Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận môn kinh tế quốc tế xu hướng thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.43 KB, 25 trang )

Trường Đại Học Dân Lập Phương Đông

THAM LUẬN
Môn Kinh Tế Quốc Tế
Đề tài : Xu Hướng Thương Mại Quốc Tế
Giảng viên hướng dẫn : Kim Ngọc
Nhóm thực hiện

: Nhóm 1

Lớp

: 514401


Tên các thành viên trong nhóm:
Nguyễn Thục Trinh
2.
Mai Thị Vân Anh
3.
Nguyễn Tiến Ngân
4.
Bùi Linh Nhi
5.
Nguyễn Anh Khoa
6.
Trần Đăng Hòa
7.
Tô Ngọc Quyết
8.
Triệu Qúy Phú


9.
Trần Thị Hòa
10. Nguyễn Huyền Linh
11. Vũ Thị Quỳnh
12. Trần Quỳnh Anh
13. Phùng Quang Huy
14. Nguyễn Tuấn Hưng
15. Nguyễn Huy Hoàng
16. Nguyễn Trung Kiên
17. Trần Duy Minh
1.


Lời mở đầu
Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn
đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác
kinh tế khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực, trong đó
thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm. Thương
mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh
doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hóa và dịch
vụ vượt ra khỏi biên giới các quốc gia. Trong những thập kỷ vừa qua,
khi xu hướng toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, thương mại quốc tế đóng
vai trò ngày càng tăng đối với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới.
Thương mại quốc tế mở ra cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp và người
tiêu dùng trên toàn thế giới. Nhờ có thương mại quốc tế mà các doanh
nghiệp có thể mở rộng sản xuất, đáp ứng không chỉ cho thị trường nội
địa mà cho cả thị trường nước ngoài. Thương mại quốc tế mang lại cho
người tiêu dùng tại các nước sự lựa chọn đa dạng hơn về hàng hóa và
dịch vụ.
Đây chính là tiểu luận của nhóm chúng em : “xu hướng thương

mại quốc tế”
Tiểu luận gồm 3 chương:
• Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế
• Chương 2 : Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế
• Chương 3 : Tình hình Việt Nam hiện nay và những cơ hội
thác thức trong tương lai

3


Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản xề thương mại quốc tế.
1.Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước
thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là
một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng
biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là một lĩnh vực quan trọng
nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc
tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, thương mại
quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ
thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy,
phải coi thương mại quốc tế như một tiền đề một nhân tố phát triển kinh
tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động
và chuyên môn hoá quốc tế.
Thương mại quốc tế một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối
của đất nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế.
Mặt khác, phải tính đến lợi thế tương đối có thể được theo quy luật chi
phí cơ hội. Phải luôn luôn tính toán cái có thể thu được so với cái giá
phải trả khi tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế để có
đối sách thích hợp. Vì vậy để phát triển thương mại quốc tế có hiệu quả

lâu dài cần phải tăng cường khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
Không phải ngay khi hình thành xã hội loài người đã xuất hiện thương
mại quốc tế. Thương mại quốc tế chỉ được hình thành khi có đầy đủ các
điều kiện: sự hình thành của Nhà nước, sự phát triển của phân công lao
động xã hội và sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Để thương mại quốc
tế có thể phát triển một cách mạnh mẽ, cần đảm bảo bốn nguyên tắc cơ
bản: nguyên tắc cắt giảm thuế quan, nguyên tắc không phân biệt đối xử
trong quan hệ thương mại, nguyên tắc minh bạch và nguyên tắc cạnh
tranh tự do, lành mạnh.
4


Để cắt giảm thuế quan, các nước thực hiện thuế quan hóa các biện
pháp phi quan thuế. Đây là quá trình trong đó các biện pháp hạn chế
thương mại khác được chuyển dần thành thuế quan với mức độ bảo hộ
tương đương. Nhờ đó, việc đàm phán giảm mức độ bảo hộ thương mại
giữa các nước có thể tiến hành thuận lợi.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc cơ bản nhất, được
coi là nền tảng của thương mại quốc tế. Nguyên tắc này yêu cầu các
nước phải dành cho nhau nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (NT). Bằng việc áp dụng hai nguyên tắc này, các nước
sẽ xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong thương
mại quốc tế.
Nguyên tắc cạnh tranh tự do và lành mạnh là yêu cầu bắt buộc để
thương mại quốc tế hoạt động hiệu quả. Nguyên tắc này đòi hỏi các
nước tham gia thương mại quốc tế phải giải quyết được hai tập quán
thương mại không lành mạnh thường xảy ra trong thương mại quốc tế là
trợ cấp xuất khẩu và bán phá Xu hướng phát triển của Thương mại quốc
tế 3 giá. Chỉ trong môi trường cạnh tranh tự do và lành mạnh mới thúc

