễn Tuân. Sách
giáo viên, sách thiết kế đã xác định được mục tiêu cần đạt cảu bài dạy là: Cho
học sinh cảm nhận được vẻ đẹp sinh động, sáng của bức tranh thiê nhiên và đời
sống con người ở vùng đoả Cô Tô được miêu tả trong bài văn.
-Thấy được nghệ thụât miêu tả và tài năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện
của tác giả.
Theo tôi vê mục tiêu bài học, cần lưu ý thêm hai vấn đề nữa:
+ Đây là vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của con gnười Cô
Tô sau bão.
+ Qua văn bản, cho học sinh hiểu thế nào là ký; Tích hợp thêm với miêu tả
(Tập làm văn).
II. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý THÊM VỀ NỘI DUNG CẦN KHAI THÁC:
1. Từ mục tiêu trên đây tôi thấy cần phải bổ sung thêm về một số nội dung
cần khai thác như sau:
- Nhìn chung ở các tài liệu tham khảo và sách giáo viên như đã nói ở trên

tôi thấy hầu hết đã xác định đúng trọng tâm của bài ký, làm rõ được các vấn đề:
- Về nội dung:
+ Cảnh Cô Tô trong sáng, tinh khôi sau trận bão.
+ Cảnh mặt trời mọc tuyệt đẹp rực rỡ tráng lệ.
+ Cảnh sinh hoạt vừa khẩn trương, tấp nập, vừa thanh bình.
- Về nghệ thuật:
+ Thấy được tài năng qua sát, miêu tả.
+ Ngôn ngữ chính xác, điêu luyện, tinh tế độc đáo của tác giả.
Từ đó thấy được tình yêu, sự gắn bó của tác giả với một vùng biển đảo của Tổ
quốc.
5


* Tuy nhiên theo tôi, ở bài ký này, ngoài những nội dung trên, chúng tacòn
phải lưu ý dẫn dắt học sinh vấn đề sau: toàn bộ bức tranh thiên nhiên và sinh hoạt
cảu con người ở trên được quan sát và miêu tả, cảm nhận vào một thời điểm đặc
biệt: Sau cơn bão.
Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát, tàn
phá của nó. Riêng ở bài ký này, qua các cảm nhận của nhà văn ta không nhận
thấy điều đó; Thậm chí cảnh vật lại hiện lên như mang một sắc thái mới, tinh
khôi, quang đãng như vừa được gột rửa, thay áo mới; cảnh vật bừng lên trong
những nét đẹp đầy sức sống, như một cuộc hồi sinh kỳ diệu. Nếu chú ý đọc kỹ
tác phảm ta sẽ thấy rất nhiều câu văn, hình ảnh, tác giả đã nhấn mạnh vào thời
khắc sau bão. Ví dụ " Sau mỗi lần giông bão bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong
sáng như vậy..." và một loạt hình ảnh minh hoạ cho điều đó.
" Cây lại thêm xanh mượt
Nước lại lam biếc đậm đà hơn
Cát lại vàng giòn hơn nữa...
Lưới càng thêm nặng..."
Một loạt phụ từ được sử dụng: "Lại"( 3 lần), "Càng" (1 lần) để diễn tả ý

nghĩa tiếp diễn tăng tiến: Cảnh vật như ta thấy quả thật là đẹp hơn, đậm sắc hơn
nhiều khi bão vừa đi qua, cứ như là một phép màu nhiệm.
+ ở bức tranh thứ hai: Cảnh mặt trời lên ta cũng nhận thấy điều này: Mặt
trời bừng lên trong một không gian thật mới lạ"Sau trận bão, chân trời ngấn bể
sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi..." Dường như khi trận bão đi qua giông tố
phũ phàng mới đủ sức gột rửa để " lau" đi hết "mây, bụi" cho nên trở nên trong
veo" như một tấm kính": làm nền cho vầng thái dương xuất hiện. Phải chăng vì
thế mà "quả trứng thiên nhiên" ấy càng "hồng hào", "thăm thẳm", "đường bệ"
chẳng khác gì một "mâm lễ phẩm" tiến ra từ trong bình minh.

