Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Thực trạng suy dinh dưỡng và kết quả của bổ sungdinh dưỡng bằng sữa đậu nành ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Yên Sơn tỉnhTuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.96 KB, 49 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em dưới 5 tuổi là thời kỳ phát triển đặc biệt, là lứa tuổi phát triển
nhanh, tình trạng dinh dưỡng chịu ảnh hưởng chủ yếu vào sự nuôi dưỡng và
chăm sóc trẻ. Suy dinh dưỡng (SDD) ở lứa tuổi này ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển thể chất và tinh thần của trẻ về sau. Mặc dù, suy dinh dưỡng ít khi
là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong (trừ trường hợp nạn đói hoành hành)
nhưng suy dinh dưỡng được cho là yếu tố liên quan đến tử vong của khoảng
54% trẻ em (10,8 triệu) ở các nước đang phát triển [49]
Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng của Liên hiệp quốc (UNICEF), trên thế
giới hiện có khoảng 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thiếu cân, phần lớn tập
trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin [44].
Tính đến năm 2010, Việt Nam còn khoảng 1,3 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
SDD thể nhẹ cân, 2,1 triệu trẻ SDD thể thấp còi, hơn 50 nghìn trẻ SDD thể
gầy còm và phân bố SDD không đều ở các vùng sinh thái khác nhau [34].
SDD là hậu quả trực tiếp của thiếu ăn và bệnh tật, hậu quả gián tiếp của
tình trạng bất an ninh lương thực, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ yếu kém, trình
độ văn hoá thấp…[34].
Hậu quả của SDD là rất lớn. Bên cạnh những ảnh hưởng đối với sức khoẻ,
SDD còn gây thiệt hại hàng tỷ đôla mỗi năm ở các nước đang phát triển. Nếu
giải quyết được vấn đề SDD, GDP ở những quốc gia này có thể tăng 2-3% [62].
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em, xác định các yếu tố liên quan công việc thiết yếu quan trọng nhằm xác định thực trạng tình hình SDD của
trẻ, nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp gây SDD cùng các yếu tố liên quan. Từ
đó có giải pháp phù hợp để cải thiện, hạ thấp tỷ lệ SDD trẻ em. Đồng thời tình
trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cũng được coi là một trong những chỉ
tiêu quan trọng phản ánh chất lượng cuộc sống xã hội, sự phát triển của cộng
đồng, đánh giá tiềm năng của các nước nghèo cũng như các quốc gia đang
phát triển [41].
Có nhiều biện pháp cải thiện, hạ thấp tỉ lệ SDD trẻ em, nhưng can thiệp
dinh dưỡng cho trẻ SDD tại cộng đồng là một trong những giải pháp ngắn hạn



2
nhưng hiệu quả, giúp khắc phục một trong những nguyên nhân trực tiếp gây
SDD đó là thiếu ăn.
Yên Sơn là huyện của tỉnh miền núi Tuyên Quang, điều kiện kinh tế xã
hội còn rất nhiều khó khăn; việc chăm sóc dinh dưỡng - sức khoẻ cho trẻ em
dưới 5 tuổi còn nhiều hạn chế.
Để góp phần tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội
trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi trên địa bàn
huyện Yên Sơn, vấn đề đặt ra và cần thiết giải quyết đó là:
- Tỷ lệ SDD của trẻ dưới 5 tuổi trên địa bàn huyện Yên Sơn năm 2011
là bao nhiêu?
- Những yếu tố liên quan đến tỷ lệ SDD trên địa bàn là gì?
- Can thiệp dinh dưỡng ngắn hạn cho trẻ dưới 5 tuổi trên địa bàn có cải
thiện được tình trạng dinh dưỡng của trẻ hay không?
Vì vậy, đề tài "Thực trạng suy dinh dưỡng và kết quả của bổ sung
dinh dưỡng bằng sữa đậu nành ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Yên Sơn tỉnh
Tuyên Quang" đã được triển khai tại Yên Sơn từ tháng 4 đến tháng 10 năm
2011. Mục tiêu của đề tài là:
1. Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Yên Sơn
tỉnh Tuyên Quang năm 2011.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5
tuổi tại huyện Yên Sơn.
3. Đánh giá kết quả bổ sung dinh dưỡng bằng sữa đậu nành cho trẻ em
dưới 5 tuổi sau 6 tháng can thiệp.


3
Chương I
TỔNG QUAN

I. Tình trạng SDD của trẻ em hiện nay
Suy dinh dưỡng là thuật ngữ được hiểu là cả thiếu dinh dưỡng và thừa
dinh dưỡng [49]. Nhưng trong đề tài này, thuật ngữ suy dinh dưỡng chỉ đề cập
chủ yếu đến vấn đề thiếu dinh dưỡng.
1.1. Tình trạng SDD của trẻ em trên thế giới
Mặc dù đã có sự tiến bộ đáng kể trong công tác phòng chống SDD song
nhìn chung tỷ lệ SDD trên thế giới còn cao. Ước tính khoảng 156 triệu trẻ em
- khoảng 28% tổng số trẻ dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị SDD thể
thấp còi, riêng các nước thuộc khu vực sa mạc Sahara Châu Phi có 61% số trẻ
và các nước Nam Á có 52% [50], 146 trẻ SDD thể nhẹ cân, khoảng 30 triệu
trẻ - khoảng 23,8% tổng số trẻ sơ sinh có cân nặng sơ sinh dưới 2.500 gram
[49]. Theo UNICEF, hàng năm có hơn 10 triệu trẻ em dưới 5 tuổi trong đó có
một nửa trong giai đoạn chu sinh đã chết vì SDD và các bệnh có thể phòng
chống được. Trung bình cứ 1 giờ có khoảng 800 trẻ chết vì SDD [43]. Vì vậy,
từ những năm 1990, tại Hội nghị Dinh dưỡng quốc tế tại Rome, các nước đã
coi việc thanh toán nạn đói và SDD là một trong những mục tiêu quan trọng
nhất của nhân loại.
Những năm gần đây, cộng đồng y tế và dinh dưỡng toàn cầu tập trung
vào can thiệp tình trạng béo phì và các bệnh thiếu vi chất dinh dưỡng đặc
hiệu, nhưng thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em vẫn tiếp tục là gánh nặng cho
các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình [35]. SDD nhẹ cân, thấp còi và
gầy còm gây ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ và sự phát triển của trẻ [34],
[37, [39].
Chương trình lương thực thế giới (WFP) cho biết châu Á là nơi có số
người sống trong tình trạng nghèo đói đông nhất thế giới và tình trạng trẻ em
suy dinh dưỡng rất đáng báo động [30].
Ngày15/9/2000, tại Hội nghị quốc tế về tình trạng SDD ở bà mẹ và trẻ
em, khai mạc tại thủ đô New Delhi - Ấn Độ, đại diện WFP đã nhấn mạnh tình



4
trạng SDD đáng báo động ở châu Á, là rào cản lớn nhất đối với tiến trình tạo
ra một lực lượng lao động khoẻ mạnh, có tri thức, làm động lực để đưa nền
kinh tế quốc gia phát triển [36]. Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc, hơn
500 triệu người châu Á không có đủ thực phẩm để đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng hàng ngày và theo số liệu thống kê năm 2006-2008 của FAO, toàn thế
giới có tới 850 triệu người (13% dân số thế giới) bị SDD. Nhiều trẻ em mới
sinh ra chậm phát triển về thể chất là hậu quả của việc thiếu iốt, hoặc bị mù
hoặc chết do thiếu vitamin A. Nhiều phụ nữ và trẻ em bị suy yếu sức khoẻ do
thiếu sắt, [32], [38]. Có tới 40% phụ nữ không mang thai và 44,3% trẻ em ở
các nước đang phát triển bị thiếu máu [50]; khoảng 160 triệu trẻ em (60%) bị
thiếu vitamin A (retinol huyết thanh thấp), trong đó, khu vực trung nam châu
Á tỷ lệ cao nhất, Tây và Trung châu Phi chiếm tỷ lệ 40%, Trung Nam châu
Mỹ và khu vực Caribe chiếm khoảng 10%. Tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ do thiếu
iốt giao động từ 10-20%, tương đương 700 triệu người bị ảnh hưởng, khoảng
1,7 tỷ người bị thiếu iốt (iốt niệu thấp), trong đó, 1,3 tỷ người ở châu Á [50].
Trong báo cáo tình hình trẻ em khu vực châu Á - Thái Bình Dương
năm 2008, UNICEF cho biết : "Sự phân hoá giàu nghèo đang tăng lên với tốc
độ đáng lo ngại trong các tiểu vùng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
khiến cho rất nhiều bà mẹ và trẻ em có nguy cơ bị lấn sâu vào đói nghèo và
tiếp tục bị loại trừ khỏi các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu có chất lượng"
[45].
Các nước Thái Bình Dương mới chỉ giảm được 22% tỷ lệ tử vong ở trẻ
dưới 5 tuổi, tức là xuống còn 64 trẻ bị tử vong trên 1.000 trẻ sinh sống - đây
là một tỷ lệ giảm rất nhỏ so với các tỷ lệ dược ghi nhận ở các nơi khác trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương [40]. Nhìn chung, mặc dù các nước Đông
Nam Á đã đạt được những thàn tích tốt là giảm một nửa số tử vong ở trẻ em
kể từ năm 1990, song sự khác biệt lớn giữa các nước cho thấy các nước nghèo
nhất và chậm phát triển vẫn còn đang tụt hậu [45].
1.2. Tình trạng SDD của trẻ em tại Việt Nam

Bảo đảm dinh dưỡng trẻ em có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
nâng cao sức khoẻ, thể chất con người, chất lượng cuộc sống, chất lượng dân
số và phát triển xã hội. Tháng 4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định


5
số 641/2011/TTg-CP về việc phê duyệt chiến lược nâng cao tầm vóc, thể lực
người Việt Nam giai đoạn 2011-2030. Theo đó, vấn đề cải thiện tình trạng dinh
dưỡng của nhân dân, trong đó trẻ em dưới 5 tuổi được đặc biệt chú trọng [33].
Những năm qua, công tác phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em dưới
5 tuổi ở Việt Nam đã đạt những kết quả quan trọng.
Năm 1985 có tới 51,5% trẻ em SDD thể nhẹ cân, trên 60% trẻ em SDD
thể thấp còi, 50% bà mẹ mang thai bị thiếu máu, mỗi năm có khoảng 5-7
nghìn trẻ em bị mù do thiếu Vitamin A, 94% dân số sống trong vùng bị thiếu
iốt, bệnh bướu cổ do thiếu iốt khá phổ biến, bữa ăn của người dân thiếu cả về
chất lượng và số lượng. Từ đó đến nay, với nhiều chương trình như: vườn - ao
- chuồng (VAC), bổ sung thực phẩm cho trẻ em, vitaminh A liều cao cho trẻ
dưới 5 tuổi, bổ sung viên sắt cho phụ nữ có thai, hoạt động phòng chống bướu
cổ … [10], tỷ lệ SDD giảm đều đặn từ 1,5 đến 2% hàng năm. Theo báo cáo
của UNICEF, Việt Nam được đánh giá là nước duy nhất trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dương đạt được mức giảm SDD nhanh [23].
Tính đến năm 2010, nước ta còn 17,5% trẻ SDD thể nhẹ cân; 29,3% trẻ
SDD thể thấp còi; 29,2% trẻ, 36,5% phụ nữ có thai, 28,8% phụ nữ ở độ tuổi
sinh đẻ bị thiếu máu dinh dưỡng; 14,2% trẻ em và 35% bà mẹ cho con bú bị
thiếu vitamin A thể tiền lâm sàng (Retinol huyết thanh < 0,7µmol/L). Riêng
Tuyên Quang, tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân và thấp còi lần lượt là 21,6% và
31,7% [32].


6

Bảng 1.1. Tỷ lệ SDD qua các năm (1985- 2010) [31]
Tỷ lệ suy dinh dưỡng (%)
Năm điều tra

Cân nặng/tuổi

Chiều cao/tuổi

Cân nặng/chiều cao

(CN/T)

(CC/T)

(CN/CC)

1985

51,5

59,7

7,0

1995

44,9

46,9


11,6

1996

43,9

44,2

14,8

1997

40,6

44,1

14,3

1998

39,8

35,9

10,3

1999

36,7


38,9

-

2000

33,8

36,5

-

2001

31,9

34,8

-

2002

30,1

33,0

7,9

2003


28,4

32,0

-

2004

26,6

30,7

7,7

2005

25,2

29,6

6,9

2007

21,2

33,9

7,1


2008

19,9

32,6

-

2009

18,9

31,9

-

2010

17,5

29,3

7,1

Thiếu iốt vẫn còn diễn ra ở 18/64 tỉnh, thành phố đã không chỉ gây thiệt
hại hàng tỷ USD mỗi năm, mà còn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện
của con người, của dân tộc và của đất nước [13].
Nhiều nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ SDD có sự chênh lệch giữa các khu
vực, tỷ lệ SDD ở miền núi cao hơn ở đồng bằng, ở nông thôn cao hơn thành
thị, ở những vùng nhiều thiên tại như hạn hán, bão lụt cũng có tỷ lệ SDD dinh

dưỡng cao [17].


7
Bảng 1.2. Tỷ lệ SDD trẻ em năm 2010 theo vùng miền [32].

Vùng, miền

Tỷ lệ suy dinh dưỡng (%)
CN/T

CC/T

CN/CC

Đồng bằng Sông Hồng

14,6

25,5

6,1

Trung du, vùng núi phía Bắc

22,1

33,7

7,4


Bắc Trung Bộ và duyên hải

19,8

31,4

7,6

Tây Nguyên

24,7

35,2

8,1

Đông Nam Bộ

10,7

19,2

8,1

ĐB Sông Cửu Long

16,8

28,2


11,1

Miền Trung

II. Nguyên nhân SDD
SDD có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân
gián tiếp. Nguyên nhân trực tiếp có thể kể đến đó là thiếu ăn, thức ăn nghèo
dinh dưỡng, bệnh tật; nguyên nhân gián tiếp có thể kể đến là tình trạng bất an
ninh lương thực, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ kém, nghèo đói, vệ sinh môi
trường, trình độ văn hoá kém; các nguyên nhân cơ bản như hoạt động của các
cơ quan chuyên môn, sự vào cuộc, phối hợp của các cơ quan, đoàn thể, tổ
chức chính trị xã hội, cộng đồng trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng; sự
ổn định thể chế chính trị, chính sách phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế đúng
đắn…[49], [32].
Theo UNICEF (1990) nguyên nhân SDD có thể chia thành 3 mức độ :
trực tiếp, tiềm tàng và cơ bản [12] (Sơ đồ 1)


8
SDD và tử
vong

Biểu hiện

Nguyên
nhân
Trực tiếp

Nguyên

nhân
tiềm tàng

Bệnh tật

Thiếu ăn

An ninh thực phẩm
hộ gia đình không
đảm bảo

Chăm sóc bà mẹ, trẻ
em chưa tốt

Thiếu dịch vụ ytế,
vệ sinh môi trường
kém

Cơ quan nhà nước và tổ chức xã
hội

Nguyên nhân cơ bản

Thượng tầng tư tưởng và chính trị

Cơ cấu kinh tế

Nguồn tiềm năng

Sơ đồ 1.1. Mô hình nguyên nhân SDD và tử vong- Unicef, 1990



9
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
Thiếu ăn là một trong những nguyên nhân trực tiếp của SDD. Ngày
nay, những nguyên nhân của đói nghèo đã được xác định rõ ràng đó là do
giáo dục kém phát triển, bùng nổ dân số, thất nghiệp, bất ổn về chính trị, thiếu
tư liệu sản xuất, như mất vốn, dụng cụ. Trẻ được sinh ra trong gia đình nghèo
thường có nguy cơ cao đối với bệnh tật vì sống trong môi trường thiếu vệ
sinh, nhà cửa chật chội, đông đúc, đìều kiện sống nghèo nàn, phơi nhiễm cao
đối với các yếu tố nguy cơ gây bệnh tật [10]. Ở các nước có thu nhập thấp, cứ
3 trẻ em dưới 5 tuổi thì có 1 trẻ bị SDD thấp còi. Những ảnh hưởng của SDD
tiếp diễn trong suốt cuộc đời của đứa trẻ, làm tăng nguy cơ tử vong, giảm khả
năng học tập, sa sút về trí tuệ và các khía cạnh phát triển xã hội khác [11].
Nguyên nhân trực tiếp thứ hai là các bệnh nhiễm trùng. Các bệnh
nhiễm trùng ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng dinh dưỡng, do tiêu tốn nhiều
năng lượng và sự giáng hoá protein, trẻ kém ngon miệng và lượng thức ăn
vào giảm [1]. Điều đó dẫn đến cân bằng năng lượng và nitơ âm làm trẻ tụt cân
và dẫn tới SDD.
Nghiên cứu cho thấy, bệnh tật và một số nguyên nhân trực tiếp góp
phần gây 54% trẻ SDD và tử vong như sau: Tiêu chảy 15%, nhiễm khuẩn
đường hô hấp cấp (ARI) 18%, sốt rét 10%, HIV 4%, sởi 5%, nguyên nhân
khác 25% [49].
2.2. Nguyên nhân tiềm tàng
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa tình trạng
dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi và chế độ nuôi dưỡng. Sau thời kỳ bú sữa,
chế độ ăn của trẻ tương đối độc lập, trẻ không còn phụ thuộc vào sữa mẹ như
trong giai đoạn trước, do đó việc đảm bảo nhu cầu là rất cần thiết. Song dù
nhu cầu bữa ăn có đầy đủ nhưng cách nuôi dưỡng không hợp lý kéo dài cũng
có thể là nguyên nhân dẫn đến SDD ở trẻ. Bởi vậy cách ăn của trẻ, cách nuôi

dưỡng trẻ ở độ tuổi này rất quan trọng. Đây là giai đoạn trẻ cần được ăn,
nhưng cũng là thời điểm trẻ cần được học cách ăn, cần làm quen với nếp ăn
uống khoa học hợp lý. Những sơ suất trong cách nuôi và cách dạy trẻ ăn đều
có ảnh hưởng xấu nhất định đến sự trưởng thành sau này của trẻ [2].


10
Mặc dù đã có sự cải thiện rõ rệt về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
nhưng tỷ lệ cho con bú sớm ngay trong giờ đầu còn thấp, một nghiên cứu ở
ngoại thành Hà Nội cho thấy 28,4% bà mẹ cho con bú sớm sau đẻ [3]. Tỷ lệ
trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu dao động từ 2,1% ở ngoại thành
TP. Hồ Chí Minh đến 37,5% ở các xã chưa có chương trình phòng chống
SDD can thiệp vào ở ngoại thành Hà Nội [30].
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), sữa mẹ chỉ thoả mãn nhu cầu trẻ
trong 6 tháng đầu vì cơ thể trẻ ngày càng lớn lên, nhu cầu cũng tăng lên [2].
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ đến một giai đoạn nhất định, trẻ cần
được bổ sung thức ăn khác ngoài sữa mẹ. Thời gian bắt đầu cho trẻ ăn bổ
sung ngoài sữa mẹ là một yếu tố nguy cơ [2]. Ăn bổ sung quá sớm hoặc quá
muộn, thức ăn không đạt yêu cầu cả về số lượng và chất lượng đều ảnh hưởng
đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Tỷ lệ ăn bổ sung trước 4 tháng dao động từ
19% vùng Đông Nam Bộ đến 39,8% vùng đồng bằng sông Hồng và 41%
vùng BẮc Miền Trung. Tỷ lệ bà mẹ hiểu đúng về thời điểm cho trẻ ăn bổ
sung chỉ chiếm 21,2% [14].
Ngoài ra thiếu an ninh thực phẩm hộ gia đình, các yếu tố môi trường và
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cũng là yếu tố góp phần làm cho tỷ lệ SDD ở trẻ
em vẫn còn ở mức cao.
2.3. Nguyên nhân cơ bản
Nguyên nhân cơ bản bao gồm những vấn đề liên quan đến cơ cấu kinh
tế, các yếu tố chính trị - xã hội và văn hoá của các quốc gia hay mỗi địa
phương. Đó là sự phân phối không công bằng các nguồn lực, thiếu những

chính sách phối hợp, tập quán ăn uống sai lầm đều ảnh hưởng đến tình trạng
dinh dưỡng chung đặc biệt là trẻ em.
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng SDD
3.1. Ảnh hưởng của các vấn đề cung cấp thức ăn cho trẻ chưa hợp lý
Vấn đề sản xuất ra lương thực, thực phẩm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
việc tiêu thụ lương thực, thực phẩm. Ở đâu tỷ lệ suy dinh dưỡng cao đồng
nghĩa là ở đó sản xuất ra lương thực còn thiếu [29], [30]. Ở những vùng có tỷ
lệ SDD trên 60% thì thường có trên 50% số hộ thiếu ăn. Nghiên cứu của


11
nhiều tác giả đều cho thấy khẩu phần thực tế của trẻ em Việt Nam thiếu cả về
số lượng, mất cân đối về chất lượng (khẩu phần chủ yếu là gạo, rau và gần
như rất ít thịt, trứng, cá). Hàm lượng protit và năng lượng khẩu phần nhóm trẻ
SDD thấp hơn nhóm trẻ bình thường, khẩu phần không cân đối [9]. Nuôi con
hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4-6 tháng tuổi và tiếp tục cho trẻ bú ít nhất đến 2
tuổi làm giảm bệnh tật trẻ [33]. Phần lớn các nghiên cứu cho thấy trẻ dưới 1
tuổi không được bú sữa mẹ đầy đủ sẽ nguy cơ mắc bệnh ỉa chảy lớn hơn so
với trẻ được bú mẹ hoàn toàn [23].
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng do người mẹ thiếu kiến thức
Kiến thức của bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ có ảnh hưởng rất lớn tới
tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Những nghiên cứu ở cộng đồng cũng thấy trong
số trẻ em SDD, có 71% là con thứ nhất, 60% các bà mẹ không biết cách cho
con ăn bổ sung và không biết “tô màu bát bột cho trẻ” [6]. Đối với trẻ còn
đang bú mẹ, yếu tố nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu và cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về trình độ văn hoá
cũng như kiến thức dinh dưỡng giữa nhóm bà mẹ có con SDD và nhóm bà mẹ
có con khoẻ mạnh [19], [23]. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng năm 2002,
tỷ lệ trẻ ăn bổ sung ngay ở tháng tuổi thứ 2 đã là 12,5%, trước 4 tháng tuổi là
32,7% [30].

3.3. Các yếu tố do các bệnh nhiễm trùng
SDD và nhiễm trùng đã được nhiều nghiên cứu đề cập đến trong nhiều
năm qua. Bệnh nhiễm khuẩn là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến tăng tỷ lệ trẻ em SDD, đặc biệt là bệnh tiêu chảy và viêm đường hô hấp
cấp [28]. Các bệnh này gây tăng nhu cầu, giảm ngon miệng, và kém hấp thụ ở
trẻ em. Nghiên cứu của Hà Huy Khôi và cộng sự trên 2 lô trẻ dinh dưỡng tốt
và dinh dưỡng kém cho thấy: ở lô dinh dưỡng kém trước khi mắc SDD trẻ
thường rất lười ăn, ăn ít hay bị ốm vặt, tỷ lệ mắc bệnh ỉa chảy kéo dài và viêm
phế quản phổi thường bị tái đi tái lại nhiều lần. Như vậy trẻ lười ăn và hay ốm
vặt sẽ là hai yếu tố đe dọa dẫn đến SDD nặng [9].


12
3.4. Ảnh hưởng do thiếu vi chất dinh dưỡng
Vi chất dinh dưỡng là những chất mà cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ,
miligram hoặc microgram. Chúng có vai trò rất quan trọng giúp cơ thể sản
xuất các enzim, hooc môn và các chất thiết yếu khác cho cơ thể phát triển,
tăng trưởng, hoạt động một cách bình thường. Thiếu vi chất dinh dưỡng sẽ
gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với sức khoẻ. Thiếu vitamin A gây
bệnh khô mắt, quáng gà thậm chí mù loà. Trẻ thiếu vitamin A có nguy cơ tăng
mắc các bệnh nhiễm trùng như tiêu chảy, sởi. Thiếu iốt gây bệnh bướu cổ,
ảnh hưởng đến phát triển trí tuệ, phụ nữ mang thai thiếu iốt trầm trọng có thể
bị sẩy thai, đẻ non … Thiếu sắt, iốt, vitamin A hiện đang là vấn đề sức khoẻ
cộng đồng toàn cầu, đối tượng bị ảnh hưởng nhiều là trẻ em và phụ nữ, nhất là
ở các nước đang phát triển [54]. Hiện nay, trên thế giới nói chung và các
nước đang phát triển nói riêng, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt đang ở mức cao,
trong đó đối tượng nguy cơ cao nhất là trẻ em dưới 5 tuổi. Ở Việt Nam, thiếu
máu thiếu sắt trẻ em < 5 tuổi là 45,6%, nông thôn đồng bằng là 45,8%, thành
thị là 22,9%, miền núi là 53,2%. Tỷ lệ thiếu máu khác nhau ở vùng sinh thái,
thành phố là 38%, nông thôn là 49,4% [14]. Thiếu máu làm giảm phát triển trí

tuệ, giảm khả năng tập trung trong học tập, kết quả học tập của học sinh bị
thiếu máu thấp hơn hẳn so với trẻ bình thường; làm tăng nguy cơ đẻ non, tăng
tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con. Hiện nay, trẻ em dưới 5 tuổi là
nhóm nguy cơ cao nhất ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ cao
hơn cả tỷ lệ thiếu máu ở bà mẹ mang thai. Nhất là giai đoạn 6-18 tháng tuổi,
vì nhu cầu trong giai đoạn này là cao nhất, cao hơn khoảng gấp 10 lần, tính
theo trọng lượng cơ thể, so với người đàn ông trưởng thành [2].
3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng khác
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi còn chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi cân nặng sơ sinh của trẻ [25]. Qua nghiên cứu của Hà Huy Khôi và cộng
sự năm 1992 trên 2 lô trẻ: 1 lô có tình trạng dinh dưỡng tốt và 1 lô SDD với
cùng điều kiện kinh tế xã hội cho thấy trẻ có tình trạng dinh dưỡng tốt hơn có
cân nặng sơ sinh cao hơn, chịu ăn hơn và ít mắc bệnh hơn [14].
Công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em, vì sức khoẻ của trẻ em phụ thuộc vào sức khoẻ


13
và thể lực của mẹ. Nếu mẹ gầy còm, ốm yếu, thiếu máu khi có thai thì đứa trẻ
sinh ra sẽ thiếu cân. Các tác giả nhận thấy: tình trạng dinh dưỡng của nhóm
trẻ ở bà mẹ chỉ số BMI < 18,5 (mẹ gầy) thấp hơn ở nhóm bà mẹ mà chỉ số
BMI > 18,5 [21].
Quy mô hộ gia đình cũng được cho là liên quan đến tỷ lệ SDD trẻ em.
Những gia đình có nhiều con ( ≥ 3 con) có tỷ lệ SDD trẻ em cao hơn hẳn. Lý
do có thể là đông con dẫn đến hậu quả kinh tế gia đình càng kém và điều kiện
chăm sóc trẻ em cũng kém hơn [7].
Thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp, hạn hán, thiếu nước trồng trọt nên
năng suất cây trồng giảm, mất mùa, sản lượng lương thực giảm, ảnh hưởng
đến an ninh lương thực, dẫn đến số hộ đói nghèo nguy cơ tăng. Đồng thời
thiếu nước sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh ăn uống cũng dễ làm bệnh dịch

phát sinh, phát triển. Các yếu tố này đều dẫn đến nguy cơ làm tăng số trẻ
SDD
IV. Hậu quả của tình trạng SDD
Hậu quả của SDD là rất lớn. Những năm đầu của cuộc đời nếu trẻ bị
SDD thì sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, để lại những hậu quả về phát triển thể
chất và tinh thần cho cuộc sống khi trưởng thành.
Để phòng chống thiếu cân nặng sơ sinh cho một trẻ, tiêu tốn khoảng
580 đôla; Một người khi trưởng thành thiếu 1% chiều cao, kết quả của việc
SDD khi còn nhỏ, sẽ bị mất 1,4% năng xuất lao động. Thanh toán được thiếu
máu dinh dưỡng sẽ tăng năng xuất lao động lên 5-17%. Ở Trung Quốc, béo
phì làm giảm GDP tới 2% và ở Ấn Độ, giảm năng xuất lao động do còi cọc,
thiếu iốt, thiếu máu góp phần giảm 2,95% GDP của nước này. Theo Ngân
hàng thế giới, SDD trẻ em ở các nước đang phát triển làm thiệt hại hàng tỷ
đôla mỗi năm, nếu chỉ tính riêng giảm GDP. Cải thiện điều kiện dinh dưỡng
của người dân ở nước đang phát triển, có thể giúp GDP của những nước này
tăng 2-3% [63]. Từ đó, có thể thấy SDD ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh
tế - xã hội [26].
Trong tất cả các đối tượng chịu ảnh hưởng của SDD thì trẻ dưới 5 tuổi
là đối tượng mà sự tác động này gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất [19], [27]:


14
SDD ảnh hưởng đến phát triển hành vi và trí tuệ của trẻ; làm yếu sự đáp ứng
miễn dịch, dẫn đến nhạy cảm với nhiễm trùng (NT) và vòng xoắn SDD - NT
-SDD [5]; trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, diễn biến bệnh thường gặp nặng
và nguy cơ dẫn đến tử vong cao hơn trẻ bình thường. WHO (2002), phân tích
10,4 triệu trường hợp tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển
cho thấy có đến 5,1 triệu trẻ (49%) có liên quan đến SDD [46].
Quan điểm cho rằng phải xoá xong nghèo đói mới có thể nói đến cải
thiện tình trạng dinh dưỡng (TTDD) nhưng chính thiếu dinh dưỡng lại ảnh

hưởng đến sự phát triển của con người và phát triển xã hội, là nguyên nhân
của sự nghèo đói. Do đó, giải quyết tình trạng SDD là một đòi hỏi cấp bách
và phải được tiến hành đồng thời với phát triển kinh tế xã hội.
Sơ đồ 2 mô tả mối liên quan, hậu quả của SDD đối với toàn bộ quá
trình phát triển của một người.
V. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi
5.1. Các chỉ tiêu đánh giá
Sử dụng các chỉ số nhân trắc trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng là
phương pháp được sử dụng rộng rãi để mô tả tình trạng dinh dưỡng của cá thể
và cộng đồng. Để đánh giá dinh dưỡng toàn diện cần có ít nhất 3 chỉ số:
- Cân nặng theo tuổi.
- Chiều cao theo tuổi.
- Cân nặng theo chiều cao.
Các chỉ số này sẽ được so sánh với bảng đánh giá tình trạng dinh dưỡng
được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo áp dụng năm 2005.
Ngoài ra, một số chỉ số khác cũng được sử dụng để đánh giá tình trạng
dinh dưỡng như số đo vòng đầu, vòng cánh tay… nhưng hiện tại ít dùng do
không cụ thể, chi tiết và không chính xác vì phụ thuộc vào cách đo, năng lực
thực hành.
5.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng


15
Sử dụng quần thể tham khảo Havard là phương pháp phân loại tình
trạng dinh dưỡng được dùng sớm nhất, dựa trên chỉ số cân nặng theo tuổi.
Bảng 1.3. Phân loại SDD theo quần thể tham khảo Havard
Tiêu chuẩn

Mức độ SDD


Từ 75-90% của cân nặng chuẩn

SDD độ I

Từ 60-75% của cân nặng chuẩn

SDD độ II

Dưới 60% của cân nặng chuẩn

SDD độ III

Cách phân loại này không phân biệt giữa Marassmuss và Kwasshiorkor
cũng như SDD cấp hay mãn bởi vì cách phân loại này không để ý tới chiều cao.
5.3. Phân loại theo Wellcome (1970)
Cách phân loại này của Wellcome phù hợp để phân biệt giữa
Marassmuss và Kwashiorkor
Bảng 1.4. Phân loại SDD theo Wellcome
Cân nặng (%) so với

Phù

chuẩn



Không

60 - 80%


Kwashiorkor

Thiếu cân

< 60%

Marasmuss và

Marasmuss

Kwashiorkor
5.4. Phân loại theo Waterlow (1972)
Để khắc phục nhược điểm của cách phân loại Wellcome là không phân
biệt được SDD hiện tại hay quá khứ. Phân loại theo Waterlow dùng cả hai chỉ
số chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao để đánh giá. 50% percentile
quần thể tham chiếu Harvard là điểm tham chiếu. Theo đó, cả hai chỉ số được
biểu diễn bằng tỷ lệ phần trăm trung vị như là trong phân loại Wellcome. Mốc
tham chiếu là độ I, độ II, độ III tương ứng với 1SD, 2SD, 3SD của chỉ số
chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao của quần thể tham chiếu
Harvard [53]. (xem bảng ???)


16

Bảng 1.5. Phân loại SDD theo Waterlow
Chiều cao

Cân nặng theo chiều cao

theo tuổi


(Độ gầy còm)

(Độ còi cọc)
% (Độ)

> 90% (0)

>90% (0)

80-90% (1)

70-80% (2)

<70% (3)

Bình thường

Gầy còm

Còi cọc

Còi cọc và gầy còm

95-90% (1)
85-90% (2)
<85% (3)
5.5. Phân loại dựa vào độ lệch chuẩn SD scores hoặc Z-scores
SD scores hay Z-scores được tính theo công thức:
SD scores hay Z-scores = (Giá trị được khảo sát – Giá trị trung vị của

quần thể tham chiếu)/độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu) [55].
Trước năm 2005 WHO khuyến cáo dùng quần thể tham chiếu NCHS
với điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) hoặc dưới -2,0Z-Score để coi
là trẻ bị SDD. Theo đó nếu:
* Chỉ số cân nặng theo tuổi:
- Dưới -2SD đến -3SD hoặc <-2,0 đến -3,0 Z-Score là SDD thể nhẹ cân vừa.
- Dưới -3SD đến -4SD hoặc <-3,0 đến -4,0 Z-Score là SDD thể nhẹ cân nặng.
- Dưới -4SD hoặc dưới <-4,0 Z-Score là SDD thể nhẹ cân rất nặng.
* Chỉ số cân nặng theo chiều cao : Dưới -2SD hay dưới -2,0 Z-Score là
SDD thể gầy còm (wasting).
Chỉ số chiều cao theo tuổi: dưới -2SD hay dưới -2,0 Z-Score là SDD
thể còi cọc (stunning).
-

Chỉ số cân nặng theo tuổi < -2SD. Chỉ số này phản ánh tình trạng thiếu

hụt dinh dưỡng nhưng không đánh gía được tình trạng thiếu hụt xảy ra vào


17
thời gian này hay từ trước. Tuy nhiên, đây vẫn là chỉ số dễ áp dụng nhất trong
cộng đồng nên vẫn được dùng như một chỉ số để đánh giá tình trạng thiếu hụt
dinh dưỡng ở cộng đồng và dùng để phá hiện sớm tình trạng thiếu hụt dinh
dưỡng, sau đó kết hợp với các chỉ số còn lại để đánh giá tình trạng SDD.
-

SDD cấp: Chỉ số chiều cao teo tuổi bình thường, nhưng cân nặng theo

chiều cao < - 2SD. Điều này phản ánh SDD mới diễn ra và chế độ ăn hiện tại
chưa phù hợp với nhu cầu.

-

Suy dinh dưỡng mãn đã phục hồi: Chiều cao theo tuổi <-2SD nhưng

cân nặng theo chiều cao bình thường. Phản ảnh sự thiếu dinh dưỡng đã xảy ra
trong một thời gian dài, nặng và sớm vì đã gây ảnh hưởng trên sự phát triển
tầm vóc của trẻ. Nhưng tình trạng dinh dưỡng hiện đã phục hồi, ở những đối
tượng này cần thận trọng với nguy cơ béo phì vì chiều cao thấp.
-

Suy dinh dưỡng mãn tiến triển : Chiều cao theo tuổi < -2SD và cân

nặng theo chiều cao cũng <-2SD chứng tỏ tình trạng thiếu dinh dưỡng đã xảy
ra trong quá khứ và tiếp tục tiến triển đến hiện nay.
Trong đề tài này, các chỉ số nhân trắc của đối tượng nghiên cứu sẽ được
so sánh với quần thể tham chiếu tiêu chuẩn do WHO (2005) khuyến cáo áp
dụng để phân loại, đánh giá tình trạng SDD của trẻ.
VI. Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
Nhìn chung, trước khi một biện pháp phòng chống SDD được triển
khai thực hiện, thì cần làm rõ:
-

Những đối tượng nào đang bị SDD cần các biện pháp can thiệp để cải

thiện tình trạng dinh dưỡng.
-

Loại SDD nào là phổ biến và đang hiện hữu.

-


Mức độ SDD ra sao.

-

Đối tượng cụ thể cần ưu tiên can thiệp dinh dưỡng.

-

Can thiệp vào nguyên nhân gây SDD nào.
Từ Sơ đồ 1 – Mô hình nguyên nhân SDD và tử vong của trẻ - Unicef

1990, chiến lược phòng chống SDD có thể chia thành một số giải pháp chủ
yếu: Giải pháp chuyên môn kỹ thuật; giải pháp về chủ trương chính sách; giải
pháp về nguồn lực [34]


18
Giải pháp chuyên môn, kỹ thuật đó là triển khai các chương trình phục
hồi dinh dưỡng, bổ sung dinh dưỡng, nâng cao chất lượng khẩu phần ăn vào,
các chương trình bổ sung vi chất, đa vi chất dinh dưỡng: vitamin A, sắt, folic
acid, iốt, kẽm, canxi…ở tất các các nhóm nguy cơ: trẻ dưới 5 tuổi, thiếu niên,
phụ nữ tuổi sinh đẻ [56]. Khuyến khích ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau;
cân đối giữa thực phẩm ăn vào với hoạt đông thể lực duy trì cân nặng nên có;
chọn chế độ ăn có nhiều sản phẩm từ hạt, rau quả; chế độ có số lượng chất
béo, a xít béo no và cholesterol thấp; chế độ ăn có đường, có lượng muối và
Natri vừa phải.
Thực hiện cho trẻ đẻ ra bú hoàn toàn bằng sữa mẹ 6 tháng đầu; tư vấn
nuôi con bằng sữa mẹ đối với các bà mẹ nuôi con bú, nhất là trong 6 tháng
đầu; Hướng dẫn ăn bổ sung hợp lý từ tháng thứ 7 và tiếp tục cho bú mẹ từ 18

đến 24 tháng; hướng dẫn bà mẹ chế biến thức ăn bổ sung; chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ tốt hơn trong và sau khi mắc bệnh; giúp bà mẹ phát hiện, xử trí,
chăm sóc sức khỏe trẻ tại nhà, giữ ấm cho trẻ vào mùa đông, chăm sóc y tế
nếu cần, cho trẻ mắc tiêu chảy, viêm hô hấp dùng oresol, cho trẻ uống vitamin
A. Hướng dẫn bà mẹ tiếp tục cho trẻ bú và ăn tăng trong và sau khi bị ốm,
thực hành vệ sinh ở gia đình và phòng chống nhiễm giun, tẩy giun định kỳ
cho trẻ em theo chỉ định của y tế.
Tạo điều kiện có nguồn nước sạch dùng cho ăn uống và sinh hoạt của gia
đình. Giáo dục thực hiện ăn chín, rửa tay trước khi ăn và khi chế biến thức ăn
cho trẻ [18].
Triển khai công tác truyền thông, nâng cao kiến thức về tầm quan trọng
của công tác dinh dưỡng đối với sự phát triển toàn diện về tầm vóc, thể chất
và trí tụê của trẻ em với các loại hình, phương thức, nội dung phù hợp từng
vùng, miền và từng nhóm đối tượng [34].
Giải pháp chủ trương chính sách bao gồm: Hoàn thiện cơ chế phối hợp
liên ngành giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Có chính sách khuyến khích
các tổ chức xã hội tự nguyện tham gia công tác phòng chống suy dinh dưỡng.


19
Hoàn thiện các quy định về sản xuất, kinh doanh và sử dụng thức ăn dùng cho
trẻ nhỏ, bổ sung vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm [34].
Giải pháp về nguồn lực: Đào tạo nguồn nhân lực, củng cố, phát triển
đội ngũ cán bộ làm công tác dinh dưỡng cả tuyến trung ương và cơ sở.
Xã hội hoá, đa dạng nguồn lực tài chính, quản lý hiệu quả nguồn lực tài
chính [34].
Đề tài này thực hiện một giải pháp thuộc nhóm giải pháp chuyên môn
kỹ thuật đó là bổ sung dinh dưỡng. Cụ thể, sữa đậu nành được lựa chọn để bổ
sung cho trẻ.
VII. Đậu nành và sữa đậu nành

7.1. Đậu nành
Đậu nành hay còn gọi là đậu tương, tên khoa học là glycine max, thuộc
cây họ đậu, là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế, dễ trồng có hàm lượng
protein cao. Sản phẩm từ cây đậu tương được sử dụng rất đa dạng như chế
biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa
đậu nành, bột dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh.... đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu
phần ăn hàng ngày.
Một số nghiên cứu trên lượng lớn dân số cho thấy, tiêu thụ sản phẩm từ
đậu nành có thể giảm nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới [57],
giảm nguy cơ mắc ung thư vú ở phụ nữ [58]. Cơ quan quản lý thuốc và thực
phẩm Hoa Kỳ khuyến cáo: Bổ sung một ngày 25 gam protein từ đậu tương
có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tim [59]. Nhiều sản phẩm từ đậu tương có lợi
cho phòng chống bệnh tim mạch và cho sức khoẻ vì chúng có hàm lượng cao
chất béo không no, chất xơ, vitamin và khoáng chất và hàm lượng thấp chất
béo no [60]. Đậu nành còn chứa nhiều phytic a xít có vai trò như là chất
chống oxy hoá, giảm nguy cơ ung thư [61], tiểu đường [62].
Tuy nhiên, dị ứng với thực phẩm đậu tương cũng đã được phát hiện.
Với triệu chứng mẩn đỏ, ngứa (Urticaria) thường xảy ra trong vài phút đến vài
giờ sau khi ăn thực phẩm đậu tương. Vì chỉ có một vài nghiên cứu khẳng định
đậu tương có thể gây dị ứng, do đó rất khó để đánh giá tin cậy tỷ lệ dị ứng với
thực phẩm đậu tương ở cộng đồng.


20
Không dung nạp thực phẩm đậu tương cũng có thể xảy ra khi trẻ được
cho ăn thức ăn chế biến từ đậu tương. Triệu chứng có thể gặp là nôn, trớ, tiêu
chảy và chấm dứt khi dừng cho trẻ ăn thực phẩm từ đậu tương. Tuy nhiên,
không dung nạp sản phẩm đậu tương cơ thể có thể tự điều chỉnh và không còn
khi trẻ được 2-3 tuổi (Todder years)[64].
Đậu nành còn có Isoflavone có tên khác là Genistein và Daidzein, có

chức năng như là estrogen, là một trong các nguồn phytoestrogen –Estrogen
từ thức ăn (Dietary estrogen). Nhưng phytoestrogen trong đậu tương có hoạt
tính yếu do đó ăn uống bình thường, các sản phẩm đậu tương không đủ lượng
estrogen gây các phản hồi từ cơ thể [65].
Vì đậu nành có phytoestrogen, do đó một số nghiên cứu đặt vấn đề liệu
ăn đậu tương có ảnh hưởng tới lượng testosterone ở nam giới hay là không.
Tuy nhiên, 15 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng: Bổ sung thực
phẩm từ đậu tương hoặc isoflavone không thấy có sự thay đổi lượng
testosteron hay là estrogen ở nam giới [66].


21
Bảng 1.6. Giá trị dinh dưỡng trong 100 g đậu nành
Năng lượng

446 Kcal

Cacbonhydrat

30,16 g

Đường

7,33 g

Chất xơ

9,3 g

Chất béo


19,94 g

Protein

36,49 g

Tryptophan

0,59 g

Leucine

3,3 g

Lysine

2,7 g

Methionine

0,54 g

Vitamin A

1µg

Vitamin C

6,0 mg


Canxi

277 mg

Phốtpho

704 mg

Sắt

15,7 mg

Kẽm

4,89 mg

Nguồn: United States Department of America (USDA)

7.2. Sữa đậu nành
Sữa đậu nành là một trong những thức uống khá phổ biến làm từ đậu
tương, vị mát, hơi ngậy, khi uống có thể thêm chút đường. Chế biến sữa đậu
nành tại hộ gia đình chỉ đơn giản là xay hạt đậu tương (có thể bằng máy xay
sinh tố) với tỉ lệ 200 g đậu trên 0,5 lít nước. Lọc phần đã xay qua khăn hay
rây thật nhỏ để thu lấy nước. Đun sôi nước này lên là có sữa đậu nành.
Sữa đậu nành đóng hộp, được sản xuất theo quy trình công nghiệp,
cũng rất thơm ngon. Chúng có thể có thêm hương vị như vani, sô-cô-la hoặc
các hương vị khác.
Sữa đậu nành là loại đồ uống an toàn và giá phù hợp, phổ biến ở Việt
Nam và nhiều nước trên thế giới [47]. Đây là nguồn thức ăn giàu protein và



22
được ví như “thịt xanh”, có giá trị dinh dưỡng cao và dễ sử dụng [48] (Xem
bảng 7). Nghiên cứu tại Nigieria cho thấy sử dụng sữa đậu nành dưới dạng
thức ăn có tên “Soyogi” có tác dụng giảm bệnh tiêu chảy và phòng SDD ở trẻ
em rất hiệu quả [47]. Sữa đậu nành còn được dùng làm thức ăn để bồi bổ cơ
thể, nhất là đối với trẻ em, người bị bệnh đái đường, người làm việc quá sức,
thiếu khoáng và làm việc trí óc, người mới ốm dậy, người bị thấp khớp, thống
phong…
Bảng 1.7. Thành phần dinh dưỡng trong 100 mL sữa đậu nành
Năng lượng (kcal)

56

Protein (g)

4

Fat (g)

1.6

Carbohydrate (g)

5.6

Lactose (g)

0


Natri (mg)

48

Sắt (mg)

0.72

Riboflavin (mg)

0.04

Calcium (mg)

32

Nguồn: USDA [67]
Trong đề tài này, sữa đậu nành bổ sung cho trẻ là sữa đậu nành Vfresh
do công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk sản xuất, loại hộp giấy có thể tích
1L. Thành phần dinh dưỡng trong 200mL sữa đậu nành Vfresh như sau:
Bảng 1.8. Thành phần dinh dưỡng trong 200 mL sữa đậu nành Vfresh
của Vinamilk
Năng lượng (Kcal)

107,8

Chất đạm (g)

6,4


Chất béo (g)

3,8

Cacbonhydrat (g)

12

Cholesterol (g)

0


23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu mô tả
- Trẻ em dưới 5 tuổi
- Bà mẹ có con dưới 5 tuổi
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu can thiệp
Trẻ em từ 7 - 54 tháng tuổi tại thời điểm tham gia nghiên cứu và trước
thời điểm nghiên cứu 2 tuần không mắc bệnh mãn tính hoặc mắc các bệnh
nhiễm trùng (Sốt, ho, tiêu chảy, ARI)
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2011.

2.3. Thiết kế nghiên cứu
Đề tài có 2 thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang (Cross-sectional survey) nhằm xác định tỷ
lệ SDD và các yếu tố liên quan của trẻ dưới 5 tuổi.
- Nghiên cứu can thiệp thử nghiệm (bổ sung sữa đậu nành Vfresh của
Vinamilk) ngẫu nhiên có nhóm đối chứng (Randomized controlled trial).
Đánh giá kết quả can thiệp bằng phương pháp so sánh đối chứng.
2.4. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu nghiên cứu
2.4.1. Cỡ mẫu
- Cỡ mẫu nghiên cứu mô tả: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu theo tỉ lệ với sai
số không quá 5% và độ tin cậy 95%.
p(1- p)
n = z2(1- α/2)
d2


24
Chọn p = 0,33 (tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại tỉnh
Tuyên Quang năm 2010 là 33,0% - Nguồn từ Trung tâm y tế dự phòng tỉnh
Tuyên Quang và Viện dinh dương quốc gia) từ đó ta có d = 0,033
Z(1- α/2) : Giá trị điểm Z tại mức ý nghĩa α, với α = 0,02 → Z(1- α/2) = 1,96;
Kết quả, số trẻ cần thiết để tham gia nghiên cứu là 780 trẻ.
- Cỡ mẫu nghiên cứu can thiệp được tính theo công thức:
n = (Z1-α/2+ Z1-β)2

p1q1 + p 2 q 2
(p 1 − p 2 ) 2

Trong đó n là số trẻ cần can thiệp.
Giá trị Z1-α/2 = 1,96

α là xác suất sai lầm loại I, chọn α = 0,05 tương ứng mức tin cậy 95%
Giá trị Z1-β = 1,28
β là xác suất sai lầm loại II, chọn β = 0,1 tương ứng với lực mẫu 90%
p1: Tỷ lệ gặp trước can thiệp
p2: Ước lượng sau can thiệp
p1 = 0,33 (tỷ lệ SDD hiện tại của tỉnh Tuyên Quang 33,0%)
p2 = 0,30 (tỷ lệ SDD mong muốn sau khi can thiệp 30,0%)
Kết quả là cần 221 trẻ tham gia nghiên cứu.
Theo công thức tính cỡ mẫu được áp dụng trong đề tài này, số lượng trẻ
cần thiết để tham gia nghiên cứu mô tả là 780; và số trẻ cần thiết tham gia
nghiên cứu can thiệp là 221. Do vậy, trong 780 trẻ ở nghiên cứu mô tả đã đáp
ứng được yêu cầu về cỡ mẫu trong nghiên cứu can thiệp. Vì thế, trong đề tài
này, công thức chọn mẫu áp dụng để tính cỡ mẫu trong nghiên cứu mô tả
được sử dụng để tính chung cỡ mẫu cho cả hai nghiên cứu.
2.4.2. Chọn mẫu
Cách chọn mẫu được tiến hành như sau:
- Bốc thăm chọn các xã triển khai nghiên cứu: Căn cứ vào số trẻ ở từng
xã, bốc thăm ngẫu nhiên để chọn ra một số xã, sao cho tổng số trẻ dưới 5 tuổi
ở các xã được chọn phải đủ 780 trẻ.


25
Tại thời điểm nghiên cứu, trong 31 xã huyện Yên Sơn có 3 xã đang
tham gia chương trình phục hồi dinh dưỡng. Vì thế, những xã này không đưa
vào danh sách bốc thăm để chọn xã triển khai nghiên cứu.
Vì vậy, 28 xã được đưa vào danh sách bốc thăm ngẫu nhiên để chọn.
Kết quả, xã Nhữ Khê và Phú Thịnh là hai xã có đủ số trẻ dưới 5 tuổi tham gia
vào nghiên cứu.
- Bốc thăm để chọn xã có trẻ tham gia nghiên cứu can thiệp: Lẽ ra, toàn
bộ số trẻ đủ điều kiện là đối tượng nghiên cứu can thiệp ở hai xã Nhữ Khê

(411 trẻ) và Phú Thịnh (401 trẻ) phải được bốc thăm ngẫu nhiên để chọn ra
trẻ nào vào nhóm can thiệp, trẻ nào vào nhóm đối chứng. Nhưng như vậy,
trên địa bàn hai xã, sẽ có những trẻ được uống sữa đậu nành (nhóm can thiệp)
và sẽ có những trẻ không được uống (nhóm đối chứng). Để tránh thắc mắc
của bà mẹ và tránh việc các bà mẹ có con ở nhóm đối chứng có thể cũng tự
cho trẻ uống sữa đậu nành (tâm lý “bằng chị, bằng em”), làm ảnh hưởng kết
quả nghiên cứu. Trong đề tài này, chúng tôi quyết định bốc ngẫu nhiên để
chọn toàn bộ trẻ đủ điều kiện là đối tượng can thiệp ở một trong 2 xã để tham
gia vào nhóm can thiệp và xác định đây là hạn chế của đề tài. Kết quả, trẻ đủ
điều kiện là đối tượng can thiệp ở xã Phú Thịnh đã được chọn.


×