đẩy sự phát triển của thương mại quốc và phát huy tối đa những lợi ích
mà việc tham gia thương mại quốc tế mang lại.
2. Một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế đã ra đời cách đây hàng ngàn năm. Nhưng phải
đến thế kỷ 15 thì mới xuất hiện những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc
và những lợi ích từ thương mại quốc tế.Trước hết, là tư tưởng của chủ
nghĩa trọng thương. Tư tưởng trọng thương xuất hiện và phát triển ở
Châu Âu từ giữa thế kỷ XV, XVI, thịnh hành suốt thế kỷ XVII, tồn tại
đến giữa thế kỷ XVIII. Lý luận của trường phái trọng thương là một
bước tiến đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học. ý nghĩa tích cực của tư
tưởng này đối lập với tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ là coi trọng kinh
5


tế tự cấp, tự túc. Ngoài ra nó đã đánh giá được tầm quan trọng của xuất
khẩu và vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết
hoạt động XNK để đạt cán cân thương mại thặng dư thông qua các công
cụ thuế quan, bảo hộ mậu dịch trong nước... Những tư tưởng này đã góp
phần quan trọng vào việc mở rộng hoạt động thương mại quốc tế và làm
cơ sở lý luận hình thành chính sách thương mại quốc tế của nhiều quốc
gia.
2.1 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Năm 1776, trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc", A.Smith đã phê
phán quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải. Ông xuất phát từ một
chân lý đơn giản là trong thương mại quốc tế các bên tham gia đều phải
có lợi vì nếu chỉ có quốc gia này có lợi mà quốc gia gia khác lại bị thiệt
thì quan hệ thương mại giữa họ với nhau sẽ không tồn tại. Từ đó ông
đưa ra lý thuyết cho rằng thương mại giữa hai nước với nhau là xuất
phát từ lợi ích của cả hai bên dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng
nước .

Theo Adam Smith, sức mạnh làm cho nền kinh tế tăng trưởng là do sự
tự do trao đổi giữa các quốc gia, do đó mỗi quốc gia cần chuyên môn
vào những ngành sản xuất có lợi thế tuyệt đối. Một hàng hoá được coi là
có lợi thế tuyệt đối khi chi phí sản xuất tính theo giờ công lao động quy
chuẩn để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá đó phải thấp hơn nước khác.
Do vậy các quốc gia, các công ty có thể đạt được lợi ích lớn hơn thông
qua sự phân công lao động quốc tế nếu quốc gia đó biết tập trung vào
việc sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế tuyệt đối, đồng
thời biết tiến hành nhập khẩu những hàng hoá kém lợi thế tuyệt đối. Như
vậy điều then chốt trong lập luận về lợi thế tuyệt đối là sự so sánh chi
phí sản xuất của từng mặt hàng giữa các quốc gia.

6


A.smith và những nhà kinh tế học cổ điển theo trường phái của ông
đều tin tưởng rằng, tất cả mọi quốc gia đều có lợi ích từ ngoại thương và
đã ủng hộ mạnh mẽ tự do kinh doanh, hạn chế tối đa sự can thiệp của
chính phủ vào hoạt động kinh doanh nói chung, trong đó có XNK. Ông
cho rằng ngoại thương tự do là nguyên nhân làm cho nguồn tàinguyên
của thế giới được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và phúc lợi quốc tế
nói chung sẽ đạt được ở mức tối đa. Cũng theo học thuyết của A.Smith,
lợi thế tuyệt đối được quyết định bởi các điều kiện tự nhiên về địa lý, khí
hậu và kỹ năng tay nghề chỉ nước đó mới có mà thôi, về tay nghề là
nguyên nhân của mậu dịch quốc tế và quyết định cơ cấu của mậu dịch
quốc tế. Tuy vậy khác với tư tưởng trọng thương đã tuyệt đối hoá quá
mức vai trò của ngoại thương, Adam Smith cho rằng ngoại thương có
vai trò rất lơn nhưng không phải là nguồn gốc duy nhất của sự giàu có.
Sự giàu có là do công nghiệp, tức là do hoạt động sản xuất đem lại chứ
không phải do hoạt động lưu thông. Theo ông, hoạt động kinh tế (bao

gồm cả hoạt động sản xuất và lưu thông) phải được tiến hành một cách
tự do, do quan hệ cung cầu và biến động giá cả thị trường quy định. Sản
xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Đó là những câu hỏi
cần được giải quyết ở thị trường.
2.2 Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh).
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối trên đây của Adam Smith cho thấy một
nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, nước
đó sẽ thu được lợi ích từ ngoại thương, nếu chuyên môn hoá sản xuất
theo lợi thế tuyệt đối. Tuy nhiên chỉ dựa vào lý thuyết lợi thế tuyệt .ối thì
không giải thích được vì sao một nước có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn so
với nước khác, hoặc mọt nước không có mọt lợi thế tuyệt đối nào vẫn có
thể tham gia và thu lợi trong quá trình hợp tác và phân công lao động
quốc tế để phát triển mạnh các hoạt động thương mại quốc tế. Để khắc
phục những hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối và cũng để trả lời cho
7


câu hỏi trên, năm 1817, trong tấc phẩm nổi tiếng của mình "Những
nguyên lý của kinh tế chính trị", nhà kinh tế học cổ điển người Anh
David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh nhằm giải thích tổng
quát, chính xác hơn về sự xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế.
Cơ sở của lý thyết này chính là luận điểm của D.Ricardo về sự khác
biệt giữa các nước không chỉ về điều kiện tự nhiên và tay nghề mà còn
về điều kiện sản xuất nói chung. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc, bất
kỳ quốc gia nào cũng có thể tìm thấy sự khác biệt này và chuyên môn
hoá sản xuất những sản phẩm nhất định dù có hay không lợi thế về tự
nhiên, khí hậu, tay nghề. D.Ricardo cho rằng, trên thực tế lợi thế tuyệt
đối cuả mỗi quốc gia không có nhiều, hơn nữa thực tế cho thấy là phần
lớn các quốc gia tiến hành buôn bán với nhau không chỉ ở những mặt
hàng có lợi thế tuỵệt đối mà còn đối với cả những mặt hàng dựa trên lợi

thế tương đối. Theo ông mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân
công lao động quốc tế trên cơ sở khai thác lợi thế tương đối, ngoại
thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nguyên
nhân chính là do chuyên môn hoá sản xuất một số loại sản phẩm nhất
định của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu của các nước khác thông qua
con đường thương mại quốc tế vì mỗi nước đó đều có lợi thế so sánh
nhất định về một số mặt hàng.
Liên quan đến lợi thế so sánh có một khái niệm rất cơ bản trong kinh
tế học đã được D.Ricardo đề cập đến đó là chi phí cơ hội. Nó là chi phí
bỏ ra để sử dụng cho một mục đích nào đó.
Như vậy có thể kết luận rằng, một trong những điểm cốt yếu nhất của
lợi thế so sánh là những lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất, mặt khác
thương mại quốc tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải là lợi
thế tuyệt đối. Lợi thế so sánh là điều kiện cần và đủ đối với lợi ích của
thương mại quốc tế. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith là một trường hợp
đặc biệt của lợi thế so sánh. Về cơ bản, lý thuyết của D.Ricardo không
8


có gì khác với A.smith, nghĩa là ông ủng hộ tự do hoá XNK, khuyến cáo
các chính phủ tích cực thúc đẩy, khuyến khích tự do hoá thương mại
quốc tế.
2.3 Phát triển lý thuyết lợi thế tương đối-Mô hình Hechscher-Ohlin.
Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo sang đầu thế kỷ XX, sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã thể hiện những hạn chế của nó. Lợi
thế do đâu mà có? Vì sao các nước khác nhau lại có phí cơ hội khác
nhau?...Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo đã không giải thích
được những vấn đề trên. Để khắc phục những hạn chế này, hai nhà kinh
tế học Thuỵ Điển: Eli Hecksher (1879-1852) và B.Ohlin(1899-1979)
trong tác phẩm: “Thương mại liên khu vực và quốc tế”, xuất bản năm

1933 đã phát triển lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo thêm một
bước bằng việc đưa ra mô hình H-O (tên viết tắt của hai ông) để trình
bày lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có (hay lý thuyết HO). Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng TMQT là do trong một nền
kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng tới chuyên môn hoá các ngành sản
xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là
thuận lợi nhất. Nói cách khác, theo lý thuyết H-O, một số nước có lợi thế
so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là
do việc sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó đẫ sử dụng được những
yếu tố sản xuất mà nước đó được ưu đãi hơn so với nước khác. Chính sự
ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (bao gồm: vốn,
lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến cho một số nước có chi
phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác)
trong sản xuất những sản phẩm nhất định.
Như vậy cơ sở lý luận của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào lý
thuyết lợi thế so sánh của Ricardo nhưng ở trình độ cao hơn là đã xác
định được nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố
sản xuất (các nguồn lực sản xuất ). Và do vậy, lý thuyết H-O còn được
9


gọi là “lý thuyết lợi thế so sánh các nguồn lực sản xuất vốn có”. Thuyết
này đã kế thừa và phát triển một cách logic các yếu tố khoa học trong lý
thuyết lợi thế so sánh của Ricardo và các lý thuyết cổ điển trước đó về
TMQT.
Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức
tạp của TMQT ngày nay, song quy luật H-O vẫn là quy luật chi phối
động thái phát triển của TMQT và được nhiều quốc gia vận dụng trong
hoạch định chính sách TMQT. Sự lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu phù
hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có theo thuyết
H-O sẽ là điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển có thể nhanh

chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác TMQT, và trên cơ
sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế ở những nước này.
2.4 Thuyết chu kỳ sống sản phẩm.
Thuyết chu kỳ sống sản phẩm do K.Verum đề xướng năm 1966, sau đó
được nhiều học giả phát triển và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó
lý thuyết TMQT.
Nội dung cơ bản của học thuyết này như sau: rất nhiều sản phẩm phải
trải qua một chu kỳ sống bao gồm bốn giai đoạn: giới thiệu; phát triển;
chín muồi và suy thoái. Để kéo dài chu kỳ sống của một sản phẩm, xét
trên quy mô thị trường thế giới, các hãng thường hay thay đổi địa điểm
sản xuất, mở rộng sản xuất sang khu vực thị trường khác tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn của chu kỳ sống. Kết quả là tạo nên quan hệ thương mại
giữa các quốc gia về sản phẩm đó và quan hệ này thay đổi tuỳ theo các
giai đoạn của chu kỳ: Giai đoạn giới thiệu: vì là sản phẩm mới, còn sản
xuất độc quyền nên giá cao, sản lượng tiêu thụ ít, chủ yếu ở nước phát
minh ra sản phẩm. Giai đoạn phát triển: sản lượng sản xuất và tiêu thụ
tăng mạnh, nhiều nhà sản xuất cùng tham gia sản xuất các sản phẩm
10


tương tự, cạnh tranh tăng; nhà sản xuất mới bắt đầu xuất khẩu sản phẩm
sau tìm cách di chuyển địa điểm sản xuất sang các quốc gia gần gũi về
mức sống và văn hoá. Giai đoạn chín muồi: sản phẩm cạnh tranh mạnh,
giá hạ, thị phần giảm, giá giảm. Sau khi cải tiến thay đổi mẫu mã, kiểu
dáng, nhà sản xuất tìm cách mới đầugiới thiệu, phát triển thị trường sau
di chuỷen địa điểm sản xuất sang các nước kém phát triển hơn. Giai
đoạn suy thoái: sản phẩm đã lão hoá, chủ yếu chỉ còn thị trường ở những
nước đang phát triển. Trong giai đoạn này có hiện tượng xuất khẩu
ngược sản phẩm về các nước công nghiệp phát triển do một bộ phận dân

cư vẫn còn có nhu cầu về sản phẩm.
2.5 Thuyết bảo hộ hợp lý.
Ngược lại với trào lưu của các học thuyết ủng hộ tự do hoá thương
mại, thuyết boả hộ với nhiều biến tướng khác nhau được phát triển và
vận dụng trong chính sách TMQT của một số quốc gia trong đó có Mỹ,
Đức (cuối thế kỷ XIX) và nhiều nước đang phát triển trong quá trình
phát triển công nghiệp hoá như Hàn Quốc, Brazin...(giữa thế kỷ XX). Tư
tưởng cơ bản của thuyết này là nếu áp dụng chính sách tự do hoá thương
mại có nhiều ngành sản xuất được gọi là “ngành công nghiệp non trẻ”
cần thiết phải duy trì nhưng có nuy cơ bị tiêu diệt trước sự cạnh tranh
của hàng hoá nước ngoài, do đó cần phải có các biện pháp bảo vệ các
ngành sản xuất này. Đại diện của thuyết này là A.Hamilton (Mỹ) từng đề
xuất và được áp dụng thành công chính sách bảo hộ một số ngành công
nghiệp miền bắc nước Mỹ (cuối thế kỷ XIX); F.List với chính sách bảo
nhộ ngành công nghiệp Đức cũng vào cuối thế kỷ XIX. Về sau, thuyết
bảo hộ được phát triển bởi nhiều nhà khoa học như Hirofumi Ito
Akamasu, Wanatabe (Nhật Bản), Kurnets (Mỹ) với mô hình “Chuỗi thay
đổi cấu trúc”, theo đó trong điều kiện công nghiệp hoá, nhiều sản phẩm
mới đầu được nhập khẩu, sau đó được tổ chức thay thế nhập khẩu với sự

11


bảo hộ nhất định và cuối cùng lại được xuất khẩu trong điều kiện cạnh
tranh.
Như vậy, cho đến nay có khá nhiều học thuyết về TMQT đã được đề
xuất, phát triển và ứng dụng. Tuy nhiên chưa có một lý thuyết nào đủ
mức hoàn chỉnh để có thể dựa vào đó để hoạch định chiến lược và chính
sách XNK của quốc gia. Hơn nữa một số học thuyết hoặc chỉ đưa ra mô
hình chính sách trong điều kiện tĩnh, chưa khai thác các yếu tố động của

bản thân hoạt động kinh tế, hoặc chỉ được lý luận với những mô hình
phức tạp. Tuy nhiên, tất cả các học thuyết dù ít hay nhiều vẫn còn chỗ
đứng trong điều kiện hiện đại và cần phải nghiên cứu vận chúng.
Ngày nay các lý luận gia hiện đại về TMQT trên cơ sở kế thừa và phát
triển các học thuyết TMQT đã đưa ra các quan điểm, các lý thuyết khác
nhau về TMQT với 3 trường phái chính: trường phái thứ nhất ủng hộ tự
do mậu dịch và có các tên gọi biến tướng như mở cửa, tự do hoá ngoại
thương, hướng vào xuất khẩu. Trường phái thứ ủng hộ bảo hộ mậu dịch
và có tên gọi biến tướng như đóng cửa thay thế nhập khẩu, mô hình đàn
ngỗng trời. Trường phái thứ ba kết hợp 2 kiểu chính sách trên với liều
lượng khác nhau.

Chương 2 : Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế
1. Bối cảnh kinh tế thế giới.
Bước sang một giai đoạn chuyển đổi mới, bức tranh kinh tế thế giới
năm 2014 trở nên sáng sủa hơn khi những nỗ lực trong việc điều hành
chính sách kinh tế của các quốc gia phần nào đạt được kết quả mong
muốn; kinh tế thế giới từ nay đến năm 2015 có triển vọng phục hồi khá,
với sự phục hồi của phần lớn các nền kinh tế dẫn dắt đà tăng trưởng của
kinh tế thế giới như Mỹ, Nhật Bản và phần lớn các nền kinh tế đang nổi
và sự phục hồi của các lĩnh vực chủ yếu của kinh tế thế giới như thương
mại, đầu tư. Đây là bước tạo đà cho nền kinh tế thế giới lấy lại đà tăng
12


trưởng cho giai đoạn 2015-2020 với sự phục hồi tăng trưởng của hầu hết
các nền kinh tế dẫn dắt đà tăng trưởng của kinh tế thế giới (bao gồm Mỹ,
EU, Nhật Bản,…) và của các lĩnh vực chủ yếu kinh tế thế giới như
thương mại, đầu tư. IMF (1/2014) dự báo kinh tế thế giới sẽ tăng
trưởng ở mức 3,7% vào năm 2014, 3,9% vào năm 2015. Sang giai đoạn

2016-2018, nền kinh tế thế giới đều có mức tăng trưởng trên 4%.
Đặc điểm nổi bật về xu hướng phát triển thương mại quốc tế ngày
nay là:
1. Nội dung hoạt động thương mại rộng lớn mang tính quốc tế, chi
phối hầu hết các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội. Do đó, thương mại
ngày nay không chỉ là những hoạt động mua bán sản phẩm hàng hóa vật
thể mà còn bao gồm cả những hành vi mua bán và dịch vụ phi vật thể,
tất cả đều nhằm thu lợi nhuận.
2. Hình thành các loại hình công ty, tập đoàn lớn, công ty xuyên
quốc gia, đa quốc gia, với phạm vi hoạt động không biên giới và hình
thành các tổ chức, hiệp hội thương mại khu vực và toàn cầu. Phạm vi tác
động của thương mại quốc tế ngày nay mang ý nghĩa vô cùng sâu rộng,
bao gồm nhiều thành phần thương mại, nhiều thương nhân và hợp thành
mạng lưới chằng chịt các loại hình kinh doanh và dịch vụ; vừa liên
doanh, liên kết, vừa tự do hoá, vừa độc quyền, vừa cạnh tranh, vừa hợp
tác, vừa bình đẳng và không bình đẳng trong kinh doanh, đều cùng nhau
tham gia hoạt động mua bán và dịch vụ trên thị trường, trên cơ sở hành
lang pháp luật quốc gia và luật lệ quốc tế.
3. Xu thế liên doanh liên kết thương mại song phương, đa phương,
bình đẳng ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển. Đặc điểm kinh
doanh thương mại ngày nay gồm hai chiều hướng: Một là, kinh doanh
chuyên ngành, theo một sản phẩm hay một thương hiệu nhất định thành
một hệ thống trên toàn cầu. Hai là, tổ chức mô hình những công ty, tập
đoàn kinh doanh tổng hợp với nhiều loại hình, nhiều hàng hóa và dịch
vụ khác nhau để nâng cao ưu thế cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường khu
vực và thị trường thế giới.

13



4. Tự động hóa, hiện đại hóa, áp dụng công nghệ thông tin vào
quản lý, mua bán qua mạng, hoạt động kinh doanh và dịch vụ mang tính
phổ biến và ngày càng phát triển.
5. Do cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt, thương mại
không ngừng cải tiến phương thức phục vụ hiện đại và luôn luôn đổi
mới dịch vụ theo xu hướng lấy người tiêu dùng làm trọng tâm và coi
khách hàng như "thượng đế".
2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia và các vùng kinh tế.
Kinh tế Mỹ, trong năm 2013 đã khởi sắc, thị trường việc làm cũng có
nhiều dấu hiệu khả quan, do đó FED quyết định cắt giảm dần gói QE3.
Theo đó, sau khi cắt giảm số tiền mua trái phiếu hàng tháng từ 85 tỷ
USD xuống còn 75 tỷ USD vào tháng 1/2014 thì FED tuyên bố sẽ tiếp
tục thu hẹp gói cứu trợ QE-3 xuống còn 65 tỷ USD mỗi tháng trong biên
bản cuộc họp ngày 19/2/2013. Với đà nền kinh tế tiếp tục đi đúng hướng
và thị trường lao động về tổng thể diễn biễn tích cực, dự báo nền kinh tế
mỹ sẽ tăng trưởng ở mức 2,8% vào năm 2014, 2,7% vào năm 2015 và
đạt mức 3,1% cho giai đoạn 2016-2020.
Khu vực châu Âu đến năm 2015 sẽ phục hồi ổn định với mức tăng
trưởng GDP của khu vực Eurozone đến năm 2015 sẽ tăng 1,4% dựa trên
sự tăng trưởng mạnh của các lĩnh vực như đầu tư và xuất nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các vấn đề đáng quan ngại như lạm phát, thất nghiệp của
khu vực sẽ dần được giải quyết. Dự báo đầu tư của khu vực Eurozone
đến năm 2015 sẽ chiếm 18,204% GDP, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
và dịch vụ tăng 3,7%; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng
3,461% trong khi tỷ lệ lạm phát sẽ là 1,465%; thất nghiệp cải thiện hơn
chút ít (chiếm 11,9% lực lượng lao động).
Từ năm 2015 đến 2020 sẽ là thời kỳ tăng trưởng kinh tế được tăng tốc
hơn tại khu vực này. Cụ thể, đến năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP của
14



EU-27 và khu vực Eurozone tương ứng là 1,8% và 1,5%, và cho giai
đoạn 2016-2020 tương ứng là 2,3% và 2,2%. Dự báo này căn cứ vào
việc dự kiến tăng trưởng đầu tư của khu vực sẽ ở mức 20,2% GDP, thâm
hụt ngân sách trở về mức 2,1% GDP, nợ công trung bình đạt 97% GDP,
tổng tiết kiệm quốc gia đạt 17,4% GDP,…
Kinh tế Nhật Bản đã đạt được một số kết quả nhất định năm trong
năm 2013 nhờ chính sách nới lỏng tài khóa và tiền tệ của thủ tướng Abe.
IMF (1/2014) đã nâng dự báo tăng trưởng Nhật Bản năm 2014 lên 1,7%
nhưng dự đoán tốc độ này sẽ chậm lại xuống còn 1% trong năm 2015 do
các biện pháp cải tổ cấu trúc để bảo vệ đà phục hồi không triệt để. Năm
2016, con số này có thể tăng lên 1,2% nhưng sẽ giảm xuống 1,1% trong
hai năm tiếp theo là 2017 và 2018. Trung tâm dự báo nền kinh tế Nhật
Bản sẽ tăng trưởng ở mức 1,4% vào năm 2014, 1,2% vào năm 2015 và
0,9% cho giai đoạn 2016-2020.
Đối với nền kinh tế Trung Quốc, IMF (1/2014) quan ngại vấn đề về
biến động thị trường tài chính và tình hình nợ công ở quốc gia này. Theo
đó, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc 2014 tăng 7,6% và năm
2015 nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới chỉ tăng 7,3% nếu quốc gia này
không giải quyết được các vấn đề như cầu nội địa và đưa ra những chính
sách kinh tế phù hợp. Trong dài hạn, kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục hạ
nhiệt và duy trì ở mức 7%/năm từ năm 2016-2020 . Để đạt mục tiêu
này, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những thách thức như cạnh tranh
toàn cầu về vốn, tài nguyên và khả năng tham gia các tổ chức quốc tế
như G-7, cũng như giải quyết được các vấn đề nội tại trong nền kinh tế
và “Đại cải cách kinh tế” thành công. Với việc đưa thêm giả định Trung
quốc tăng dần tỷ giá hối đoái mục tiêu giữa đồng Nhân dân tệ so với
đồng USD, ở mức 2,5%/năm cho giai đoạn 2014-2016, dự báo nền kinh
tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng ở mức 7,2% vào năm 2014, 6,9% vào năm
2015 và 6,8% cho giai đoạn 2016-2020 (Biểu 1, Bảng 1).

(TBKTSG Online) - Cục thống kê Trung Quốc sáng nay 19-1 công
bố số liệu sơ bộ cho biết tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2015
15


của nước này đạt 67,6708 tỉ nhân dân tệ tính theo giá so sánh, tốc độ
tăng trưởng là 6,9% - mức thấp nhất kể từ năm 1990, theo báo Wall
Street Journal.

Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ năm 1990-2015. Cột dọc là tốc độ tăng
trưởng (%). Cột ngang là năm. Ảnh: WSJ

Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế đang nổi nhìn chung có xu
hướng phục hồi khá từ 2015 đến năm 2020. Trong đó Braxin sẽ đạt tốc
độ tăng trưởng 3,2% trong năm 2015 và 3,1% trong năm 2020. Ấn Độ
có tốc độ tăng trưởng 5% trong năm 2015 và 4,3% trong năm 2020. Hàn
Quốc có tốc độ tăng trưởng khoảng 3,5% trong năm 2015 và 3,6% trong
năm 2016. Xingapo có tốc độ tăng trưởng 4,4% trong năm 2015 và 5,4%
trong năm 2020.
Thương mại thế giới được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 5,1% vào
năm 2014, 5,4% vào năm 2015, 5,39% vào giai đoạn 2016-2020.
Thương mại thế giới giai đoạn 2016-2020 sáng sủa hơn nhờ TPP. Đây là
16


bước tạo đà cho nền kinh tế thế giới lấy lại đà tăng trưởng cho giai đoạn
2016-2020 với sự phục hồi tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế dẫn
dắt đà tăng trưởng của kinh tế thế giới (bao gồm Mỹ, EU, Nhật Bản,…)
và của các lĩnh vực chủ yếu kinh tế thế giới như thương mại, đầu tư.
Bức tranh tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2016, 2017 so với 2015


Nguồn: ADB, Ngân hàng Thế giới, Nghiên cứu của ANZ

Chương 3 : Tình hình Việt Nam hiện nay và những cơ hội
thác thức trong tương lai.
1. Việt Nam trong xu hướng phát triển thương mại quốc tế.

Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm khai
thác triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để
chiếm lĩnh và mở rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới cho
mình.
17


Lợi thế so sánh là những điều kiện và khả năng thuận lợi (hoặc khó
khăn) của một nước này so với nước khác trong việc sản xuất cùng một
loại sản phẩm hàng hóa hay kinh doanh và dịch vụ thương mại trong
những thời điểm nhất định, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho mỗi
quốc gia.
Lợi thế so sánh thương mại quốc tế bao gồm ba loại: lợi thế so sánh tự
nhiên vốn có, lợi thế so sánh nảy sinh do sự phát triển của lực lượng sản
xuất và lợi thế so sánh phát sinh do đổi mới chủ trương, chính sách và cơ
chế quản lý Nhà nước. Khi nói về lợi thế tuyệt đối, A-đam Xmít, nhà
kinh tế học cổ điển, cho rằng một nước chỉ nên sản xuất những loại hàng
hóa sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên sẵn có của họ để có lợi nhuận
cao nhất. Việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho
cả hai bên, nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ
từ chối tham gia vào thương mại quốc tế.
Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại quốc tế, các quốc gia phải
biết lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế so sánh

tốt nhất và nhập khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi nhất.
Đây cũng là một bài học mà chúng ta đã rút ra qua hơn 20 năm đổi mới
nền kinh tế. Một số sản phẩm của nước ta đang có lợi thế tuyệt đối trên
thị trường quốc tế cần phải đẩy mạnh xuất khẩu.

Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để phát
triển và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại thế giới, cần đa phương hóa, linh hoạt hoá
thị trường, mở rộng buôn bán với nhiều nước. Song ở giai đoạn trước
mắt đối với nước ta kinh tế chưa phát triển cao, các điều kiện về khoa
học – kỹ thuật còn nhiều hạn chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa
chọn những mặt hàng có chất lượng cao xây dựng thành thương hiệu
quốc tế và những thị trường có khả năng và ưu thế riêng đối với mình để

18


khai thác và tham gia xuất, nhập khẩu buôn bán thương mại, dịch vụ,
trên cơ sở đó từng bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.

Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thương mại cả ở thị
trường trong nước và thị trường ngoài nước. Đây là vấn đề hết sức cần
thiết để phát triển lành mạnh thị trường trong nước làm cơ sở hậu
phương cho phát triển thị trường ngoài nước. Thị trường trong nước phát
triển vững chắc là điều kiện quan trọng để mở rộng thị trường ra ngoài
nước, đẩy mạnh xuất khẩu và chủ động nhập khẩu của nước ta, ngược
lại thị trường ngoài nước được phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường trong nước phát triển mạnh hơn, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và
đời sống.


Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với WTO và các cam kết song
phương khác về thương mại. Việc này chỉ có lợi cho ta, một mặt chứng
tỏ với thế giới rằng Việt Nam là nước làm ăn nghiêm chỉnh đúng luật,
đúng cam kết; mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới và đặc
biệt là của tổ chức thương mại thế giới WTO, khi chúng ta gặp phải
những khó khăn, rào cản và tranh chấp về thương mại quốc tế.

Năm là, phát huy tốt vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước về
thương mại. Để phát huy đến mức cao nhất lợi thế so sánh thương mại,
thì điều quan trọng là phải có những con người quản lý có tri thức mới
về thương mại, cùng với những cơ chế, chính sách thương mại đúng đắn
phù hợp điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ mới và
phù hợp xu thế phát triển và hội nhập kinh tế – thương mại khu vực và
thế giới. Do vậy, vấn đề cốt lõi để thực hiện mục đích trên là phải nhận
thức đúng đắn vai trò quan trọng quản lý Nhà nước đối với thương mại
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhà nước phải làm tốt chức năng
quản lý kinh tế vĩ mô nói chung và quản lý hoạt động thương mại quốc
tế nói riêng.

19


Hình 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2004-2014 (đơn vị: %).
Nguồn: Tổng Cục Thống kê 2014

Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò là người định
hướng chiến lược, quy định khung pháp luật, đề ra những mục tiêu
chung cho sự phát triển, công bằng, thống nhất điều hoà các quyền lợi
chung và cá nhân.
Nhìn chung các nước hiện nay, kể cả các nước đã phát triển và các

nước chậm và đang phát triển đều coi trọng việc kết hợp giữa cơ chế thị
trường tự do và sự điều tiết của Nhà nước trong quản lý kinh tế thị
trường để nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ quốc tế là xu hướng tất
yếu của tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước đã phát triển; do
năng lực sản xuất ngày càng lớn, cho nên luôn luôn ở tình trạng thiếu thị
trường tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất. Hoạt động thương mại quốc tế
ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị trường thế giới ngày càng gay gắt
là tất yếu. Trong tình hình đó, để có lợi thế trong quan hệ thương mại thế
giới, chen chân được vào thị trường thế giới và bảo đảm không thất bại
thì nước ta cần có những chính sách thương mại quốc tế khôn ngoan,
linh hoạt, mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện của nước mình, vừa phù
20


hợp thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo luật
lệ của "sân chơi" thị trường quốc tế.
2. Việt Nam trong TPP giai đoạn 2016-2020.
Trong giai đoạn 2016 – 2020, các chuyên gia kỳ vọng tăng trưởng
kinh tế sẽ hồi phục bởi hàng loạt yếu tố hỗ trợ như giá hàng hóa thấp,
lực đẩy từ các doanh nghiệp FDI cùng với các cải cách về thể chế của
nền kinh tế. Dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong 5 năm tới sẽ ở
mức 6,5 – 7%; kiểm soát lạm phát trong khoảng 5 – 7% và bội chi ngân
sách nhà nước đến năm 2020 cũng giảm còn 4,8% GDP.
– Trích dẫn : Báo Lao Động
3. Cơ hội của Việt Nam khi tham gia vào TPP.
Tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài
chính thế giới. Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng
mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và
tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn. Tham gia TPP chắc

chắn thúc đẩy đầu tư của các nước vào Việt Nam. Tính đến nay, đầu tư
trực tiếp của các nước TPP vào Việt Nam đạt hơn 100 tỷ USD vốn đăng
ký của những dự án còn hiệu lực, chiếm gần 40% tổng lượng vốn FDI
của Việt Nam. Dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình độ phát
triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và
kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn.
Mức tăng đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ
hội cho Việt Nam khai thác các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp. Các
công ty dệt may nội địa và nước ngoài sẽ đẩy mạnh đầu tư tại Việt Nam
để tận dụng cơ hội hưởng thuế xuất khẩu thấp vào TPP. Như vậy, ngành
dệt may Việt Nam không chỉ nhận ưu đãi từ thị trường Hoa Kỳ, mà còn
đạt giá trị gia tăng lớn hơn trong chuỗi cung ứng. Gia nhập TPP sẽ mở ra
cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm hiện đại hóa sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn
cầu. Thỏa thuận TPP sẽ giảm đáng kể thuế nhập khẩu áp dụng cho các
hàng may mặc Việt Nam vào thị trường các quốc gia thành viên, qua đó
gia tăng cạnh tranh với hàng hóa tương tự từ các nước khác trong khu
21


vực. Ngoài ra, TPP cũng quy định các hàng hóa Việt Nam phải sử dụng
nguyên liệu tự sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các thành viên
TPP. Điều này thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như
mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam.
4. Thách Thức của Việt Nam khi tham gia vào TPP.
Bên cạnh những thuận lợi lớn, TPP cũng đặt ra nhiều thách thức
lớn, đó là, mặc dù xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất
khẩu chưa mang tính hiệu quả, chủ yếu xuất khẩu hàng có công nghệ
thấp, thâm dụng lao động như hàng may mặc, giày dép, đồ nội thất...
Xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu thô, chưa qua sơ chế hoặc gia công đã

khiến việc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng
hóa… trở nên yếu. Quy mô DN xuất khẩu nhỏ, không thâm nhập được
vào hệ thống phân phối chính khiến các DN xuất khẩu trở nên không
bền vững, không chi phối được thị trường. Tham gia TPP sẽ tạo ra sức
ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các DN Việt Nam. Nếu
không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp
khó khăn. Ngành chăn nuôi sẽ đối mặt sự cạnh tranh quyết liệt.
Việt Nam cũng sẽ gặp phải thách thức cạnh tranh, có thể dẫn tới phá sản
và tình trạng thất nghiệp ở các DN có năng lực cạnh tranh yếu, không
được chuẩn bị kỹ cho hội nhập; việc giảm thu ngân sách từ giảm thuế
nhập khẩu sau khi thực hiện TPP. Hơn nữa, việc giảm thuế quan có thể
khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam gia tăng, với
giá cả cạnh tranh hơn. Thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị
ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Sản phẩm nông nghiệp, doanh
nghiệp và nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, nhất là
các hàng nông sản và nông dân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất
trong hội nhập.

22


Kết luận
Có thể nói, thương mại quốc tế đang phát triển theo nhiều xu hướng
khác nhau. Những xu hướng phát triển mới của thương mại quốc tế có
tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Nhận thức đúng đắn và nắm bắt được những xu
hướng vận động của thương mại quốc tế là hết sức cần thiết đối với quốc
gia nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng. Đề tài: “Xu hướng
thương mại quốc tế” hi vọng đưa ra được cái nhìn tổng quan nhất về các
xu hướng phát triển của thương mại quốc tế ngày nay.

Việc đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ quốc tế là xu hướng
tất yếu nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy phát triển
kinh tế. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng cũng dẫn đến
cạnh tranh thị trường thế giới ngày càng gay gắt. Trong tình hình đó, để
có lợi thế trong quan hệ thương mại thế giới, đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế và tránh được những rào cản của thương mại quốc tế thì nước ta
cần có những chính sách thương mại quốc tế khôn ngoan, linh hoạt,
mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện của nước mình, vừa phù hợp thông
lệ quốc tế, vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo những cam kết
thương mại song phương và đa phương mà nước ta đã ký kết.

23


Mục Lục
Lời mở đầu………………………………………………………….1
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế…………..2
1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế….....2
2. Một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế……………………..3
2.1 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith……………………….4
2.2 Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh)………………………5
2.3 Phát triển lý thuyết lợi thế tương đối-Mô hình Hechscher-Ohlin…7
2.4 Thuyết chu kỳ sống sản phẩm……………………………………..8
2.5 Thuyết bảo hộ hợp lý ……………………………………………..9

Chương 2 : Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế………….10
1. Bối cảnh kinh tế thế giới……………………………………………10
2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia và các vùng kinh tế.....12

Chương 3 : Tình hình Việt Nam hiện nay và những cơ hội thác thức

trong tương lai………………………………………………………..15
1. Việt Nam trong xu hướng phát triển thương mại quốc tế…………15
2. Việt Nam trong TPP giai đoạn 2016-2020………………………..19
3. Cơ hội của Việt Nam khi tham gia vào TPP………………………19
4. Thách Thức của Việt Nam khi tham gia vào TPP…………………20

KẾT LUẬN………………………………………………………21
24


25


×