6


Bên cạnh vẻ đẹp tráng lệ của mặt trời tác giả còn điểm xuyết một số nét vẽ
cso vẻ bâng quơ nhưng theo tôi thật tài hoa và tinh tế. Đó là hình ảnh "Vài chiếc
nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể...", "Một con hải âu bay ngang là là
nhịp cánh..."
Mùa thu - mùa của bão tố, vậy àm lúc này đây - mặt bỉen thật quá đỗi bình
yên. "Chiếc nạhn" - hình ảnh mỏng manh như một chiếc lá và phải nìn từ xa. Còn
"Một con hải au" lại nhìn từ một góc độ rất gần, nên rất rõ. Một: là chiếc nahn
mùa thu; một nữa là hải âu - là dấu hiệu của điềm lành ( vì hải âu vốn báo hiệu
sự bình yên). Chúng xuất hiện trong những động tác " chao đi chhao lại", "là là
nhịp cánh" gợi cảnh tượng bình yên biết bao; làm cho bức tranh biển ấy vừa tĩnh
lại vừa động. Những nét vẽ mỏng manh, thanh tú ấy như một dấu hiệu để khẳng
định: Cảnh vật nơi đây dường như chưa từng đi qua bão tố, đã thật sự bình yên.
+Ở bức tranh sinh hoạt là nhộn nhịp của cảnh gánh nước, chuẩn bị cho
những chuyến ra khơi. Điểm nhìn của tác giả là từ cái giếng nước ngọt - sự sinh
hoạt hội tụ ở đây. Tác giả đã tả " Cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến, đạm
đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền..."
Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh rất độc đáo" Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài

cái lá cam, lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào..." Hình ảnh thật sống động và
thật là thú vị; sách bình giảng văn 6 đã viết:" Hình ảnh này để thừa nhận đây là
một cái giếng có thực chứ không phải trong cổ tích..." Theo tôi hình ảnh này còn
có một ý nghĩa nữa: Cái lá cam lá quýt ấy có vẻ như một nét tả bình thường
nhưng lại đầy dụng ý của tác giả: Nhờ có nó - phải có nó - những chiếc lá ấymới là bằng chứng để minh chứng cho trận bão vừa đi qua. Còn nếu không, cuộc
sống nơi đây diễn ra thanh bình, khẩn trương nhộn nhịp, hối hả, dường như
không hề có dấu tích của bão tố. Sự sinh hoạt mau chóng hồi sinh ấy muốn nói
với chúng ta điều gì? Dấu vết của bão tố còn đó mà người dân đảo như đã quên
hẳn nó, nhịp sống lại mau chóng hồi sinh- phải chăng là một cánh rất khéo đẻ tác
7


giả khẳng định sức sống, sự lao động hăng say trong công cuộc xây dựng XHCN
những năm 70 của người dân biển đảo Cô Tô. Mặt khác để khẳng định sức sống
của chính họ - đã từng quen với boã tố thieen nhiên, bão tố cuộc đời - điềm tĩnh
và bình thản trước nó. Điều này rất thật, rất hay và cũng giàu ý nghĩa. Đây là
những gì mà Nguyễn Tuân muốn ca ngợi khi tới vùng đất phía Đông Bắc của Tổ
quốc này để thực tế và sáng tác. Ta càng thấy rõ sức sống của quần đảo này một sự trân trọng và trìu mến của tác giả dành cho cảnh và người nơi đây.
- Một hình ảnh nữa cũng cần chú ý ở đây là cảnh" Chị Châu Hoà Mãn địu
con, thấy nó dịu dàng, yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm ccá cho
lũ con lành...". Biển cả trong cảm nhận của nhà văn thật bao dung, hiền hậu,
không ai nghĩ rằng nó vừa trỉa qua giông tố, thịnh nộ. Lúc này đây biển thật hiền
sau cơn bão, như lòng mẹ ấp ủ cho con vậy, hình ảnh thật cụ thể mà sáng tạo.
Tát cả những chi tiết trên theo tôi nhà văn đã có dụng ý miêu tả để người đọc
cảm nhận sự hồi sinh kỳ diệu của thiên nhiên và con người sau cơn bão chsư
không phải là một thời điểm nào khác. Khẳng định sức sống của con gnười và
cuộc sống nơi đây cũng là một cách để ngợi ca công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở Miền Bắc những năm 70; bởi vậy, những trang ký rất thực , kể tả chuyện
mà thật vô cùng lý thú và lôi cuốn người đọc.
2. Một điều nữa theo tôi cũng cần lưu ý là cho học sinh nhận rõ thể loại

của văn bản. Nếu không các em sẽ không phân biệt được đây là bài ký hay là bài
văn miêu tả, nhất lại là bài mở đầu cho thể loại này.
Muốn vậy, người dạy phải lưu tâm những chi tiết sau:
- "Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô..."
- "... Ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân..."
- Anh hùng Châu Hoà Mãn; HTX Bắc Loan Đầu; Những địa danh: Vịnh
Bắc Bộ, Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam...

8


Những tên gọi,cách chỉ thời gian, không gian này là cso tính xác thực.
Giáo viên có thể dẫn dắt học sinh để các em hiểu: Cái đẹp ấy vốn có trong cuộc
sống nhưng hoàn hảo hơn qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhà văn, từ đó để
khái quát nên cái tài, cái tâm của tác giả.
Từ những suy nghĩ của bản thân như trên, tôi đã soạn một giáo án hoàn
chính như sau:
III. GIÁO ÁN:
Tiết 103-104: CÔ TÔ
Nguyễn Tuân.
A. Mục tiêu cần đạt: Giúp Học sinh cảm nhận được:
- Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống con người của vùng biển đảo Cô
Tô khi cơn bão vừa đi qua.
- Thấy được nghệ thuật viết ký tài hoa của Nguyễn Tuân và khả năng điêu luyện
trong việc sử dụng ngôn ngữ.
- Tích hợp với Tiếng Việt và Tập làm văn( miêu tả).
B. Các hoạt động dạy và học.
* Bài cũ:
* Bài mới: Giới thiệu bài.
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả: * Nhà văn nổi tiếng:
Em biết gì về nhà văn Nguyễn Tuân?

- Có sở trường về thể ký.
- Sự nghiệp sáng tác: phong phú, nhiều
thể loại, đóng góp lớn cho văn học dân
tộc, đã từng nhận giải thưởng văn học.
* Phong cách: Độc đáo, tài hoa, bậc
thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ.
2. Tác phẩm: Mở đầu cho cụm bài ký.
9


Em hãy nêu đặc điểm của thể ký?
GV cung cấp đặc điểm của thể ký.

- Vị trí đoạn trích: Nằm cuối tác phẩm
cùng tên: Cô Tô.
- Nội dung: học sinh trả lời.
II. Đọc - tìm hiểu văn bản.

GV hướng dẫn cách đọc.

1. Đọc.
2. Chú thích: GV và học sinh.
3. Phương thức biểu đạt:

Đoạn ký sử dụng những phương thức - Miêu tả kết hợp biểu cảm, tự sự.
nào?


4. Bố cục:

Bức tranh Cô Tô được tác giả miêu tả
qua những cảnh nào? Đoạn văn nào?

Toàn cảnh Cô Tô

Cảnh sinh hoạt con người từ đâu đến Cô Tô

Cảnh mặt trời mọc.

đâu?

Cảnh sinh hoạt của con

GV đinh hướng cách tìm hiểu văn bản

người.

qua bố cục trên.
III. Tìm hiểu văn bản.
1. Bức tranh toàn cảnh Cô Tô.
Bức tranh thiên nhiên Cô Tô được tác - Thời gian: + Ngày thứ năm trên đảo
giả ghi lại vào thời điểm nào?

=> Một thời điểm cụ thể chính xác đó

(GV gạch đậm chitiết này trên bảng).

là đặc điểm của thể ký.

+ Cô Tô sau cơn bão (đây cũng là một
chi tiết được gạch chân).

Vào thời điểm đó Cô Tô có gì đặc biệt?
GV: Đây là một khoảnh khắc bình yên
khi cơn bão đã đi qua. tại sao tác giả
lại chọn thời điểm này dể tả vê thiên
10


nhiên Cô Tô, qua phần tìm hiểu tiếp
theo ta sẽ lý giải.
Bức tranh toàn cảnh Cô Tô được quan - Đứng trên nóc đồn.
sát từ điểm nhìn nào, điểm nhìn ấy có
ưu thế gì?

(GV tích hợp với văn miêu tả về vị trí
quan sát).

Ấn tượng chung về Cô Tô là gì? Từ - HS trả lời.
cảm nhận chung đó, tác giả đã miêu tả Bầu trời...
Cô Tô như thế nào, qua những từ ngữ, - Cảnh sắc: Cây lại thêm xanh mượt...
hình ảnh cụ thể nào?

Nước biểm lại lam biếc...
Cát lại vàng giòn...
Lưới càng thêm nặng...

Em nào có nhận xét gì về cách dùng từ, - Nghệ thuật:
lựa chọn chi tiết của tác giả?


+ Chọn chi tiết tiêu biểu, đặc trưng chu
vùng biển đảo.
+ Nhiều phụ từ: Lại, càng chỉ mức độ
tăng tiến của cảnh vật.

Từ ngữ, hình ảnh có gì độc đáo?

+ Sử dụng tính từ: Tính từ chỉ màu sắc
và ánh sáng ở mức độ tuyệt đối giàu

GV giúp HS hình dung và tái hiện các sức gợi.
màu sắc của cảnh vật: xanh mượt, lam
biếc, vàng giòn,,, Cộng với các phụ từ
trên, ta thấy Cô Tô đã đẹp nhưng giờ
đây - sau cơn bão - nó lại hồi sinh
nhanh chóng trong một sức sống mãnh
liệt (GV chú ý gạch đậm những ý này
cho HS dễ quan sát).
11


Tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ - Ẩn dụ.
nào nữa, có gì độc đáo trong cách sử - vàng giòn: Ẩn dụ chuyển đổi cảm
dụng ấy?

giác. Cảm nhận đưcợ sắc vàng - khô
đến độ giòn của cát - một màu sắc ấm
nóng và khoẻ khoắn.


Vậy qua cảnh sắc này em hình dung

Trong sáng tinh khôi.

được cảnh Cô Tô sau cơn bão như thế - Vẻ đẹp:

Sức sống mãnh liệt

nào?

Sự hồi sinh kỳ diệu.

Từ bức tranh này chắc em đã hiểu vì - Thời khắc mà những sắc màu thiên
sao tác giả lại chọn tả Cô Tô sau cơn nhiên thể hiện rõ nhất, ấn tượng nhất,
bão?

ngòi bút tài hoa của tác giả bộc lộ rõ
nhất.

Hết tiết 1 chuyển tiết 2.
GV chuyển.
2. Cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô.
Gọi HS đọc đoạn văn tiếp theo từ "
Ngày thứ 6..."
Là thể ký nên thời gan, không gian rất - Ngày thứ 6.
cụ thể, điều đó thể hiện ở câu văn nào?

Trên đảo Thanh Luân.

Tác giả quan sát sự vật từ điểm nhìn - Từ Mũi đảo Cô Tô ( trên những hòn

nào?

đá đầu sư)

Có bạn cho rằng: Cơn bão đi qua như
một bàn tay khổng lồ lau hết mây bụi
làm cho chân trời, ngấn bể thật tinh
khôi, làm nên cho cảnh sắc mặt trời lên
đã gây một hứng thú đặc biệt cho nhà
văn. Từ ngữ nào gợi cho em điều đó?

- Từ "Rình".
12


Tại sao tác giả không dùng từ "ngắm", - "Rình" cũng là ngắm nhìn nhưng bằng
"trông", "đợi"?

tất cả sự trông đợi, thích thú, nóng
lòng, hồi hộp xen lẫn sự tò mò như
muốn khám phá những diều bí mật của
thiên nhiên còn ẩn chứa cất giấu ở cuối
chân trời.

Điều bí mật ấy được khám phá như thế - Trình tự thời gian: (trước , trong và
nào?(trình tự)

sau khi mặt trời lên)
- Mặt trời: Nhú lên dần dần...
Tròn trĩnh phúc hậu.

Y như một mâm lễ phẩm.

Từ loại nào được sử dụng nhiều ở đây?

-Tính từ miêu tả.

Kết hợp với những biện pháp tu từ nào? - So sánh, ẩn dụ, từ láy.
Tác dụng của những biện pháp tu từ?

- HS phân tích.

+ Hình ảnh mặt trời "nhú lên" rồi lên cho kỳ hết...cho người đọc cảm nhận
được bước đi chầm chậm của thời gian trong sự nín thở hồi hộp cuat tác giả...
+ Tính từ " tròn trĩnh", phúc hậu được danh từ hoá làm chủ ngữ đầu câu
nhấn mạnh đưcợ dnág vẻ, thần thái của mặt trời. Đặc biệt: bằng phép so ánh đã
kéo hai sự vật: một là kỳ vĩ to lớn và một là gần gũi thân thiết ( mặt trời - lòng đỏ
quả trứng...) xích lại gần nhau.
+ Gọi mặt trời là "mâm lễ phẩm", tác giả còn lamg nổi bật được vẻ trang
trọng, uy nghi và thiêng liêng của vầng thái dương nổi bật trên cái mâm bạc
khổng lồ. Bằng những tính từ miêu tả, từ ngữ chắt lọc, đoạn văn cho ta hình dung
được vẻ đẹp của mặt trời vừa tráng lệ, kỳ vĩ vừa gần gũi, thân thuộc.
Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh này để Vì: - Đây là một hình ảnh tự nhiên đẹp.
đặc tả?

- Là biểu tượng sức sống của đảo sau
ngày dông bão.
13


- Còn là ánh sáng, hơi ấm trào dâng của

vũ trụ mà thên nhiên ban tặng cho con
người. Một sự ban tặng đậy vị tha, nhân
hậu ( GV gạch chân nhấn mạnh cả ba ý
đặc biệt là ý thứ hai).
Vậy em cso thích hình ảnh "Vài chiếc - HS tự cảm nhận.
nhạn... cánh" không? Vì sao?
GV: Đây là nét tả rất tài hoa "vài chiếc
nạhn" hình ảnh được nhìn từ xa - mỏng
manh như một chiếc lá. Còn " Một con
hải âu" - nhìn gần, cụ thể, thấy rõ.
Hải âu vốn là dấu hiệu điềm lành, sự - Cùng với mặt trời, nó báo hiệu một
xuất hiện của nó báo hiệu điều gì?

ngày mới rất đẹp và bình yên sau
những gì bão tố. cánh nhạn và hải âu
tạo cho bức tranh thiên nhiên vừa tĩnh
vừa động.

Vậy theo em, cảnh bình minh có đẹp - HS tự đưa ra ý kiến.
không? Là thực hay đẹp hơn cảnh
thực?
GV: Cảnh rất độc đáo và đẹp hơn cảnh
thực bởi tác giả đã viết về cái thực
nhưng bàng cả tài năng và sự say mê
háo hức lạ thường, nên cảnh thực ấy đã
đẹp hơn nhiều lần bởi được chắt lọc
qua tam hồn tác giả.
GV chuyển: cảnh vật ấy thật rực rỡ
tráng lệ và bình yên, sau những ngay
14



giông bão ấy thì cuộc sống có trở lại
bình thường không, các em hãy chú ý
đoạn văn thứ ba.
3. Cảnh buổi sáng trên đảo Thanh
Gọi Hs đọc bài.

Luân.

Ở phần ba, tác giả khắc hoạ những - Cái giếng nước ngọt
cảnh chính nào?
Hãy tìm từ ngữ miêu tả?

Cảnh gánh nước
Không biết bao nhiêu người...
Nước cho vào thùng...
Nước cho vào ang và cong

Em thấy cảnh sinh hoạt nơi đây diễn ra - Rôn ràng, tấp nập...
thế nào?
Tại sao tác giả lại ví: cái sinh hoạt vui - HS tự trả lời.
như một cái bến..."cái chợ"?
GV bình: Cái giếng nước ngọt là kinh hồn của đảo. Thứ quý giá nhất của
người dân biển đảo. Nó có cái mát của bến, cái vui của chợ - nơi trong lánh, ấm
áp, rộn rầng. Nơi gặp gỡ của những buồn vui trong cuộc sống. Đó làvẻ đẹp độc
đáo mà chỉ riêng ở đảo mới có.
Trong bức tranh sinh hoạt ấy tác giả - Tạo sự chân thực: Con gnười cso tên
khắc hạo hình ảnh anh Châu Hoà Mãn tuổi làm cho sự chân thực của ký rõ
có dụng ý gì?


hơn. Còn hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp
lấp lánh của người dân chài yêu công
việc, tiêu biểu cho người lao động mới
những năm 70 của đất nước.

Có một hình ảnh rất độc đáo " vài cái lá - HS tự thảo luận.
cam lá quýt" có bạn cho là thừa, có bạn
lại nói là có dụng ý nghệ thuật, ý kiến
15


của em ?
GV bình: Là dấu hiệu để chứng minh cho trận bão vừa đi qua, không có nó
người ta không hình dung nổi: Cô Tô vừa qua một cơn giông tố. Vì sao vậy, vì
cuộc sống nơi đây vẫn diễn ra một cách bình yên, rộn ràng ấm áp mhư không có
gài bất thường xẩy ra; phải chăng tác giả muốn khẳng định: Người dân Cô Tô đã
quen sống với bao sóng to gió lớn; bào tố thiên nhiên, bão tố cuộc đời không làm
cho cuộc sống bị xáo trộn, họ luôn bình thản trước cuộc sống.
Vậy bằng những nét chấm phá vừa cụ - Vất vả, khó nhọc, nhưng khẩn trương
thể vừa sinh động Nguyễn Tuân đã cho phấn chấn, nhiệt tình yêu công việc.
em hiểu gì về cuộc sống nơi đây?
Theo em: tại sao hình ảnh chị Châu - HS tự trả lời.
Hoà Mãn địu con lại gợi được hình ảnh
"mẹ hiền...con lành"?

GV: Vì Mộc mạc, khoẻ khoắn. Gợi sự bình yên. GV tích hợp với câu thơ:
" Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta từ thưở nào"
Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận.

Đó là một cử chỉ dịu dàng, yên tâm bởi biểnn cả bao dung nhưng cũng là nỗi sợ
hãi của con người, bởi sự hung dữ của nó mỗi khi giồn tố nổi lên. Còn ở đây "
Biển cả là mẹ hiền", sau những ngày giông bão. Phải chăng đây còn là hình ảnh
cuộc sống mới XHCN đang ùa đến trên đảo mà nhà văn muốn khẳng định. Đây
mới thực sự là sức sống của đảo ( thiên nhiên - con người).GV gạch đậm những
chi tiết này cho HS hình dung rõ.
Trong bài ký rất nhiều lần tác giả kể, tả - Người viết có mặt khắp nơi.
ngôi thứ nhất, chứng tỏ điều gì?

- Kể, ghi chép những điều ti gne mắt
thấy.
16


Cũng là đặc trưng của ký.GV gạch
chân chi tiết này.
Vậy qua cả 3 phần của bài ký, em cảm - HS tự khái quát.
nhận được tình cảm của tác giả như thế
nào?
GV: coi biển cả như nơi chôn rau cắt
rốn; khám phá được những điều mới lạ;
yêu thêm con người,cuộc sống ở đảo.
tại sao SGK phần luyện tập yêu cầu ta - Vì sử dụng bút pháp miêu tả rất thành
đọc thuộc lòng đoạn" Mặt trời...nhịp công (tích hợp với phần Tập làm văn cảnh"?

Miêu tả).
IV. Tổng kết:

Bài ký rất độc đáo ở nghệ thuật miêu tả - Ngôn ngữ, hình ảnh điêu luyện, gợi
thế nào?


tả.
- So sánh bất ngờ, táo bạo.

Em cảm nhận được gì về nội dung?

* Thiên nhiên đẹp, đầy sức sống. Cuộc
sống sinh hoạt bình yên rộn ràng =>
Tất cả trỗi dậy một cách mãnh liệt tràn
đầy sức sốgn, bình thản trước giông tố (
hình ảnh của cuộc sống và xây dựng
mới XHCN những năm 70 của đất
nước...)

Goi HS đọc ghi nhớ.
V. Luyện tập:
- Làm 2 bài tập SGK.
- Phát phiếu học tập.

17


IV.KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
- Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên đây vào bài giảng, tôi nhận
thấy học sinh cả hia lớp rất ham thích khám phá tác phẩm: Đặc biệt là đã toạ ra
được những tình huống có vấn đề để học sinh trao đổi, thảo luận.
- Bởi vậy: Giờ học sôi nổi hơn. Số học sinh tham gia thảo luận nhiều hơn
hẳn (2/3 số học sinh muốn xây dựng bài cho một lần thảo luận). Có nhiều ý kiến
hay - không còn hiện tượng học sinh lơ đãng hoặc nói chuyện riêng như trước.
Học sinh thích thú vì tự tìm ra được vấn đề mà không lệ thuộc vào các tài liệu

như trước. Nhờ đó mà kích thích được sự chủ động sáng tạo của học sinh.
sau một thời gian dài (đến ôn tập cuối năm), kiểm tra lại các em vẫn có ấn tượng
sâu đậm về tác phẩm. Và đặc biệt, cách khai thác này cũng đã được đồng nghiệp
ủng hộ và đồng tình.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Từ kết quả bài dạy, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Giáo viên phải thực sự hiểu sâu sắc tác phẩm được dạy.
- Phải thực sự tìm tòi nghiên cứu để tìm ra phương pháp thích hợp nhất
trên nguyên tắc học sinh là chủ thể cảm thụ, giáo viên là người định hướng tạo
điều kiện cho các em cảm thụ cái đẹp của văn chương.
- Phải tìm ra được những vấn đề mấu chốt, những tình huống quan trọng,
để các em thảo luận dân chủ và tự đánh giá tổng kết.
- Cần phải nghiên cứu tài liệu nhưng không ỷ lại, cóp nhặt máy móc mà
cần sáng toạ, phát hiện có những điểm riêng cần phải nhấn mạnh.
- Cần phải đặt câu hỏi cho mình: Với tác phẩm này nhà văn muốn đặt ra
vấn đề gì, cần chú ý một vài nốt nhấn được điểm xuyết trong bức tranh của tác
phẩm.
Với bài Cô Tô cần:

18


+ Cho HS đọc kỹ tác phẩm nếu cần phải học thuộc lòng những đoạn miêu
tả đặc sắc.
+ Cho học sinh thoả luận ở những hình ảnh chi tiết đặc sắc: Hình ảnh vài
chiếc nạhn, con hải âu, vài cái lá cam, lá quýt còn sót laị dưới lòng giếng. Đặc
biệt là hình ảnh mặt trời lên.
+ Kết quả cuối cùng phải đạt là học sinh cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên
rất tinh khôi, tráng lệ, sự sinh hoạt rộn ràng tấp nập bình yên vào một thời điểm
độc đáo: khi bão vừa đi qua; thấy được tính chân thực của những trang ký.

+ Đồ dùng học tập nên có chân dung và những bút danh đầy hóm hỉnh của
Nguyễn Tuân; có bảng phụ ghi những chi tiết đặc săc cho học sinh khắc sâu hơn
kiến thức.
C. LỜI KẾT LUẬN:
Trên đây là một số phương pháp và kết quả cùng những bài học kinh
nghiệm mà tôi rút ra từ các giờ học về tác phẩm Cô Tô của Nguyễn Tuân. Những
biện pháp đã được áp dụng trong bài dạy tôi thấy đạt kết quả như mình mong
muốn, vậy tôi cũng xin mạnh dạn trình bày. Tuy nhiên, chắc chắn phương pháp
ấy là tốt với tôi nhưng chưa hẳn đã tốt với người khác, vì vậy tôi mong được sự
trao đổi chân tình và nghiêm khắc của đồng nghiệp.
Vinh , ngày 19 tháng 3 năm 2008

19



×