Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Tổng kết các dạng câu hỏi và kĩ năng làm bài thi môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 51 trang )

Tổng kết các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Your dreams – Our mission

Số trang: 312. Khổ A4
Giá bìa: 149.000 vnđ
_____________________________________________
☀ Hãy để Lovebook biến ước mơ của em thành hiện thực ☀

➡ Hãy đọc sách Lovebook để chắc chắn có được 1 tấm vé vào đại học và các trường chuyên nổi tiếng
trên cả nước.
➡ Hãy đọc sách Lovebook để thưởng thức các kinh nghiệm, kiến thức của các thủ khoa, các giáo viên
hàng đầu trong cả nước.

➡ Hãy đọc sách Lovebook để có thể xây dựng những đề thi thử THPT quốc gia, bài kiểm tra chất lượng.
_____________________________________________
🎵 LOVEBOOK - Vươn tới sự hoàn hảo 🎵
🎁 Danh mục sách và chính sách khuyến mãi: lovebook.vn - goo.gl/XeHwk5
🎬 Video bài giảng: youtube.com/nhasachlovebook
☎ Hotline bán hàng: 0963 140 260 (Ms Nguyệt), 0981 553 885 (Ms Hoài).
☎ Hotline chuyên môn: 0981 553 882 (Mr Duy).
☎ Hotline liên kết phát hành: 0965 944 141 (Mr Thùy)
📖 Diễn đàn học tập: />🔰 Tài liệu hay: />✉ Đăng ký nhận tài liệu thường xuyên: />🌟 Website đào tạo:


Tổng kết các dạng câu hỏi
và kỹ năng làm bài thi
môn Ngữ Văn
2.0

Chữ ký và lời chúc của tác giả hoặc thành viên Lovebook



..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
Sách gốc phải có chữ ký của
tác giả hoặc của thành viên Lovebook. Bất kể cuốn
...........................................
sách nào không có chữ ký đều là sách lậu, không phải do Lovebook phát hành.

Lời chúc
& kí tặng

..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................

..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
...............

LOVEBOOK.VN



Tổng kết các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi
đầu trước giông tố!
Đặng Thùy Trâm
Hãy phấn đấu vươn lên không chỉ bằng khối óc mà
bằng cả con tim của mình nữa!
Lương Văn Thùy
LOVEBOOK tin tưởng chắc chắn rằng em sẽ
đỗ đại học một cách tự hào và hãnh diện nhất!

Bản quyền thuộc về Công Ty Cổ Phần Giáo Dục Trực Tuyến Việt Nam – VEDU Corp
Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương
tiện nào mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của công ty.


GIA ĐÌNH LOVEBOOK

TỔNG KẾT CÁC DẠNG CÂU HỎI
VÀ KỸ NĂNG LÀM BÀI THI
MÔN NGỮ VĂN
Sách dành cho:
 Học sinh lớp 12 chuẩn bị cho kì thi Tuyển sinh Đại học, Cao đẳng (KÌ THI THPT QUỐC GIA 2016)
 Học sinh lớp 10, 11: Tự học Ngữ văn, chuẩn bị sớm và tốt nhất cho KÌ THI THPT QUỐC GIA
 Học sinh mất gốc Ngữ văn, học kém Ngữ văn, sợ Ngữ văn, thiếu phương pháp và kĩ năng làm bài thi
môn Ngữ văn.
 Học sinh muốn đạt 9,10 trong kì thi Tuyển sinh Đại học, Cao đẳng (KÌ THI THPT QUỐC GIA 2016)
 Học sinh thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông

 Thí sinh đại học muốn ôn thi lại môn Ngữ văn
 Người yêu thích môn Ngữ văn, muốn tìm kiếm một cuốn sách chứa những phân tích, tìm tòi thú vị,
sáng tạo và độc đáo.

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


NHÀ XUẤN BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
16 Hàng Chuối – Hai Bà Trưng – Hà Nội
Điện thoại: Biên tập – Chế bản: (04) 39714896;
Quản lý xuất bản: (043) 9728806; Tổng biên tập: (04) 397 15011
Fax: (04) 39729436

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Giám đốc – Tổng biên tập: TS. PHẠM THỊ TRÂM
Biên tập: NGUYỄN THỊ HUỆ
Chế bản: CÔNG TY CỔ PHẦN GIÁO DỤC TRỰC TUYẾN VIỆT NAM – VEDU CORP
Trình bày bìa: NGUYỄN SƠN TÙNG
Sửa bản in: LƯƠNG VĂN THÙY – TĂNG HẢI TUÂN
Đối tác liên kết xuất bản:
CÔNG TY CỔ PHẦN GIÁO DỤC TRỰC TUYẾN VIỆT NAM – VEDU CORP
Địa chỉ: 101 Nguyễn Ngọc Nại, Thanh Xuân, Hà Nội

SÁCH LIÊN KẾT
TỔNG KẾT CÁC DẠNG CÂU HỎI VÀ KỸ NĂNG LÀM BÀI THI MÔN NGỮ VĂN
Mã số: 1L – 544 ĐH2015
In 1000 cuốn, khổ A4 tại Nhà máy in Bộ Tổng Tham Mưu
Địa chỉ: K13 đường Ngọc Hồi, Thanh Trì, Hà Nội
Số xuất bản: 2639 – 2015/CXB, IPH/4 - 324/ĐHQGHN, ngày 14/09/2015

Quyết định xuất bản số: 559 LK-TN/ QĐ – NXBĐHQGHN, ngày 01/10/2015
In xong và nộp lưu chiểu năm 2015.


Tổng kết các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Your dreams – Our mission

LỜI MỞ ĐẦU
Quý thầy cô giáo, các bạn học sinh và toàn thể các bạn yêu Văn thân mến!
Kì thi THPT Quốc gia đã rất gần trước mắt các bạn. Để có một phương pháp ôn tập tốt, một tài
liệu ôn tập hiệu quả là điều vô cùng cần thiết với các bạn. Trước vô vàn tài liệu phong phú trên thị trường
sách ôn luyện thi môn Văn hiện nay, chúng tôi – những sinh viên đại học từng là thủ khoa, á khoa các
trường đại học trong nước như Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội… và những sinh viên
từng đạt giải nhất, nhì, ba trong kì thi học sinh giỏi Văn toàn quốc năm 2012 – đã trăn trở và viết nên
cuốn sách luyện thi này cho các bạn, đặc biệt là các em học sinh chuẩn bị tham dự kì thi THPT Quốc
gia: Cuốn sách mang tên “Tổng kết các dạng câu hỏi và kĩ năng làm bài thi môn Ngữ văn trong kì thi
THPT Quốc gia”.
Cuốn sách được viết dựa trên cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ GD&ĐT năm 2015. Phần thứ nhất
của sách là phần hướng dẫn chi tiết các kĩ năng, phương pháp để viết được một bài văn hay, đạt điểm
cao trong các kì thi THPT Quốc gia. Phần này của cuốn sách được viết bởi tác giả Nguyễn Thế Hưng,
là á khoa trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2012 (điểm thi môn Văn của Hưng là 9,0 điểm). Trong
phần này, Hưng đã chia sẻ một cách chân thành những kinh nghiệm của mình khi viết Văn một cách chi
tiết sẽ giúp các em hiểu cần phải triển khai ôn tập như thế nào, tiến hành viết bài (cụ thể là cách triển
khai ý, cách trình bày bài, cách diễn đạt…) để các em có thể đạt điểm cao trong các bài thi tốt nghiệp
THPT và tuyển sinh đại học - cao đẳng của mình. Những kinh nghiệm đó là kết quả quý báu đã được
kiểm nghiệm qua chính quá trình ôn luyện của tác giả sẽ giúp các em có thể đọc tham khảo để áp dụng
trong quá trình ôn thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học - cao đẳng của mình một cách tốt nhất và
hiệu quả nhất.
Phần thứ hai là điểm nhấn của cuốn sách, phần này triển khai nội dung chi tiết thành các dạng đề

cụ thể. Các dạng đề được triển khai công phu và chi tiết, được kiểm duyệt qua nhiều lần sửa chữa, hứa
hẹn sẽ đem đến cho các em những kiến thức cần thiết và vô cùng chắt lọc để các em yên tâm làm bài thi
tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học - cao đẳng của mình. Mỗi dạng đề đều được viết theo cấu trúc
chính gồm các phần như sau: Giới thiệu dạng đề (hướng dẫn về xu hướng tiếp cận đề bài đối với những
dạng đề mới, hoặc những dạng đề mà các em còn băn khoăn về xu hướng ra đề); phần kĩ năng chính khi
làm bài (gồm các nội dung như: cách làm bài thi đối với dạng đề; các lưu ý học sinh cần biết về cách
trình bày, cách triển khai ý…; những sai lầm học sinh thường mắc phải); phần những đề bài và hướng
dẫn cụ thể (ở phần này chúng tôi sẽ triển khai thực hiện những đề bài mẫu cho học sinh, một số đề bài
được triển khai thành dàn ý chi tiết, một số đề bài được triển khai thêm bài viết mẫu cụ thể cho học sinh).
Về cụ thể, mười dạng đề được triển khai trong cuốn sách “Tổng kết các dạng câu hỏi và kĩ năng làm bài
thi môn Ngữ văn trong kì thi THPT Quốc gia” như sau:
Phần thứ nhất: KỸ NĂNG VIẾT BÀI VĂN HAY – CÁC DẠNG ĐỀ, KIỂU ĐỀ THI
THƯỜNG GẶP VÀ PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI THI MÔN NGỮ VĂN
LOVEBOOK | I


Tổng kết các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Your dreams – Our mission

Phần này tác giả sẽ chia sẻ những kinh nghiệm quý báu nhất trong quá trình học Văn thế nào cho
hiệu quả, làm bài văn cần phải đảm bảo những yêu cầu như thế nào. Bên cạnh đó là cách phân bố nội
dung ôn tập thế nào cho hiệu quả đối với từng loại kiến thức cụ thể và cuối cùng là chia sẻ phương pháp
để các em làm bài thi một cách tốt nhất.
Phần thứ hai: CÁC DẠNG ĐỀ BÀI CỤ THỂ
1. Dạng bài Đọc – hiểu (3 điểm)
2. Dạng bài làm văn (7 điểm)
+ Dạng bài Nghị luận xã hội (3 điểm)
+ Các dạng bài Nghị luận văn học (4 điểm).
Trong mỗi dạng đề, tác giả triển khai thành ba phần chính:

- Nhận dạng đề thi
- Những lưu ý về phương pháp làm bài và các sai lầm cần tránh mắc phải
- Các đề bài cụ thể và hướng dẫn chi tiết cách làm
Phần thứ ba: PHỤ LỤC
+ Tuyển tập một số đề Đọc – hiểu tham khảo
+ Tuyển tập đề thi của Bộ GD & ĐT những năm gần đây.
Chúng tôi hi vọng sẽ cung cấp cho các em một cuốn sách thực sự hiệu quả và bổ ích cho kì thi
THPT Quốc gia sắp tới. Trong quá trình biên soạn, chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy cô và các bạn học sinh.
Chúc các bạn thành công!

LOVEBOOK | II


Tổng kết các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Your dreams – Our mission

LỜI CẢM ƠN
Để có được thành quả như ngày hôm nay, nhóm tác giả viết sách “Tổng kết các dạng câu hỏi và kĩ
năng làm bài thi môn Ngữ văn” đã trải qua rất nhiều khó khăn, trở ngại, có rất nhiều cố gắng và nỗ lực
trong cả vấn đề chuyên môn và một số vấn đề khác liên quan trong quá trình thực hiện cuốn sách. Tuy
nhiên, cuốn sách sẽ không thể trở thành một sản phẩm tuyệt vời như các bạn đang cầm trên tay nếu
không có sự giúp đỡ, hướng dẫn sát sao từ những “người bạn” đặc biệt.
Đội ngũ tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới anh Lương Văn Thùy, Giám đốc công ty
VEDU đồng sáng lập GSTT Group, người luôn đặt vào nhóm niềm tin sắt đá về thành công của cuốn
sách, luôn động viên, chia sẻ với các tác giả trong lúc khó khăn hay gặp vướng mắc về những vấn đề
liên quan đến việc hình thành cuốn sách. Nếu không có sự hỗ trợ rất lớn của anh, chắc chắn đội ngũ tác
giả sẽ không thể hoàn thành sản phẩm này.
Đội ngũ tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giảng dạy chuyên môn tại các trường Đại

học, THPT chuyên trên địa bàn một số tỉnh thành. Các thầy cô không chỉ là nguồn sáng tinh thần cho
đội ngũ tác giả trong quá trình hoàn thành sách mà hơn cả, chính các thầy cô là người đã chỉ dẫn, bảo
ban nhóm trong quá trình viết, sửa những lỗi mà các tác giả mắc phải để cuốn sách được hoàn thiện như
ngày hôm nay. Đó là những nhà giáo mà chúng tôi luôn ngưỡng mộ và kính mến:
- TS. Trịnh Thị Lan, giảng viên khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cô đã giúp nhóm
tác giả rất nhiều trong việc tìm hiểu, phân tích mẫu đề thi minh họa mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, cô luôn là một tấm gương sáng về tinh thần làm việc hăng say và đầy trách nhiệm để chúng em học
hỏi, noi theo.
- Th.S Bùi Hoàng Yến, giáo viên Ngữ văn trường THPT Chuyên Vĩnh Phúc – một nhà giáo mẫu
mực, cô đã góp phần rất lớn trong việc sửa chữa đề bài để cuốn sách trở nên hoàn thiện hơn.
- Th.S Lương Thị Tuyết Mai, giáo viên Ngữ văn trường THPT Chuyên Thái Bình, cô đã cùng
chúng em điều chỉnh những sai sót mà chúng em vô tình mắc phải trong suốt quá trình biên soạn sách.
Cuốn sách sẽ không thể hoàn thành trọn vẹn nếu thiếu sự chỉ bạo tận tình của cô.
- Th.S Lại Thu Hiền, giáo viên Ngữ văn trường THPT Chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa – một nhà
giáo vững về chuyên môn và có tâm với nghề. Cô đã truyền cho chúng em niềm đam mê và ngọn lửa
nhiệt huyết đối với Văn học.
- Th.S Trần Bá Hưng, giáo viên Ngữ văn trường THPT Nguyễn Siêu, Hưng Yên, thầy là nguồn cổ
vũ tinh thần vô cùng to lớn cho chúng em hoàn thành cuốn sách một cách tốt nhất.
Đội ngũ tác giả cuốn “Tổng kết các dạng câu hỏi và kĩ năng làm bài thi môn Ngữ văn” cũng xin gửi
lời cảm ơn chân thành tới đội ngũ tác giả các bộ môn khác trong nhà sách Lovebook. Chính các bạn đã
là nguồn độc lực rất lớn để nhóm tác giả chúng tôi nỗ lực hết sức mình trong việc tạo ra một sản phẩm
tốt nhất, hữu ích và thiết thực nhất cho độc giả. Với mục tiêu đem tất cả cái tâm của một tác giả lên hàng
đầu, đội ngũ tác giả Lovebook luôn hướng đến hiệu quả đạt được của độc giả sau khi sử dụng sách.
Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là tất cả tâm huyết của đội ngũ tác giả, chúng tôi mong muốn nó
sẽ là cuốn cẩm nang quý báu giúp các bạn chinh phục được ước mơ của mình.

LOVEBOOK | III


Tổng kết các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0


Your dreams – Our mission

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG SÁCH
Cuốn sách “Tổng kết các dạng câu hỏi và kĩ năng làm bài thi môn Ngữ văn” được triển khai thành
bố cục như sau: Cuốn sách gồm có ba phần chính:
Phần thứ nhất: Kỹ năng viết bài văn hay – các dạng đề, kiểu đề thi thường gặp và phương pháp
làm bài thi môn Ngữ văn.
Phần thứ hai: Các dạng đề bài cụ thể
Phần thứ ba: Phụ lục
Để sử dụng cuốn sách một cách hiệu quả, học sinh có thể theo chỉ dẫn dưới đây:
Trước tiên học sinh nên đọc kĩ phần thứ nhất để nắm được những kiến thức cơ bản về các kiểu dạng
đề, các kĩ năng làm bài thi hiệu quả cũng như những phương pháp tích cực mà các em có thể sử dụng
trong quá trình các em ôn tập, làm bài thi. Phần này được tác giả Nguyễn Thế Hưng viết rất kĩ và chi tiết
về các tiêu chí đánh giá thế nào là một bài văn hay, đạt kết quả cao; hệ thống kiến thức mà các em cần
phải nắm được trong quá trình ôn tập; cách phân bố thời gian và dung lượng kiến thức sao cho phù hợp
với nhau để quá trình ôn tập được hiệu quả nhất; chỉ ra cho các em những phương pháp ôn thi một cách
hiệu quả đối với từng dạng đề, phương pháp làm bài thi một cách tối ưu nhất (Các em lưu ý: Khi đọc
phần này, có những kinh nghiệm nhỏ mà các em cảm thấy tâm đắc, có thể áp dụng hiệu quả vào việc ôn
thi, làm bài thi của mình, hãy ghi ngắn gọn ra giấy hoặc đánh dấu vào sách để lưu ý và áp dụng)
Sau khi đọc xong phần hướng dẫn những kĩ năng cơ bản, học sinh cần đọc kĩ mục lục của phần thứ
hai để hình dung được tổng thể các dạng đề mà các em có thể gặp phải trong quá trình làm bài thi. Để
dễ nhớ, các em có thể vẽ thành sơ đồ ra giấy về các dạng bài này. Sau đó các em có thể học theo hai
cách: Cách thứ nhất là học theo trình tự từng dạng, làm đề, đọc lại đáp án tham khảo, bổ sung vào bài
của mình những ý cần thiết và ghi nhớ. Cách thứ hai là các em tập trung vào những dạng bài mà các em
cho là mình còn chưa vững phần đó trước, cũng giải quyết tương tự như trên, học xong dạng nào nhớ
đánh dấu vào sách để biết là mình đã học, sau đó khi cần thì ôn lại. Các em nên nhớ, rèn luyện thật nhiều
sẽ tạo nên thành công, do đó hãy không ngừng luyện tập.
Phần phụ lục là phần tham khảo của sách, các em có thể sử dụng nó để tra cứu cũng như bổ sung
thêm kiến thức.

Trên đây là hướng dẫn cơ bản về cách sử dụng sách, đội ngũ tác giả mong muốn học sinh sẽ sử dụng
hiệu quả cuốn sách này. Ngoài ra, khi có bất cứ thắc mắc gì, các em có thể liên lạc với đội ngũ tác giả,
các tác giả sẽ cố gắng giải đáp vấn đề một cách tốt nhất.

LOVEBOOK | IV


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

PHẦN THỨ NHẤT:
KỸ NĂNG VIẾT BÀI VĂN HAY – CÁC DẠNG ĐỀ, KIỂU ĐỀ THI
THƯỜNG GẶP VÀ PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI THI MÔN NGỮ VĂN
I. TÂM SỰ CỦA TÁC GIẢ
Các em học sinh thân mến!
Trong dòng đời tấp nập, các em có bao giờ tạm ngừng một phút giây nào đó, lắng lòng trước một
áng văn hay, rung động trước một câu thơ trữ tình, tha thiết? Có bao giờ các em học Văn không đơn
thuần như một môn học mà hơn cả là học cách các em làm người, cách các em cảm nhận cuộc sống,
cách các em hiểu về những chân lí của cuộc sống một cách chân thực nhất, sinh động nhất qua các tác
phẩm văn chương? Nếu câu trả lời là có thì chắc hẳn Văn đã trở thành người bạn trong cuộc sống của
các em. Hãy biết trân trọng giá trị đó bởi người yêu Văn vô cùng đáng quý. Học Văn là cả một quá
trình khổ luyện lâu dài và khó khăn nhưng để viết được một bài văn hay thì không phải là điều không
thể đối với các em, nếu các em chăm chỉ rèn luyện với một phương pháp đúng đắn. Tính đến thời điểm
này, khi các em cầm trên tay cuốn sách này, Văn đã là người bạn đồng hành với các em hơn mười
năm, Văn đã trở thành những điều vô cùng quen thuộc đối với các em, là thứ mà các em phải đối diện
hằng ngày. Nếu các em lựa chọn cuốn sách này cho giá sách của mình, các tác giả tin rằng trong các
em luôn có một niềm đam mê nhất định đối với môn Văn, luôn cầu tiến trong việc học, và đó cũng lại
là điều vô cùng đáng quý.
Văn học không chỉ là một môn học thuần kĩ năng và kiến thức, điểm tựa của môn học nằm ở một

tâm hồn nhạy cảm của mỗi cá nhân. Khi viết một bài văn, các em cần coi đó như một đứa con tinh thần
của mình, phải biết chăm chút và làm sao cho nó được hoàn thiện nhất. Nếu như các môn khoa học tự
nhiên và một số môn khoa học xã hội thuần kiến thức (Lịch sử, Địa lí…) thì các em chỉ cần nắm vững
cách làm bài và có một kiến thức vững chắc là có thể được điểm cao thì Văn lại cần nhiều hơn thế.
Văn học khó nhưng vẫn là niềm hấp dẫn muôn đời của các em vì chính sự phong phú mà đôi khi vì nó
mà các em băn khoăn, trăn trở.
Khi viết một bài văn, có nhiều yếu tố chi phối để nó có thể trở thành một bài văn đạt chất lượng
hay không, và tùy từng kiểu đề, dạng đề mà các em lại có những yêu cầu cần thiết để viết bài. Tuy vậy,
khung chuẩn của một bài văn hay lại không phải là điều gì trừu tượng mà hoàn toàn có thể tóm gọn
bằng những yếu tố cụ thể. Trong phần đầu tiên của cuốn sách này, tác giả sẽ chia sẻ với các em những
yếu tố cụ thể đó, những yếu tố làm nên thành công trong bài văn của các em, như sau:
Thứ nhất là kiến thức cơ bản, đây là yêu cầu quan trọng trong bất cứ một môn học nào, nhất là
các môn thuộc ngành xã hội thì việc thuộc kiến thức là điều quan trọng hơn cả. Một bài văn được điểm
cao là bài văn thể hiện người viết có kiến thức chuẩn, không sai, không có sơ hở về mặt kiến thức. Có
những bài văn từ đầu đến cuối viết rất tốt nhưng trong bài lại xuất hiện những lỗi vô cùng sơ đẳng về
tác giả (chẳng hạn niên đại của tác giả, phong cách tác giả, quê hương, gia đình…) sẽ gây mất thiện
cảm với giám khảo chấm thi. Bài thi của các em có thể bị đánh trượt vì những sai lầm nhỏ đáng tiếc
đó. Chính vì vậy, trong quá trình ôn tập, các em cần nắm một cách vững chắc kiến thức cơ bản và luôn
lưu ý rằng một bài văn được điểm cao trước hết là một bài văn đúng, rồi mới tính đến một bài văn hay
được.
Đặc biệt đối với xu hướng ra đề thi mới hiện nay, Bộ GD&ĐT đã cho dạng đề Đọc – hiểu vào kì
thi THPT Quốc gia, vấn đề kiến thức cơ bản lại càng phải đặt lên hàng đầu. Khi các em nắm vững kiến
thức cơ bản để làm một bài Đọc – hiểu, các em sẽ làm bài một cách có cơ sở và không sợ khi phải đối
diện với các mảng vấn đề các em chưa tiếp xúc. Bởi các kiến thức được đề cập đến trong đề thi chỉ có
cách diễn đạt mới, cách liên hệ mới đối với các loại kiến thức khác nhau, còn về bản chất nó vẫn là
những kiến thức các em đã gặp trong nhà trường. Bởi vậy, một khi các em đã nắm vững kiến thức cơ

LOVEBOOK.VN | 13



Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

bản về các đơn vị tiếng Việt các em được học trong chương trình phổ thông, các em hoàn toàn có thể
tự tin làm bài đối với dạng câu hỏi này.
Thứ hai là cách diễn đạt. Đây là vấn đề gây cho học sinh nhiều lo lắng nhất. Kể từ khi học phổ
thông cho đến ngày đi thi này, các em vẫn được các thầy cô nhắc nhở rất nhiều về cách diễn đạt văn
phong sao cho mạch lạc và sáng rõ nhất. Văn phong không trong sáng là thứ văn dây cà ra dây muống,
viết một đoạn dài dằng dặc tràng giang đại hải nhưng khi kết luận lại thì không hiểu mình đang viết cái
gì. Đó là lỗi thường gặp của các em học sinh luôn có quan niệm “văn viết dài thì mới được điểm cao
“nhưng lại không hề trau dồi một cách kĩ lưỡng ngôn từ, câu chữ, hình ảnh, giọng điệu viết như thế
nào mới là phù hợp. Ở cấp độ nhỏ hơn là diễn đạt trong một đoạn văn, có những em viết những câu
không liên quan đến việc phục vụ chủ đề cho đoạn, đoạn văn của các em chen thêm những câu phân
tích, bình giảng mà không phục vụ cho nội dung mà các em đang muốn hướng đến. Điều này khiến
cho bài viết của các em bị lạc giọng, là nguyên nhân dẫn đến việc mất điểm rất đáng tiếc.
Để khắc phục lỗi diễn đạt, các em cần chú trọng đến tính mạch lạc trong bài viết. Trong một
đoạn văn, các em cần có một câu chủ đề (thường đặt ở đầu đoạn để người chấm dễ theo dõi và dễ cho
điểm các em, các em sẽ ghi điểm và gây thiện cảm đối với người chấm bằng cách viết rất thông minh
này). Bài viết mạch lạc là bài viết có những đoạn văn mạch lạc, đoạn văn đó cần được thể hiện bằng
cách nêu rõ được ý chính cần viết là gì, triển khai cho luận điểm gì, được phân tích cụ thể vào đoạn
văn như thế nào. Cách diễn đạt hay sẽ khiến kiến thức mà các em phô ra trong bài viết của mình có
trọng lượng hơn. Nếu có kiến thức mà không biết trình bày một cách khoa học, không biết diễn đạt
một cách trơn tru thì kiến thức đó dẫu được đưa vào bài viết cũng không khiến vấn đề được sáng tỏ,
hơn nữa nó chỉ làm cho bài văn trở nên tủn mủn, người chấm khó theo dõi được quá trình viết của học
sinh. Một học sinh thông minh là học sinh cho người chấm biết mình có được lượng kiến thức như thế
nào, được trình bày một cách sáng rõ ra sao.
Để luyện tập được về cách diễn đạt, học sinh cần được luyện viết những đoạn văn ngắn. Trước
khi thi, học sinh cũng cần có những khoảng thời gian nhất định tự luyện viết, trước hết là một vài đoạn
văn, sau đó là viết nhiều đoạn văn để phục vụ một luận điểm nào đó của bài nghị luận. Việc luyện tập

viết từng đoạn (được phát triển dần dần để đến khi viết một bài văn hoàn chỉnh, học sinh giữ được một
thói quen viết đoạn văn có câu chủ đề, hoặc không xuất hiện câu chủ đề thì học sinh cũng cần hướng
đến đoạn văn đó phải phục vụ một nội dung cụ thể nào) là một thao tác vô cùng quan trọng đối với học
sinh. Các em nên luyện tập càng nhiều càng tốt, làm sao để bài văn của mình có sự mạch lạc, trơn tru
nhất. Nên có một chiếc đồng hồ bấm giờ để luyện viết vừa nhanh, vừa đúng yêu cầu về sự mạch lạc.
Lỗi diễn đạt là lỗi thường gặp ở học sinh, nhất là những em không thường xuyên luyện viết, các
em trở nên bỡ ngỡ và viết những câu văn dài dòng, lủng củng, vô nghĩa. Lỗi này không bị trừ điểm
nặng như lỗi về kiến thức cơ bản nhưng nếu bài thi mắc quá nhiều lỗi này thì dù các em có kiến thức
tốt, giám khảo chấm thi cũng không thể nào cho các em điểm cao được. Bởi thế, hãy luyện viết hằng
ngày, sửa diễn đạt hằng ngày để không bị mất điểm một cách đáng tiếc.
Thứ ba là về cách trình bày bài viết của các em. Những bài văn được điểm cao là những bài văn
được trình bày một cách khoa học. Cách trình bày khoa học bao gồm việc các em phải viết đúng chỉnh
tả (viết hoa đúng về tên người, tên tác phẩm văn học, tên địa danh; không được viết tắt trong bất kì
tình huống nào – một số học sinh hay viết tắt các cụm từ như “chủ nghĩa xã hội”, “xã hội chủ nghĩa”,
“sách giáo khoa”, “học sinh “thành các từ như CNXH, XHCN, SGK, HS,… việc viết tắt sẽ khiến
người chấm mất thiện cảm và đây là cách trình bày không được chấp nhận trong các bài thi THPT
Quốc gia, học sinh cần tránh mắc phải), bên cạnh đó là không mắc các lỗi về trình bày đoạn văn (chữ
cái đầu dòng được thụt vào một khoảng cách đều nhau…). Các câu hỏi phải được trình bày thành ba
phần hoàn chỉnh là Mở bài, Thân bài, Kết bài một cách rõ ràng, không nên gạch đầu dòng (ngay cả câu
hỏi 2 điểm) vì điều này sẽ làm giảm đi tính chất văn học của bài viết. Mỗi bài văn khi chuyển ý phải
xuống dòng và triển khai thành một đoạn khác một cách rõ ràng để người chấm biết. Những điều nhắc
14 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

nhở trên đây vô cùng nhỏ nhặt nhưng lại rất cần thiết đối với các em học sinh. Để luyện về cách trình
bày bài, học sinh cần luyện viết chậm để đáp ứng được các yêu cầu về hình thức, sau đó tăng dần tốc

độ viết để đảm bảo dung lượng trang giấy cần đáp ứng đối với một bài văn hoàn chỉnh.
Đối với dạng đề thi mới của Bộ GD&ĐT, học sinh cũng cần có cách trình bày khoa học. Dạng
đề Đọc – hiểu được chia nhỏ thành các ý nhỏ (theo mẫu mới nhất của Bộ GD&ĐT thì sẽ có 8 ý hỏi
nhỏ, trong đó 4 ý hỏi về một văn bản thông tin, 4 ý còn lại hỏi về một văn bản nghệ thuật) do đó học
sinh không thể trình bày thành bài văn đối với từng ý nhỏ. Học sinh cần trình bày một cách sáng rõ
từng ý trong câu hỏi một cách ngắn gọn những đầy đủ ý của câu hỏi bằng cách viết một hoặc một vài
đoạn văn có chủ đề cụ thể (tùy theo yêu cầu của đề bài, nếu có yêu cầu viết một đoạn văn thì học sinh
cần thực hiện đúng yêu cầu đó). Phần Đọc – hiểu hướng đến việc kiểm tra khả năng nhận thức, vận
dụng kiến thức của các em nên trình bày ngắn gọn, súc tích nhưng phải đảm bảo cung cấp đủ lượng
kiến thức mà đề bài yêu cầu.
Thứ tư, nhân tố khá quan trọng của một bài văn hay là hệ thống dẫn chứng phong phú và tinh
sắc. Các em lưu ý về sự phong phú phải đi kèm với sự tinh sắc của dẫn chứng. Phong phú có nghĩa là
các em cung cấp một cách toàn diện các mặt của vấn đề, mỗi vấn đề lại có những cái nhìn khác nhau,
thể hiện sự kín kẽ của vấn đề lập luận. Tinh sắc ở chỗ các dẫn chứng được lựa chọn nên là những dẫn
chứng tiêu biểu, không phải là dẫn chứng chung chung, không lột tả được vấn đề cần nói đến. Hai yếu
tố trên được kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn là điều quan trọng để bài viết trở nên sáng rõ,
mạch lạc.
Một bài văn nghị luận được điểm cao không chỉ ở chỗ phân tích dẫn chứng mà còn ở chỗ học
sinh trích dẫn được hệ thống dẫn chứng thuyết phục. Điều này không chỉ khiến cho bài văn được sáng
rõ vấn đề mà hơn cả đây là cách để bài văn của các em có cơ sở khoa học thuyết phục nhất. Lỗi không
trích dẫn chứng mà chỉ phân tích xuôi theo những gì nhớ được là điều mà học sinh rất hay mắc phải,
và lỗi này khiến cho bài viết trở nên thiếu cơ sở, thiếu tính khoa học. Theo kinh nghiệm của các thủ
khoa, á khoa các năm (trong đó có bao gồm các tác giả viết cuốn sách này), việc thuộc dẫn chứng và
trích dẫn được vào bài làm là điều quan trọng nhất dẫn đến việc bài thi của họ được điểm cao. Bài văn
từ đầu đến cuối không có một dẫn chứng nào, hoặc chỉ lẻ tẻ một vài dẫn chứng mà chỉ thuần là phân
tích, bình giảng thì kết quả sẽ không cao. Chẳng hạn khi phân tích vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú mà
học sinh chỉ chia ra các ý (dẫu là như trong đáp án) mà không hề có một dòng trích dẫn nào trong tác
phẩm thì bài văn sẽ rơi vào hiện tượng “ăn ốc nói mò”, làm việc thiếu căn cứ… Dẫn chứng không chỉ
là những hình ảnh, những chi tiết mà học sinh “nhớ mang máng” mà phải là những câu văn, những câu
thơ cụ thể của tác giả mà học sinh trích ra được. Tuy vậy không phải cứ trích nhiều dẫn chứng là học

sinh được điểm cao. Dẫn chứng được chọn trích ra cần phải là những dẫn chứng thiết yếu nhất, cần
thiết cho việc dẫn ra để phân tích tác phẩm. Trích dẫn cần kèm với phân tích và diễn giải. Học sinh
trích quá nhiều dẫn chứng không tinh sắc hoặc trích dẫn được mà không phân tích được cũng sẽ làm
hỏng bài viết của các em. Do đó việc lựa chọn dẫn chứng để trích vào bài làm cũng là điều các em cần
phải cân nhắc thật kĩ. Học sinh cần chọn lọc một cách tinh tế nhất những câu văn làm sáng rõ vấn đề
được đặt ra trong tác phẩm. Trong quá trình ôn luyện, ngoài việc đọc các bài văn tham khảo, luyện viết
những bài văn hoàn chỉnh, những đoạn văn cụ thể để phục vụ mục đích diễn đạt thì học sinh cần ôn
luyện việc thuộc dẫn chứng trong các tác phẩm. Đây là công đoạn ôn tập cực kì quan trọng sẽ được đề
cập thêm ở phần sau của cuốn sách.

LOVEBOOK.VN | 15


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

Tất cả những điều trên được tóm tắt một cách hệ thống trong bảng sau:
Tác giả khuyến khích học sinh nên nắm được những nội dung sau đây và luyện tập thật nhuần
nhuyễn chúng trước kì thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn.
Một là, kiến thức cơ bản. Điều này phục vụ cho việc viết một bài văn đúng. Để viết hay
trước hết cần phải đúng.
Hai là, cách thức diễn đạt. Điều này tạo nên tính logic cho bài văn. Một bài văn logic là bài
văn thể hiện được hết kiến thức trong quá trình ôn tập của học sinh vào bài làm. Dù quá trình ôn tập
học sinh làm việc một cách hăng say mà không thể hiện được điều đó vào bài làm thì cũng không thể
đạt được kết quả cao.
Ba là, cách thức trình bày. Điều này tạo nên tính đẹp cho bài văn.
Bốn là, hệ thống dẫn chứng phong phú và tinh sắc. Điều này khiến cho bài văn có cơ sở,
không phải là do cách học sinh suy diễn mà thành bài văn. Nhân tố này là nhân tố phân biệt những bài
thi điểm cao và những bài thi ở mức trung bình khá.

Bài làm được điểm cao là bài làm biết kết hợp được tất cả các nhân tố trên một cách nhuần
nhuyễn. Học sinh không chỉ viết để thể hiện kiến thức, biểu đạt suy nghĩ của mình mà hơn hết là trình
bày nó một cách sáng rõ, có cơ sở từ những dẫn chứng được trích nguyên văn từ tác phẩm để người
cán bộ chấm thi có thể hiểu được. Một bài văn hay được điểm cao chưa chắc là những bài văn lời lẽ
uyển chuyển, hoa mĩ mà phải là bài văn sáng rõ, đúng đắn về ý, khoa học về cách trưng bày, logic về
cách diễn đạt và phong phú về dẫn chứng.
Trên đây là những yếu tố làm nên một bài văn hay, học sinh nên đầu tư thời gian và công sức để
tích lũy, rèn luyện những yếu tố đó trở nên tốt hơn, thành thạo hơn. Để làm được điều đó, học sinh cần
ôn tập một cách khoa học. Điều này sẽ được đề cập trong phần tiếp theo của cuốn sách.
II. PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP
1. Phân bố nội dung ôn tập một cách hiệu quả
Để ôn tập một cách hiệu quả, học sinh cần phân bố nội dung ôn tập của mình một cách phù hợp.
Trước tiên, các em cần nắm vững được nội dung cụ thể cần triển khai của quá trình ôn tập của mình.
Đề thi của Bộ GD&ĐT thay đổi hằng năm để ngày càng cập nhật và phù hợp hơn với các quy chế
tuyển sinh, vì thế học sinh cũng phải có một kế hoạch ôn tập phù hợp để nắm được tất cả những nội
dung đó. Việc này xem chừng khó khăn với các em vì kiến thức để thi Văn rất nhiều, thậm chí có em
nghĩ rằng kiến thức Văn là không thể nào ôn tập bao kín được, nhất là trong một khoảng thời gian
ngắn như thế. Tuy vậy, tác giả lưu ý với các em rằng, kiến thức Văn nói riêng cũng như những bộ môn
khác nói chung đều có lượng kiến thức cố định, đặc biệt là có phần giới hạn cho từng nội dung, nếu
các em phân bố thời gian hợp lí cho từng đơn vị kiến thức thì việc các em ôn hết tất cả nội dung cần ôn
là điều hoàn toàn có thể trong khả năng của các em. Ngay cả phần Đọc – hiểu, là phần kiến thức mới
được đưa vào đề thi THPT Quốc gia những năm gần đây, vốn dĩ được mặc định rằng phần kiến thức
đó được coi là “vô vàn, vô tận” vì ngay cả những tác phẩm được đưa ra để các em đọc – hiểu cũng là
những tác phẩm hoàn toàn mới, có thể các em chưa tiếp xúc bao giờ thì tác giả cũng khẳng định rằng
phần kiến thức đó là có giới hạn, các em hoàn toàn có thể ôn tập bao kín được hết để tự tin đi thi. Bởi
dù tác phẩm có mới lạ đi chăng nữa thì những kiến thức tiếng Việt được đề cập đến trong đoạn ngữ
liệu đó là phần kiến thức tiếng Việt các em đã được học trong chương trình, các em đã có những kĩ
năng để xử lí kiến thức tiếng Việt đó ở những tác phẩm khác nhau. Như vậy, không phải là tác phẩm
gây khó khăn cho các em (vì các em chưa đọc bao giờ) mà chính khối lượng kiến thức tiếng Việt gây
khó khăn cho các em. Mà kiến thức tiếng Việt ở chương trình phổ thông là lượng kiến thức hoàn toàn

có thể cụ thể và giới hạn được ở các vấn đề nhất định. Không có lí do gì để các em không nắm được

16 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

hết toàn bộ kiến thức tiếng Việt đó, nếu các em có sự quyết tâm, cố gắng để hoàn thiện nó hằng ngày
trước khi các em bắt đầu tham dự vào kì thi của các em.
Tóm lại, kiến thức môn Văn là kiến thức hoàn toàn có thể giới hạn được, do đó các em học sinh
không nên hoang mang hoặc có suy nghĩ về lượng kiến thức là vô hạn, ngược lại các em hoàn toàn có
thể vạch ra kế hoạch ôn tập hợp lí để nhuần nhuyễn hết khối lượng kiến thức có giới hạn đó.
Nắm vững nội dung ôn tập, học sinh nên lên kế hoạch cụ thể về từng phần nội dung sẽ được ôn
trong giai đoạn nào để đến thời điểm thi sẽ nắm được toàn bộ nội dung cần ôn tập. Việc học tủ, không
toàn diện trong lúc ôn tập sẽ dẫn đến tình trạng viết không có định hướng. Điều này chắc chắn không
đem đến kết quả cao cho các em học sinh. Ôn tập toàn diện và làm chủ được toàn bộ kiến thức là cách
duy nhất để các em có được một kiến thức cơ bản hoàn chỉnh.
Về ôn tập cụ thể, các em cần lưu ý những nội dung sau đây.
1.1. Về tác giả văn học
Tác giả văn học là đơn vị kiến thức quan trọng đối với các em trong câu hỏi Nghị luận văn học
và trong một số đề bài, các em có thể vận dụng nó trong câu hỏi Đọc – hiểu.
Học sinh ngoài nắm được những thông tin cơ bản về tác giả như thời đại nhà văn, đặc điểm cơ
bản về gia đình, quê hương, sự nghiệp sáng tác (những thông tin này nhằm phục vụ cho phần Mở bài
hoặc ngay cả trong Thân bài nếu học sinh có nhu cầu đối chiếu, so sánh về đặc điểm tiểu sử của các
nhà văn) thì học sinh cần nắm vững được phong cách nghệ thuật của tác giả đó. Việc nắm vững phong
cách nghệ thuật của các nhà văn sẽ tạo một định hướng vững chắc để học sinh tiến hành xây dựng luận
điểm trong bài văn nghị luận. Nếu không nắm được những nét cơ bản nhất trong phong cách nghệ
thuật của các nhà văn thì học sinh sẽ rơi vào tình trạng ca ngợi chung chung, bài viết sẽ không có sức

thuyết phục. Ví dụ, khi nhắc đến Nam Cao, học sinh cần nắm vững phong cách nghệ thuật của ông là
nhà văn của nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, nhà văn chú ý đến “cái hằng ngày”, xoay
quanh các vấn đề người nông dân và trí thức với các hình ảnh trở thành ám ảnh trong sáng tác của ông
là miếng ăn, cái đói, cái chết và nước mắt, vấn đề về nhân tính được trở đi trở lại trong ngòi bút Nam
Cao. Nhắc đến Nguyễn Tuân là phải kể đến phong cách của một nhà văn uyên bác, tài hoa trong vốn
kiến thức sâu rộng, vốn sống phong phú và độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ Việt. Nắm vững
được phong cách nghệ thuật của nhà văn là cơ sở vững chắc để học sinh tiến hành so sánh giữa các nhà
văn một cách có định hướng, xây dựng luận điểm khi phân tích một tác phẩm bất kì của nhà văn đó.
Đối với câu hỏi Đọc – hiểu, các em lưu ý một tiêu chí ra đề của Bộ GD&ĐT là ra những đề vừa
quen, vừa lạ, kích thích sự sáng tạo của học sinh nhưng cũng không quá xa vời với các em. Do đó, các đề
bài có thể liên quan mật thiết đến các tác giả trong chương trình phổ thông. Do đó, nếu học sinh nắm được
nội dung cơ bản về tác giả trong chương trình, các em có thể sử dụng nó trong bài thi của mình trong
trường hợp đề thi lấy tác phẩm của tác giả trong chương trình phổ thông (còn tác phẩm là tác phẩm mới,
các em vẫn chưa được tiếp xúc trước đó).
Cụ thể, học sinh có thể chia các tác giả theo các giai đoạn văn học khác nhau để ôn tập. Ví dụ các tác
giả thuộc giai đoạn 1930 – 1945; các tác giả thuộc giai đoạn 1945 – 1954; các tác giả 1954 – 1975 và các
tác giả thuộc giai đoạn sáng tác sau 1975. Tất nhiên việc phân chia các tác giả theo định hướng trên chỉ
mang tính chất tương đối, bởi có tác giả có những sáng tác nổi bật ở các giai đoạn văn học khác nhau. Cách
phân loại trên chỉ là một gợi ý giúp các em nắm được thời gian sáng tác cũng như điểm lại những thành tựu
văn học cơ bản của các tác giả được nhắc đến một cách nổi bật nhất vào thời điểm nào. Học sinh hoàn toàn
có thể phân loại các tác giả theo cách của riêng mình cho dễ nhớ, dễ thuộc, tránh nhầm lẫn.
1.2. Về tác phẩm
Tác phẩm văn học là nội dung vô cùng quan trọng trong làm văn, đặc biệt đối với dạng bài nghị
luận văn học. Do đó, triển khai kế hoạch ôn tập tác phẩm văn học luôn là nhiệm vụ quan trọng, được
đặt lên hàng đầu đối với việc ôn tập. Cụ thể việc ôn tập tác phẩm văn học như thế nào sẽ được trình
bày dưới đây.
LOVEBOOK.VN | 17


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0


Lovebook.vn

Trước hết học sinh cần ý thức được việc nắm vững kiến thức về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
văn học. Hoàn cảnh ra đời bao gồm cả hoàn cảnh rộng và hoàn cảnh hẹp, đây là nội dung quan trọng
có thể được hỏi trong câu hỏi 2 điểm. Ví dụ: “Bài thơ Tây Tiến đã mấy lần đổi tên? Ý nghĩa của những
lần đổi tên đó?” là một cách hỏi về hoàn cảnh ra đời hẹp của tác phẩm. Học sinh chú ý học sâu những
tác phẩm có hoàn cảnh ra đời đặc biệt có thể dùng làm đề thi (ví dụ một số tác phẩm sau: Việt Bắc –
Tố Hữu, Chí Phèo – Nam Cao, Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm, Vợ nhặt – Kim Lân…) Bên cạnh đó,
việc nắm vững hoàn cảnh ra đời của tác phẩm sẽ giúp học sinh viết Mở bài một cách trơn tru, rất được
khuyến khích trong các bài thi THPT Quốc gia vì mang tính khoa học cao.
Thứ hai, học sinh cần nắm được nội dung chính của tác phẩm. Cụ thể như sau:
Đối với tác phẩm thơ, học sinh cần nắm được nội dung của từng đoạn thơ cũng như của cả bài
thơ. Điều này là vô cùng cần thiết vì đề thi thường trích một đoạn thơ trong chương trình và yêu cầu so
sánh với một đoạn thơ khác. Nếu học sinh nắm vững được nội dung cơ bản của tất cả khổ thơ của các
bài thơ thì khi so sánh, học sinh sẽ dễ dàng trong việc xây dựng luận điểm. Khi ôn tập phần thơ, các
học sinh thường học một cách tổng thể bài thơ theo hướng dẫn của các sách tham khảo. Do đó học sinh
có thể có kĩ năng phân tích cả bài thơ một cách trơn tru, tuy nhiên khi đặt đoạn thơ ở thế độc lập thì
học sinh lại lúng túng không biết phân tích luận điểm cũng như so sánh với đoạn thơ khác như thế nào.
Để khắc phục được khó khăn trên, thay vì ôn tập tràn lan phần thơ theo từng bài, học sinh cần tư duy
theo từng đoạn, phải nắm được rằng đoạn thơ này nói về điều gì, đoạn thơ sau nói về điều gì. Cách ôn
tập có định hướng như trên là vô cùng cần thiết nhưng thường bị các em bỏ qua và chính điều đó khiến
các em lúng túng trong việc ôn tập và đến khi thi gặp một dạng đề mới thì không biết xử trí ra sao.
Ví dụ trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có bốn khổ thơ. Khổ thơ thứ nhất là “Sông
Mã xa rồi Tây Tiến ơi! … Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” có nội dung chính là cuộc hành quân của
binh đoàn Tây Tiến giữa núi rừng miền Tây nhiều chông gai trắc trở. Khổ thơ thứ hai là “Doanh trại
bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” có nội dung chính là tái hiện tình cảm quân
dân thắm thiết như cá với nước. Khổ thơ thứ ba là khổ thơ đặc sắc nhất bài thơ là “Tây Tiến đoàn binh
không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành” có nội dung chính là xây dựng hình tượng người
lính trong sự kết hợp giữa cảm hứng bi tráng và vẻ đẹp lãng mạn. Khổ thơ cuối “Tây Tiến người đi

không hẹn ước… Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” có nội dung chính là sự gắn bó và lưu luyến của
người lính Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Như vậy, sau khi nắm vững nội dung của các khổ thơ, học
sinh sẽ có những định hướng phân tích khi đối chiếu, so sánh một khổ thơ bất kì trong bài Tây Tiến với
một khổ thơ trong bài thơ khác. Điều này khắc phục được việc có những học sinh ôn tập tràn lan, làm
được đề bài “Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng” nhưng đến khi so
sánh đoạn thơ thứ tư của Tây Tiến với một đoạn thơ trong bài thơ khác thì bỡ ngỡ vì không hiểu nội
dung đoạn thơ thứ tư nói về vấn đề gì. Để ôn tập một cách kĩ lưỡng và hiệu quả, học sinh cần ôn tập
toàn diện như vậy.
Để phục vụ dẫn chứng cho bài văn nghị luận, học sinh cần thuộc cả bài thơ có trong chương
trình sách giáo khoa (kể cả các bài dài vì chỉ khi thuộc dẫn chứng thì các em mới hiểu được nội dung
của từng khổ thơ là gì – đã đề cập đến ở trên). Có những học sinh không chịu học dẫn chứng đối với
những bài thơ dài (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm, Việt Bắc – Tố Hữu) nên gặp khó khăn trong việc
triển khai phân tích một đoạn trong các bài thơ đó. Thực tế cho thấy, đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ (cũng
như đề thi THPT Quốc gia) trong những năm gần đây thường chọn trích một đoạn trong những bài Đất
Nước – Nguyễn Khoa Điềm và Việt Bắc – Tố Hữu để học sinh phân tích. Nếu học sinh không học dẫn
chứng và nắm nội dung chính của từng đoạn thì các em sẽ không thể làm được dạng bài này. Việc
phân tích khi không có định hướng sẽ dẫn đến các bài làm ngô nghê, thiếu hàm lượng khoa học.
Bên cạnh học thuộc các dẫn chứng có trong chương trình, học sinh cần nhớ một số câu thơ ngoài
chương trình để so sánh. Thậm chí những câu thơ ngoài chương trình mà các em đọc thêm được có thể
chính là đề thi câu Đọc – hiểu theo xu hướng mới của Bộ GD&ĐT.
18 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

Đối với văn xuôi, học sinh cần nắm được nội dung chính của toàn bộ tác phẩm, tóm tắt được tác
phẩm, chỉ ra được những thành công về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó. Tác phẩm văn xuôi
khác tác phẩm thơ ở chỗ học sinh không cần nắm rõ nội dung của đoạn này nói về cái gì, đoạn khác

nói về cái gì như thơ mà ở chỗ học sinh phải nắm được nội dung bổ dọc của tác phẩm văn xuôi đó.
Dẫn chứng văn xuôi cần được học một cách nghiêm túc và thường xuyên nhắc lại trong suốt quá
trình ôn tập. Các em nên gạch chân vào tác phẩm những dẫn chứng đáng lưu ý và học thuộc chúng.
Muốn học một cách đều đặn nên chép những dòng dẫn chứng văn xuôi tâm đắc và phân bố thời gian
hợp lí để học thuộc. Việc trích dẫn dẫn chứng (nhất là dẫn chứng văn xuôi) được đánh giá rất cao trong
việc làm một bài văn nghị luận. Hai bài văn có hàm lượng kiến thức và nội dung khoa học như nhau,
bài được đánh giá cao hơn là bài có trích dẫn chứng làm cơ sở cho lập luận của mình. Có những bài
viết dài, diễn đạt tốt, luận điểm tương đối sáng rõ nhưng điểm vẫn không cao do không trích dẫn dẫn
chứng minh họa cho những luận điểm của mình. Ví dụ trong đề bài: “Phân tích vẻ đẹp hình tượng
Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân” được chia thành ba luận điểm: Huấn
Cao là một anh hùng đầy khí phách, Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa và Huấn Cao là một con người
giàu thiên lương. Tuy nhiên học sinh chỉ phân tích dựa trên nhưng chi tiết chung chung mà học sinh
nhớ được mà không hề trích dẫn những đoạn văn cụ thể mà tác giả miêu tả vẻ đẹp của Huấn Cao là
một con người khí phách, tài hoa và thiên lương trong sáng như thế nào thì bài viết sẽ không có tính
thuyết phục. Do đó, việc học dẫn chứng và trích dẫn dẫn chứng là điều vô cùng quan trọng nếu muốn
đạt điểm cao. Một số học sinh có hỏi về việc chỉ nhớ dẫn chứng “một cách mang máng, đại khái” thì sẽ
xử lí như thế nào. Đối với vấn đề trên, học sinh không cần lo lắng bởi các em có nhiều cách để trích
dẫn chứng, không dẫn được trực tiếp bằng dấu ngoặc kép (“”) thì học sinh có thể trích dẫn gián tiếp.
Việc trích dẫn gián tiếp không làm giảm giá trị của các dẫn chứng được trích ra, nhưng là một cách
hiệu quả để xử lí những trường hợp các em học sinh không nhớ chính xác dẫn chứng.
Việc chọn lọc dẫn chứng để học cũng là điều các em học sinh nên lưu ý. Các em không nên dành
quá nhiều thời gian để học dẫn chứng một cách tràn lan, chỉ nên học các dẫn chứng tiêu biểu nhất,
những chi tiết nghệ thuật đắt giá nhất, là nguồn kiến thức sẽ trợ giúp đắc lực cho các em phân tích tác
phẩm.
Một lưu ý nhỏ đối với các em khi ôn tập dