Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

CÔNG NGHIỆP HÓA THAY THẾ NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.34 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA THAY THẾ NHẬP
KHẨU Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ
VIỆT NAM


MỤC LỤC


I. CÁC KHÁI NIỆM (MỞ ĐẦU)
1. Công nghiệp hóa :
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiến bộ , hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội
cao.
Tại sao lại phải ưu tiên công nghiệp hóa?
Do trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang tính chất tự nhiên
sang một nền kinh tế thị trường có nghĩa là trong quá trình thực hiện việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ sang một nền kinh tế
sản xuất lớn ngày càng hiện đại. Một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơ
cấu cơ sở hạ tầng và những công cụ lao động ngày càng tiến bộ. Để tạo lập ra
những cơ sở vật chất kỹ thuật đó thì theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mọi
quốc gia đều phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ
nước ta với các nước trong khu vực và thế giới.
Do yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của CNXH.




-

-

2. Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu:
Là một đường lối công nghiệp hóa theo đó quốc gia tiến hành công nghiệp hóa
nỗ lực thành lập và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp trong nước để sản xuất ra
các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảo
hộ với những ngành công nghiệp trong nước bằng cách dựng lên các hang rào mậu
dịch chống lại hàng nhập khẩu và bằng các khoản trợ cấp.


II. CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HÓA THAY
THẾ HÀNG NHẬP KHẨU
Các quốc gia khi giàu lên đều tăng tỉ trọng công nghiệp và giảm tỉ trọng nông
nghiệp. Vấn đề là tìm con đường tốt nhất để xây dựng một khu vực công nghiệp có
thể tự mình tăng trưởng bền vững? Có hai chiến lược. Thứ nhất là bảo hộ bằng
thuế quan, hạn ngạch và thứ hai là cấm nhập khẩu. Ý tưởng ở đây là nâng giá sản
phẩm để các doanh nghiệp nội địa có thể học cách trở nên hiệu quả. Về nguyên tắc,
bảo hộ sẽ phải giảm dần để người tiêu dùng các sản phẩm này không mãi mãi phải
chịu giá cao. Thực ra, khi một ngành đã quen được bảo hộ thì sẽ rất khó chuyển
sang cuộc sống không có nó. Một công ty được bảo hộ đạt lợi nhuận cao bằng cách
thuyết phục các quan chức chính phủ hay chính trị gia rằng công ty phải được bảo
hộ hơn nữa, trong khi chẳng dành nhiều nỗ lực để giảm giá thành hay cải thiện sản
phẩm. Đôi khi một chính phủ mạnh tay và buộc doanh nghiệp phải trở nên cạnh
tranh, nhưng điều này rất hiếm. Thông thường, một khi công nghiệp hóa bắt đầu
với giá thành cao thì sẽ tiếp tục như vậy.
Năm 1971, ALin Coln nói: ” Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhưng tôi biết rất

rõ khi tôi mua một cái áo ở nước Anh, tôi có áo và nước Anh có tiền. Khi tôi mua
một cái áo ở Mĩ thì tôi có áo và nước Mĩ có tiền”. Có thể thấy ở đây một sự chú
trọng vào thị trường nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại là
nhiệm vụ trung tâm của chiến lược thay thế nhập khẩu.
1. Khái niệm
Là một đường lối công nghiệp hóa theo đó quốc gia tiến hành công nghiệp hóa nỗ
lực thành lập và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp trong nước để sản xuất ra các
sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảo hộ
với những ngành công nghiệp trong nước bằng cách dựng lên các hàng rào mậu
dịch chống lại hàng nhập khẩu và bằng các khoản trợ cấp.




Chiến lược này đã được thực hiện thành công ở các nước Mỹ Latinh và
Đông Á vào thập niên 1960 và nửa đầu 1970 (g=3%).
Sau cú shock dầu lửa thứ hai (1973) cá nước Mỹ Latinh vẫn tiếp tục thực thi
chiến lược này, còn các nước Đông Á đã có sự chuyển hướng trong chiến
lược TMQT của mình.

2. Mục tiêu :
Đặt trọng tâm phát triển công nghiệp để thay thế những hàng hóa nhập khẩu.
Chiến lược này nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, dùng các hàng rào thuế quan để
nâng đỡ các ngành sản xuất non trẻ trong nước.
3. Cơ sở lý thuyết :
-

Lợi thế theo qui mô
Bi quan xuất khấu


4. Phương pháp luận của chiến lược thay thế nhập khẩu :


Trước hết cố gắng tự sản xuất để đáp ứng đại bộ phận nhu cầu về hàng hóa và
dịch vụ cho thị trường nội địa. Đảm bảo cho các nhà sản xuất trong nước có thể
làm chủ được kỹ thuật sản xuất hoặc các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp công
nghệ vốn và quản lý hướng vào việc cung cấp cho thị trường nội địa là chính.



Cuối cùng lập hàng rào bảo hộ để hỗ trợ cho sản xuất trong nước có lãi, khuyến
khích các nhà đầu tư trong những ngành công nghiệp là mục tiêu phát triển.

5. Các biện pháp thực hiện thay thế nhập khẩu
Thường là thuế quan bảo hộ, hạn ngạch nhập khẩu và tỷ giá cao quá mức.
Ví dụ: Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của chính sách bảo hộ áp dụng trong
ngành công nghiệp ôtô tại Việt Nam là hàng rào hải quan chống lại ôtô nhập khẩu:
Trước tháng 1/1999, ôtô nhập khẩu bị đánh thuế 155% (55% là thuế nhập khẩu,
100% là thuế tiêu thụ đặc biệt); sau thời gian này thì bị cấm nhập; năm 2004 thì


chịu thuế đến 180% (chưa kể thuế giá trị gia tăng). Năm 2010, đối với xe ô tô dưới
9 chỗ ngồi, cụ thể: xe chạy xăng, trên 2500 cc là 80%; xe ô tô 4 bánh 2 cầu chủ
động là 77%, các loại xe chạy xăng dưới 2500 cc và chạy diesel giữ nguyên mức
hiện hành của năm 2009 là 83% .


Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:


Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng
thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.
Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng
phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các
chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách
nông nghiệp chung của họ.
Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể
cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.

6. Lợi thế và hạn chế của chính sách Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu
a) Lợi thế :
• Thoát khỏi vị thế làm nước cung cấp nguyên liệu, nông sản: giả thuyết
Prebisch-Singer đề cập tới hiệu ứng giá cánh kéo theo đó giá hàng nông sản
và nguyên vật liệu ngày càng rẻ và giá hàng chế tạo ngày càng đắt tương
đối.








b)















Học tập thông qua thực tiễn: gây dựng kinh nghiệm kinh doanh cho doanh
nghiệp trong nước thông qua môi trường cạnh tranh không quá khắc nghiệt
khi không có hàng nhập khẩu.
Sự cần thiết phải đạt được tính kinh tế nhờ quy mô: tính kinh tế nhờ quy mô
được cho là cần thiết cho phát triển doanh nghiệp trong thời kỳ công nghiệp
hóa. Dành thị trường trong nước chỉ cho doanh nghiệp trong nước được tin
rằng sẽ giúp đạt được tính kinh tế nhờ quy mô.
Các mối liên kết liên ngành: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển có thể
tạo cơ hội cho các ngành khác cung cấp đầu vào cho chúng hay sử dụng đầu
ra của chúng phát triển theo.
Hạn chế :
Mất cân đối trong cơ cấu ngành: những ngành thay thế nhập khẩu được bảo
hộ và hỗ trợ nên phát triển mạnh trong khi những ngành khác thì lại có thể
không có cơ hội phát triển.
Thâm hụt cán cân thanh toán: các ngành thay thế nhập khẩu phát triển đã
kéo theo nhu cầu nhập khẩu máy móc và nguyên liệu đầu vào tăng lên,
nhưng ngoại tệ lại chỉ có thể kiếm được thông qua xuất khẩu (mà nhiều khi
khu vực này lại không phát triển). Để giải quyết khó khăn về ngoại tệ, quốc
gia có thể phải đi vay nước ngoài, dẫn tới vấn đề nợ nước ngoài (một dạng
phụ thuộc kinh tế khác).
Quá nhiều loại hình tổ chức mua bán và thương nhân nhỏ lẻ làm thị trường

manh mún, lợi ích người tiêu dùng không được tôn trọng.
Sai lầm của các doanh nghiệp khi cho rằng người tiêu dùng chuộng hàng
ngoại, các họ cần là chất lượng và dịch vụ chăm sóc khách hàng chứ không
phải là nhãn mác
Trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu,vốn đầu tư trong nước còn thấp
Việc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bị buông lỏng
Chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng và thu nhập giữa tầng lớp
dân cư có chiều hướng ngày càng mở rộng
Phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý,đất nước nghèo nhưng còn tiêu
dùng quá khả năng làm ra ,chưa dồn sức vào đầu tư phát triển.
Cần đất nước có quy mô dân số đông, sức tiêu thụ lớn
Triệt tiêu động lực cạnh tranh của doanh nghiệp do có sự bảo hộ từ nhà
nước.




Tệ nạn phát sinh từ việc thực hiên không nghiêm túc của các đối tượng chịu
thuế như trốn thuế, đút lót => gây thất thu cho nhà nước, người dân mất lòng
tin vào chính phủ.

III. THỰC TIỄN VỀ CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP
HÓA THAY THẾ HÀNG NHẬP KHẨU Ở CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM
1. Các nước đang phát triển
a) Thực trạng về chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu ở
một số nước đang phát triển
Chiến lược công nghiệp hoá theo hướng sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu
đã được hầu hết các nước công nghiệp phát triển hiện nay theo đuổi trong thế kỷ

XIX. Trong các nước đang phát triển, chiến lược thay thế hàng nhập được thử
nghiệm đầu tiên ở các nước Mỹ Latinh. Một số nước châu Á như Ấn Độ và Thổ
Nhĩ Kỳ cũng đã thực hiện chiến lược này trên con đường công nghiệp hóa từ trước
Chiến tranh thế giới lần 2. Ở hầu hết các nước châu Á và Châu Phi, mong muốn
nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế độc lập và đó là lý do chính khiến các nước
đi vào con đường phát triển thay thế nhập khẩu. Trong những năm 60 thay thế
nhập khẩu đã trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo.
Về cơ bản chiến lược này được áp dụng trong giai đoạn đầu với khoảng thời
gian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.
- Đối với Hàn Quốc việc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên tạo điều kiện
tăng dần dung lượng thị trường nội địa nhất là đẩy mạnh các ngành công
nghiệp nhẹ có khả năng sử dụng nhiều sức lao động nhưng cần ít vốn như
các ngành : dệt, may mặc, chế biến...
- Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến lược phát triển nông nghiệp gắn
với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu


cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn
này Đài Loan cũng đã thấy được khuyết điểm của chiến lược mà họ đang sử
dụng đó là thị trường trong nước có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăng
trưởng chậm lại .
- Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 của Malaixia thể hiện rõ đường lối phát
triển kinh tế là thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu để khẳng của Malaixia
trong buôn bán cũng như trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ này
Malaxyia chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt là
sản xuất nông nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây mà
Malayxia đã phải nhập khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 19661970 Malayxia tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu nhưng lại không lấy
cây lúa làm trọng tâm mà lại phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sản
phẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả của việc thực hiện chiến lược này Malayxia
không những đảm bảo cơ bản về nhu cầu lương thực mà còn tiết kiệm được

ngoại tệ làm tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.
- Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầu đã có một cơ sở kinh tế khá
vững vàng do Mỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dương. Cộng
với vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan bước vào chiến lược thay thế nhập khẩu
với mục tiêu chính là đẩy mạnh phát triển công nghiệp và những ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nước. Nếu
như Malayxia có chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây công
nghiệp : cọ dừa, cà phê, ca cao... thì Thái Lan lại tập trung vào phát triển cây
lương thực, áp dụng những chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nông
sản và những sản phẩm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả là
Thái Lan luôn là một nước xuất khẩu lương thực lớn ra thị trường thế giới,
đồng thời giải quyết được vấn đề việc làm cho xã hội góp phần ổn định đất
nước.
Tóm lại, việc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs cũng như
các tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu các nước đều khắc phục được vấn đề
lương thực và giải quyết được việc làm cho xã hội .
Ngay từ nhận định ban đầu, chiến lược thay thế nhập khẩu chỉ phát huy trong
thời gian ngắn với quy mô thị trường nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế của
mình như giới hạn về thị trường trong nước, không cập nhật được với khoa học
công nghệ hiện đại đặc biệt là làm chậm tiến độ công nghiệp hoá của đất nước.


b) Hệ quả
Chính sách công nghiệp hóa bằng thay thế nhập khẩu đã bắt đầu bị thất sủng
khi việc các nước theo đuổi chính sách này không bắt kịp các nước tiên tiến. Một
giai đoạn bảo hộ sẽ không tạo ra 1 khu vực công nghiệp chế tạo có khả năng cạnh
tranh nếu tồn tại lý do khiến cho một nước không có lợi thế so sánh trong công
nghiệp chế tạo.
- Lý do khiến các nước không phát triển được thường do tình trạng thiếu kinh
nghiệm về công nghệ chế tạo.

- Các nước nghèo thiếu lao động lành nghề,thiếu các nhà kinh doanh, thiếu năng
lực quản lý và có những vấn đề về tổ chức xã hội gây khó khăn cho các nước này
cung ứng một cách đảm bảo mọi thứ kể từ những linh kiện thay thế điện năng.
Chính sách bảo hộ của nhiều nước kém phát triển đã làm lệch lạc các khuyến
khích một cách tồi tệ
Một phần vấn đề là ở chỗ nhiều nước đã sử dụng các hạn ngạch nhập khẩu chi tiết
và thường là chồng chéo, những kiểm soát buôn bán và các luật lệ về hàm lượng
nội địa thay cho các chế độ thuế quan đơn giản
Khuynh hướng áp dụng hạn chế nhập khẩu để thúc đẩy sản xuất ở quy mô nhỏ
không có hiệu quả
Khi một thị trường nhỏ được bảo hộ (ví dụ hạn ngạch xuất khẩu) thì nếu mộ công
ty duy nhất gia nhập thị trường này, nó sẽ thu được lợi nhuận độc quyền. Sự cạnh
tranh giành lợi nhuận dẫn đến tình trạng một vài công ty gia nhập vào thị trường
mà thực tế chỉ đủ chỗ cho một công ty và tiến hành sản xuất trên quy mô rất không
có hiệu quả.
Tới những năm 1980 chỉ trích về công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu được
chấp nhận rộng rãi. Xét về mặt bình quân, các nước đang phát triển lựa chọn chính
sách thương mại tự do tương đối tăng trưởng nhanh hơn các nước lựa chọn chính
sách thương mại theo hướng bảo hộ.
Sự thay đổi này dẫn đến một dịch chuyển lớn trong các chính sách trong thực tế,
khi nhiều nước đang phát triển đã dỡ bỏ hạn ngạch và hạ thấp mức thuế quan.


2. Việt Nam
a) Điều kiện Kinh tế - xã hội
 Thuận lợi
- Nguồn nhân lực:
Vào thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2014, tổng số dân của Việt Nam là
90.493.352 người, trong đó có khoảng 53 triệu là lực lượng lao động. Giá nhân
công rẻ tạo thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia phân công lao động quốc tế kết

hợp với truyền thống cần cù, đoàn kết, thông minh, sáng tạo có khả năng nắm bắt
khoa học-kinh tế hiện đại và ứng dụng nó, có khả năng thích ứng với tình huống
phức tạp. Người Việt Nam càng ngày càng được nâng cao về thể lực trình độ kỹ
thuật, kỷ luật, trình độ quản lý, nguồn lao động được nhân lên và có sức mạnh
nhiều hơn.
-

Nguồn tài nguyên thiên nhiên:

Đa dạng, phong phú bao gồm: đất đai, rừng biển, nguồn nước, khoáng sản, khí hậu.
Với 1 phần tài nguyên như thế đất nước ta có điều kiện thuân lợi với tiềm năng để
phát huy lợi thế của mình.
-

Vị trí địa lý:

Việt Nam có vị trí thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với biển Đông, có tuyến đường
giao thông hàng hải, hàng không từ Đông sang Tây. Đường bộ, đường sông nối 3
nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế. Cho phép Việt Nam có khả năng
phát triển nhiều loại hình kinh tế, DV khác nhau.
-

Mặt thuận lợi khác về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, các chủ trương
chính sách của Đảng và nhà nước:

• Công cuộc đổi mới đã khai phá 1 chặng đường rất quan trọng, tạo ra tiền đề cơ
bản cho những bước đi tiếp theo, môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, tình hình
chính trị ổn định.
• Nhất quán chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu chính phủ Việt Nam
đưa ra các chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá có lợi thế so sánh cao trên

cơ sở nguồn lực dồi dào trong nước.


• Cơ chế quản lý kinh tế của Việt Nam trở nên nhạy cảm hơn vì chính sách mở
cửa, tạo thuận lợi cho kinh tế Việt Nam hoà nhập với kinh tế toàn cầu.

Thách thức
Điểm xuất phát thấp:


-

• Nước ta vẫn còn là 1 nước nghèo và kém phát triển. Số dân vẫn sống trong tình
trạng nghèo khổ.
• Dân số còn tăng nhanh và mật độ dân cư nhiều vùng rất cao nhưng lại thiếu đất
làm ăn. Nước ta hiện nay còn 70% lực lượng lao động làm nông nghiệp


Áp lực dân số đông và thiếu việc làm là rất lớn.

• Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung còn rất thấp. Chỉ 1 số ít có
công nghệ tương đối hiện đại.
• Trình độ phát triển kinh tế kém, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình thành, lực
lượng sản xuất nhỏ bé, cơ sở vật chất còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ
chuyển biến chậm. Thêm vào đó VN còn chưa hiểu biết đầy đủ về thị trường quốc
tế => mất thời gian ngỡ ngàng lung túng trong việc hợp tác kinh tế với nước ngoài.


Điểm xuất phát thấp đồng nghĩa với việc tụt hậu nhiều và nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa hơn với thế giới là rất rõ.


-

Nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi:

Một sự chuyển đổi vừa theo định hướng thị trường, vừa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa là sự mới mẻ mà chưa có
mấy thành công trên thế giới.
-

Cạnh tranh quốc tế gay gắt:

Nước ta là 1 quốc gia ven biển Đông vừa có thuận lợi cho sự phát triển, đồng thời
cũng chứa đựng nhiều tranh chấp rất phức tạp về chủ quyền và lợi ích. Đối phó với
sức uy hiếp ngày càng tăng từ thế giới, buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc
củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng.
-

Nguồn nhân lực bị hạn chế:


Ở giai đoạn hiện nay, VN đang đương đầu với thách thức về lợi thế so sánh nguồn
nhân lực. Mặt hạn chế và yếu kém về chất lượng, nhất là những vùng nông thôn,
miền núi còn là trở ngại lớn cho sự phát triển. Đòi hỏi lớn và cấp bách song khả
năng đầu tư cho phát triển nguồn nhần lực lại quá nhỏ bé.
-

Vốn đầu tư:

Nền kinh tế lúc này đã bước vào giai đoạn muốn tăng trường nhất thiết phải có vốn

đầu tư. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang có xu hướng chững lại,
tốc đổ rải ngân vốn ODA chậm, cùng với hiện tượng co cụm lại trong việc huy
động và cho vay vốn của NH trong nước tạo nên mối lo ngại về tình trạng suy
giảm vốn đầu tư, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai.


Những thách thức nêu trên chỉ là 1 phía mà ở phía kia chính là cơ hội, thậm
chí là thời cơ. Vấn đề là phải có chính sách đúng để khai thác mọi thơi cơ
vượt qua thách thức đi tới mục tiêu.

b) Thực trạng về chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu ở
Việt Nam
Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt khác,
vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm xuất phát của Việt
Nam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp. Năm 1960, công nghiệp chiếm tỷ
trọng18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông nghiệp chiếm tỷ trọng 42,3%
và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300 kg; GDP/người dưới 100 USD.
Trong khi phân công lao động chưa phát triển và LLSX còn ở trình độ thấp thì
QHSX đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu ( đến
năm 1960: 85,8% nông dân vào HTX; 100% hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợ
thủ công cá thể vào HTX tiểu thủ công nghiệp). Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng
III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng
một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực
hiện qua nhiều giai đoạn.


Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy
công nghiệp nặng làm nền tảng. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2% /1960

lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)
Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu
phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
• Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
• Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
• Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 - 1975 tăng
11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6 lần)
• Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công
nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng
Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)


Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập
khẩu mà nhiều nước, cả nước XHCN và nước TBCN đã và đang thực hiện
lúc đó. Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960 –
1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).

Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập
thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng…” tiếp tục được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng
(1976) nhưng chính sách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh
tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ
cấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển
kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”.
Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạo

một sự thay đổi nhất định trong phát triển:


+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627 cơ
sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.
+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm
1976.
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn
viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan
liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn, công
nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là sự biểu
hiện của tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựa
chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền
kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công
nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết
thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội
dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là bước điều
chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốc
dân trong thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm trước đó.
Cụ thể là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3%

1985: 5,7%

+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3%


1985: 3%

+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%, tiểu thủ
công nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh và
công tư hợp doanh 56,5%.
+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.
+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ
1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).


Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước.
Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác
định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công
nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát đó
đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp
nhiều khó khăn và khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân
dân sau 5 năm không những không ổn định được mà còn lâm vào khủng hoảng
trầm trọng.

 Giải pháp khắc phục
- Tập trung thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng với một lộ trình và bước đi
phù hợp. Nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn theo các mục tiêu, yêu cầu về CNH,
HĐH; tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp xây dựng và triển khai quy hoạch,
kế hoạch giữa các địa phương để khắc phục tình trạng cắt khúc của quy hoạch.
- Tiếp tục củng cố và tái cấu trúc hệ thống tài chính, các ngân hàng thương mại để
thực hiện huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã
hội... Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với thị trường tài chính, thị
trường bảo hiểm, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các thị trường tài chính theo
chiều sâu trên cơ sở đa dạng hóa các định chế tài chính, hàng hóa trên thị trường tài

chính.
- Tăng cường hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH: Thực hiện đơn giản hóa hệ thống chính sách ưu đãi thuế, đảm bảo việc thiết
kế và tổ chức thực hiện các chính sách ưu đãi thuế được gắn chặt với các định
hướng ưu tiên phát triển ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn theo yêu cầu của CNH,
HĐH.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước nhằm hạn chế sự chồng chéo trong lĩnh vực
sản xuất công nghiệp.
- Tập trung thực hiên các ngày công nghiệp thế mạnh phù hợp với đất nước.


- Thực hiện cải cách hành chính theo hướng: các cơ quan quản lý Nhà nước hướng
mạnh về doanh nghiệp và vì doanh nghiệp.
- Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội gắn với thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân.
- Phát triển hệ thống cơ sở như giao thông, thủy lợi y tế, giáo dục.
- Quy hoạch phát triển các vùng kinh tế trên phạm vi cả nước, để có quy hoạch
tổng thể, đồng bộ về ngành, lĩnh vực và vùng miền.



×