Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Khóa luận môn kinh tế quốc tế quan điểm của đảng về hội nhập quốc tế qua các văn kiện của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.09 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC DÂN LẬP PHƯƠNG ĐÔNG

---

CHUYÊN ĐỀ
Môn học: Kinh tế quốc tế

ĐỀ TÀI:

Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam

về Hội nhập Quốc tế qua các văn kiện của Đảng

GV hướng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc
Nhóm SV thực hiện: Nhóm 06

***
Hà Nội, tháng 03/2016

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................


..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
Hà Nội, ngày …… tháng …… năm 2016
Giáo viên hướng dẫn

Trang 2 | 30


Danh sách thành viên nhóm

1- Nguyễn Kiên Cường

511401013

Trưởng nhóm + Nội dung

2- Hoàng Thanh Hải

509411226

Nội dung

3- Phạm Văn Tiến

510411297


Nội dung

4- Đinh Xuân Hồng

511401039

Nội dung

5- Nguyễn Tiến Quân

511401076

Nội dung

6- Lê Đình Bắc

511402012

Nội dung

7- Phùng Thành Công

511402016

Nội dung + Thiết kế slide

8- Ngô Văn Đoạt

511402022


Nội dung + Thuyết trình 1

9- Tăng Vương Huỳnh

511402034

Nội dung

10- Nguyễn Hoàng Quốc Huy

511402035

Nội dung

11- Trịnh Thị Dung

513401214

Nội dung

12- Đặng Thị Lệ Giang

513401216

Nội dung

13- Nguyễn Phương Oanh

513401246


Nội dung

14- Trần Phương Thảo

513401254

Nội dung

15- Hà Thu Trang

513401273

Nội dung + Thuyết trình 2

16- Nguyễn Hoàng Giáp

715402002

Nội dung

17- Đinh Yên Hà

715402003

Nội dung + Thiết kế slide

18- Nguyễn Trọng Nghĩa

715402005


Nội dung
Trang 3 | 30


Trang 4 | 30


Mục lục

1. Khái niệm về Hội nhập quốc tế

1.1.Định nghĩa khái niệm hội nhập quốc tế
1.2.Nội hàm của hội nhập quốc tế
1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2. Hội nhập chính trị
1.2.3. Hội nhập an ninh-quốc phòng
1.2.4. Hội nhập về văn hóa-xã hội
2. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương

6
6
9
9
10

hội nhập quốc tế của Đảng

12


2.1.Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2.2.Đại hội IV
2.3.Đại hội VI
2.4.Đại hội VII
2.5.Đại hội VIII
2.6.Đại hội IX
2.7.Đại hội X
2.8.Đại hội XI
2.9.Đại hội XII

13

3. Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội

nhập quốc tế
4. Kết quả Hội nhập Quốc tế

15

15
15
16
16
17

4.1. Thành tựu

17

4.2. Hạn chế và Thách thức


17
18
18
21

Trang 5 | 30


24
24
27

Trang 6 | 30


1. Khái niệm Hội nhập Quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động
và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực
hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế
lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc
gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen với hầu hết
người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở quán nước trên hè phố, thậm chí cả ở thôn quê,
người ta đều sử dụng nó một cách rất thông dụng. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự
hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy
người. Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau và
vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh nước ta đang
“tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa

qua, việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của
hội nhập quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược,
chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.

1.1. Định nghĩa khái niệm hội nhập quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài
(tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là
một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc
tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường
phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm
tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm
“hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng hội
nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là sự hình
Trang 7 | 30


thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những
người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước hết là sự
liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thư tín,
thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh (security
community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất
như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp
cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các nước
mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế
có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội nhập trong

quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía cạnh luật định và thể
chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận này
khó áp dụng để phân tích và giải thích thực tiễn của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình
thức và mức độ khác nhau như hiện nay trên thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào
cũng dẫn đến một Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện
tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối cùng, đồng thời
đưa ra được những nội dung khá cụ thể và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân
tích và giải thích nhiều vấn đề của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi
của hiện tượng, không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội
nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản chất của quá trình
hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng
giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ
“hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến
hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước
khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện
các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này
thực ra được sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic
Trang 8 | 30


integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử
khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh
hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV)
những năm 1970-1980.
Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về hiện tượng
phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước không phải là xã
hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh thế giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ
các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU),

Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng
Caribê và Thị trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v...
Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập
quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập
quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở
Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp
coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu
rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối
lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít
người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm
“hội nhập quốc tế” đều không đầy đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối
với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế của
Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội
nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới
mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến
hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích,
mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ
các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác
với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau,
không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường:
nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế,
quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các
Trang 9 | 30


chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (i) hoặc là
một tổ chức liên chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt
chính sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ chức siêu

quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình
thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…),
(iii) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phần chủ
quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình,
chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ
quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên
cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào
quá trình hội nhập quốc tế.
1.2. Nội hàm của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính
trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra
trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh
vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác
nhau.
1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới
thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn
phương đến song phương, tiểu khu vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập
kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế
được chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:
(i)

Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho nhau các ưu đãi

thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế về phạm vi (số lượng các mặt
hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN
(1977), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ
cụ thể của mô hình liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.


Trang 10 | 30


(ii)

Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt giảm và loại bỏ

các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể bao gồm cả việc giảm và bỏ một
số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách
thuế quan độc lập đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu
(EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA). Những năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết
rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa
đối với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ:
Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
dương (TPP- đang đàm phán).
(iii)

Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan

trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung đối với các
nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-BêlarútCadăcxtan.
(iv)

Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế quan và hàng rào

phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách thuế quan chung đối với ngoài khối,
các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất
khác (vốn, lao động…) để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh
châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước

khi trở thành một liên minh kinh tế.
(v)

Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao nhất dựa trên cơ

sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ
chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với tính chất, phạm
vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua các bước hội nhập từ thấp đến
cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà
thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu
dịch tự do và liên minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng
hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là
hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy
cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Trang 11 | 30


1.2.2. Hội nhập chính trị
Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế quyền lực tập thể
(giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với
các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong
đó họ chia sẻ với nhau về các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích,
nguồn lực và đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế
thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập các mối liên kết
quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính
trị khu vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn
như Liên Hiệp quốc).
Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết giữa các thành viên còn hạn chế và
các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính sách riêng. ASEAN hiện nay vẫn

đang trong giai đoạn đầu quá trình hội nhập chính trị, nên vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt
và độ tin cậy giữa các thành viên còn hạn chế. Về mặt tổ chức quyền lực, ASEAN là một
khuôn khổ liên chính phủ. Hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột (Cộng
đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội) sẽ giúp tăng
cường quá trình hội nhập chính trị trong ASEAN, tạo điều kiện để ASEAN bước tới một giai
đoạn hội nhập cao hơn nữa.
Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính trị và độ tin
cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền lực, các thành viên chỉ giữ lại một số
thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các quyền lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc
gia. EU hiện nay là một mô hình hội nhập chính trị cao.
Thông thường hội nhập chính trị là bước đi sau cùng trên cơ sở các nước liên quan đã
đạt đến trình độ hội nhập kinh tế và văn hóa-xã hội rất cao. Sự hình thành Liên bang Hoa Kỳ,
Liên bang Canađa trước đây và EU hiện nay cơ bản theo phương thức này. Tuy nhiên, trong
những bối cảnh nhất định, hội nhập trong lĩnh vực chính trị có thể đi trước một bước để mở
đường thúc đẩy hội nhập trong các lĩnh vực khác. Trường hợp ASEAN thể hiện khá đặc biệt
sự kết hợp nhiều tiến trình hội nhập. Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu tồn tại, ASEAN chủ yếu là
một cơ chế hợp tác khu vực về chính trị-ngoại giao nhằm đối phó với những thách thức đối
với an ninh quốc gia của các thành viên. Một số học giả nhìn nhận ASEAN như là một định
chế/chế độ quốc tế (international regime) về chính trị-an ninh ở khu vực Đông Nam Á. Nói
Trang 12 | 30


một cách khác, đây là dạng thức ban đầu của hội nhập chính trị-an ninh. Sau giai đoạn khởi
đầu chủ yếu bằng hội nhập sơ khai về chính trị-an ninh, từ cuối thập niên 1970 trở đi, ASEAN
mới bắt đầu triển khai hợp tác về kinh tế và chỉ từ gần giữa thập niên 1990, ASEAN mới thực
sự bắt đầu tiến trình hội nhập kinh tế. Hội nhập văn hóa-xã hội phải đợi đến khi ASEAN
thông qua Hiến chương năm 2008 mới được triển khai.
1.2.3. Hội nhập an ninh-quốc phòng
Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá trình gắn kết họ với các
nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh. Điều này đòi hỏi các nước hội nhập

phải tham gia vào các thỏa thuận song phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ
sở các nguyên tắc chia sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các
hoạt động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng...
Có nhiều kiểu liên kết an ninh-quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên những hình thức chủ
yếu được nhiều nước sử dụng như sau:
- Hiệp ước phòng thủ chung: Đây là hình thức khá phổ biến trong thời kỳ Chiến tranh lạnh khi
mà thế giới được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi là hệ thống hai cực) giữa một bên là các
nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo và bên kia là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ
đứng đầu. Hàng loạt tổ chức phòng thủ chung đã được hai phe lập ra để thực hiện các mục
tiêu chính trị và an ninh-quốc phòng, chẳng hạn như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO), Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO), Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO),
Hiệp ước Liên minh Úc-Niudilân-Mỹ (ANZUS), Tổ chức Hiệp ước Vác-xô-vi. Nguyên tắc
của các tổ chức phòng thủ chung là: (i) các nước tham gia phải có chung kẻ thù bên ngoài, khi
một nước nào đó tấn công một thành viên của khối thì nước đó được coi là kẻ thù của cả khối
và tất cả các thành viên cùng hành động chống lại kẻ thù đó; (ii) các thành viên có chính sách
phòng thủ chung; (iii) các thành viên cùng đóng góp lực lượng vũ trang tham gia vào lực
lượng chung của khối đặt dưới một bộ chỉ huy chung.
Đây là phương thức liên kết quân sự rất cao, đòi hỏi các thành viên phải đồng về ý
thức hệ và cùng chia sẻ cao về quan điểm, chính sách an ninh-quốc phòng, chiến lược quân sự
và có trình độ phát triển kỹ thuật quân sự cũng như năng lực tác chiến không quá chênh lệch.
Phương thức liên kết này cũng đòi hỏi các thành viên phải chấp nhận chịu sự hạn chế về chủ
quyền quốc gia và trao một phần thẩm quyền quốc gia cho một cơ chế chung siêu quốc gia.
Trang 13 | 30


- Hiệp ước liên minh quân sự song phương: Đây là hình thức cổ điển rất phổ biến trong lịch
sử quan hệ quốc tế xưa và nay. Phần lớn, nếu như không nói là hầu hết, các nước đều có hiệp
ước liên minh với một hoặc một số nước khác, trong đó có quy định về trợ giúp quân sự trong
những tình huống cần thiết. Mỹ có hiệp ước liên minh quân sự song phương với Nhật, Hàn
Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Philipin. Việt Nam cũng đã có Hiệp ước liên minh với Liên Xô

cũ, Lào và Cămpuchia.
- Các dàn xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức liên kết an ninh dựa trên nguyên tắc các
thành viên cam kết không tấn công nhau, nếu có một thành viên vi phạm, sẽ dùng sức mạnh
hợp tác của cả khối để ngăn chặn và giúp giải quyết xung đột. Hội quốc liên và sau này là
Liên Hiệp quốc, Liên đoàn Ả-rập, Tổ chức thống nhất châu Mỹ (OAS), Tổ chức Thống nhất
châu phi (AU), Cộng đồng chính trị-an ninh mà ASEAN đang xây dựng là những mô hình cụ
thể của phương thức liên kết an ninh tập thể.
- Các dàn xếp về an ninh hợp tác là phương thức liên kết an ninh-quốc phòng lỏng lẻo hơn
cả, dựa trên nguyên tắc lấy hợp tác trên các lĩnh vực, từ dễ đến khó, với các hình thức đa dạng
như đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa… để xây dựng thói quen hợp tác và
sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các
thành viên. ASEAN và một loạt cơ chế khu vực liên quan như Hội nghị sau Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao (PMC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc
phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội
nghị cấo cao Đông Á (EAS)… là những mô hình cụ thể về dạng thức liên kết này.
Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng là tiến trình khó khăn hơn cả, vì nó
liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm nhất- cốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là hòa
bình, độc lập và chủ quyền.
1.2.4. Hội nhập về văn hóa-xã hội
Hội nhập về văn hóa-xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước khác;
chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế
giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát
triển văn hóa-giáo dục và xã hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng
tới xây dựng một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu
(ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các
hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-xã hội với các nước.
Trang 14 | 30


Hội nhập văn hóa-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu sắc quá trình hội

nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền vững hơn cả. Quá trình này giúp
các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày càng gần gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các
giá trị, phương thức tư duy và hành động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn
giữa các chính sách xã hội của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi
nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại, các phúc lợi xã hội đa dạng;
đặc biệt, hình thành và củng cố tình cảm gắn bó thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn
quốc gia của riêng mình (ý thức công dân khu vực/toàn cầu).

Trang 15 | 30


2. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương hội nhập quốc tế
của Đảng
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của
việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trào lưu phát
triển chung của thế giới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng việc kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, coi đây là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong đường lối quốc tế của mình. Cũng chính vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã luôn giành
được sự đồng tình, ủng hộ, sự giúp đỡ rộng rãi của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

2.1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tư tưởng mở cửa đối ngoại, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới của Đảng đã
được thể hiện rõ nét trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc (12/1946), đã long
trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”.
Đồng thời, Người khẳng định: “Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các
cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham
gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc” 1. Đây là những tư

tưởng quan trọng đặt cơ sở cho sự hình thành chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng và hội nhập quốc tế nói chung của nước ta sau này. Song, trong hoàn cảnh của cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam đã không thể thực hiện một cách đầy đủ công cuộc hội nhập
quốc tế theo những tư tưởng nêu trên.

2.2. Đại hội IV
Sau khi thống nhất đất nước, Đại hội IV của Đảng ta (1976) đã nhấn mạnh vai trò
quan trọng của kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội khẳng
định phải kết hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Theo đó, Việt Nam đã tích cực phát triển quan hệ và tham gia vào các cơ chế hợp tác của
các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế. Sự phát
triển quan hệ hợp tác kinh tế với các nước XHCN mặc dù còn mang nặng tính bao cấp
nhưng đã góp phần rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc. Mặt khác, Việt Nam cũng từng bước cải thiện quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều nước
tư bản chủ nghĩa (TBCN) dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên, quá trình
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2002, tr. 470
Trang 16 | 30


hợp tác quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh do chịu sự chi phối của cuộc
đối đầu Đông - Tây, đặc biệt là nhân tố ý thức hệ tư tưởng, nên còn những hạn chế nhất
định, chưa đạt tới hiệu quả như mong muốn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng vượt ra
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ)
và các thế lực thù địch, đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, trước hết
trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đồng thời được thực hiện tích cực
hơn.

2.3. Đại hội VI
Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội nhập quốc

tế của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với
Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời
tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các
nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình
đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết Đại hội cũng xác định nội dung chính của chính sách kinh tế
đối ngoại trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn,
khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài... Theo hướng này, Luật Đầu tư nước ngoài
được thông qua (1987), tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế,
phục vụ phát triển kinh tế, khai thác những tiềm năng nội lực của đất nước.

2.4. Đại hội VII
Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển”, mở ra bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội xác định nguyên tắc cơ
bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh
tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”2.
Chủ trương hội nhập quốc tế trước hết về kinh tế của Đảng tiếp tục được Ban Chấp
hành Trung ương và Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn. Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương Ba (khoá VII) ngày 29/6/1992 nhấn mạnh chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ
chức quốc tế, trong đó “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế
như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình

22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG,
HN 1991, tr. 119
Trang 17 | 30


Dương”. Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW (22/11/1994) giao cho Chính

phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Theo Quyết định của Bộ Chính trị (số 493
CV/VPTW ngày 14/6/1996), Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn APEC.

2.5. Đại hội VIII
Đại hội VIII của Đảng (1996) trong khi nêu rõ đường lối đối ngoại: “Việt Nam muốn
là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển” đã đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt,
song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01/NQ-TƯ
(18/11/1996,) “Về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000”, xác
định nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu để phát triển kinh tế đối
ngoại.

2.6. Đại hội IX
Bước vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường
lối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển"3. Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối
đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, không chỉ
"sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng “là đối tác tin cậy của các nước" và "chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế”. Đây là sự phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức và tư duy về đối
ngoại nói chung và về hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Nhằm cụ
thể hoá đường lối “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 07NQ/TW (27/11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ thể của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.

2.7. Đại hội X
Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại Đại hội X của Đảng
(4/2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết

lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định quan điểm: “Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội nêu 5 bài học lớn, trong đó bài học thứ 3 là bài học về hội

33 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG,
Hà Nội 2001, tr.119
Trang 18 | 30


nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Theo đó, hội nhập kinh tế quốc
tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững chắc, không
do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn. Ngày 05-02-2007, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chu
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là
thành viên cua Tổ chức Thương mại thế giới”

2.8. Đại hội XI
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội nhập
quốc tế với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới”4. Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra
thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội
nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với
qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh...
Bước phát triển này trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu
cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới. Trong quá trình hội
nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít
thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội
nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình
hội nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an
ninh đất nước5.
Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập
quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức
trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

2.9. Đại hội XII

44 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà
Nội 2011, tr.235-236
55 Theo bài viết Những điểm mới và nội dung quan trọng trong Văn kiện Đại hội XI, Báo
Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 09/04/2011
Trang 19 | 30


Đại hội Đảng XII (2016) vừa qua đã nêu ra quan điểm về việc “Đưa quá trình hội
nhập Quốc tế đi vào chiều sâu, phục vụ hiệu quả quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam” 6. Trong đó, Đại hội đã tổng kết quá trình 5
năm vừa qua, Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương với phương châm
chuyển mạnh từ tham gia tích cực lên chủ động đóng góp xây dựng, qua đó góp phần quan
trọng trong việc nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Trước những diễn biến phức tạp ở biển
Đông, bằng các biện pháp chính trị, ngoại giao, thông qua song phương và đa phương, khu
vực và quốc tế, kiên trì kiên quyết trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thúc
đẩy hợp tác hữu nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn
đề biển đông, đồng thời vẫn duy trì đoàn kết trong ASEAN, duy trì quan hệ hữu nghị với
Trung Quốc. Nhờ vậy, Việt Nam đã tranh thủ được công luận quốc tế lên tiếng ủng hộ lập
trường chính nghĩa của Việt Nam, phản đối các hành động vi phạm luật pháp quốc tế, bảo vệ

hòa bình ổn định, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tại Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ vì lợi ích quốc gia dân tộc là định
hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện nhiệm vụ thắng lợi và xây dựng bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Đại hội cũng đưa ra tầm nhìn trong 5-10 năm tới, chiều sâu của hội nhập quốc tế được
thể hiện trên các lĩnh vực như sau:
Trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đưa hội nhập đi vào chiều sâu, tức là
phải tạo dựng được đan xen gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa nước ta và các
đối tác; đưa khuôn khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất, nhất là với các đối tác có
tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh và phát triển của đất nước; tạo dựng được lòng tin
và hình thành lên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa đẩy
lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề
có thể tác động nghiêm trọng với an ninh và phát triển của đất nước ta.
Về kinh tế, năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng
đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Do vậy, đưa hội
nhập đi vào chiều sâu tức là phải tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân
bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của
doanh nghiệp Việt Nam; gia tăng mức độ tự chủ của nền kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong
chuỗi sản xuất, cung ứng ở khu vực và toàn cầu; tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh
tế trước những tác động từ bên ngoài; đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển nội

66 Theo bài viết Đưa quá trình hội nhập quốc tế vào chiều sâu, phục vụ hiệu quả sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 23/01/2016
Trang 20 | 30


lực và liên kết vùng trong cả nước. Đưa hội nhập kinh tế quốc tế đi vào chiều sâu cũng có
nghĩa là phải tận dụng được chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo
vệ được các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong

quan hệ với đối tác nước ngoài.
Trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ và các lĩnh
vực khác, đưa hội nhập đi vào chiều sâu tức là chủ động hơn trong việc nghiên cứu, chọn lựa
các bộ tiêu chí, xây dựng và triển khai lộ trình áp dụng và đồng thời tham gia xây dựng các
tiêu chí, chuẩn mực chung, góp phần nâng trình độ phát triển của nước ta trong các lĩnh vực
này; phục vụ các mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nói cách khác, đưa hội nhập đi vào chiều sâu là để tạo dựng các mối quan hệ ổn định,
lâu dài hơn với các đối tác, gia tăng tính ổn định, bền vững của môi trường chính trị, an ninh;
đưa đất nước ta lên vị trí cao hơn ở khu vực và trên thế giới.

Trang 21 | 30


3. Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội nhập quốc tế
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh
thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết
07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,
kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình hội nhập quốc tế
trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy vai trò
của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và
bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững
chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện
trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với
các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ động lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối
tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý

trong khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và
yêu cầu hội nhập. đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự kiên trì giữ
vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa
xã hội. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên
tắc cụ thể:

• Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
• Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
• Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình.
• Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của hội nhập quốc
tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng. Theo
đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa
xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí,
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới
và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế
thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên
tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc
xử lý các vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ
đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa phương
nhưng có nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích dân tộc cao nhất, đó
Trang 22 | 30


là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội XI của
Đảng chỉ rõ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo, bao gồm(7):


• Một là: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
• Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội
nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của
toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
• Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì
trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
• Bốn là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch
và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp
ứng những quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia.
• Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ
vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh
giác với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà
bình đối với nước ta.
Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và đa
phương với các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, các phong trào chính trị-xã
hội... nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta. Trong quá
trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chú trọng những hướng hoạt động đối ngoại
như: Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác
toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương; phát
triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược. Củng cố quan hệ với
các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên
thế giới; từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Tham gia các cơ chế hợp tác
chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các

(7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ chính trị số 07/NQ-TƯ Về hội nhập kinh tế quốc tế,
Nxb CTQG, Hà Nội 2002, tr. 2-4

Trang 23 | 30


nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc. Thực hiện tốt các
công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước,
các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất
là tình trạng biến đổi khí hậu. Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm:
“chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của
nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác văn hoá thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân
dân các nước. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền; song
đồng thời cũng kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn
đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, làm
mất an ninh và ổn định chính trị của nước ta...
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng có
lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt không để
thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự chia
sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham hợp tác. Trong
hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa
kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước;
đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp
tác quốc tế để can thiệp, áp đặt về chính trị.

Trang 24 | 30



4. KẾT QUẢ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
4.1. Thành tựu
Triển khai đường lối, chính sách của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định an ninh quốc gia, nâng cao
vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Trong quan hệ song phương, nước ta đã củng cố và
phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện với các nước láng giềng. Quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào tiếp tục có nhiều bước phát triển mới. Hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng
thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự
ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước.
Hiện nay, Việt Nam là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của Lào với tổng vốn đầu tư
đăng ký gần 4 tỷ USD, kim ngạch thương mại hai chiều đạt gần 1 tỷ USD.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia được thúc đẩy trên cơ sở phương châm chỉ đạo “Hợp
tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài". Hai nước đã ký
nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là
việc Campuchia cam kết công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với
Việt Nam những năm 80. Hợp tác kinh tế tiến triển thuận lợi, đến 2011 kim ngạch thương mại
hai chiều đã đạt gần 2 tỷ USD.
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và toàn diện. Khuôn khổ quan hệ
được chính thức xác định với 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai", tiếp đó được bổ sung thêm tinh thần 4 tốt: "Láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" và gần đây là “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Hai bên có nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn đề
quốc tế và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại Việt - Trung tăng trưởng nhanh, hiện mậu dịch
hai chiều đã vượt 30 tỷ USD. Việc hai nước ký hiệp ước về biên giới trên đất liền, các hiệp
định về phân định Vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ tạo điều kiện thuận lợi
xây dựng biên giới hai nước thành đường biên giới hoà bình, ổn định lâu dài để phát triển.
Nhận thức rõ vị trí của ASEAN, tầm quan trọng của hoà bình, ổn định và hội nhập khu
vực, từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi
hoạt động của ASEAN. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp

tác chính của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định
lịch sử là tăng cường liên kết tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Các nước
ASEAN hiện có hơn 1 nghìn dự án đầu tư triển khai ở Việt Nam, với số vốn đầu tư trên 13 tỉ
USD. Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai ở các nước thành viên ASEAN với
tổng vốn gần 1 tỷ USD. Mặt khác, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm vào các
Trang 25 | 30


×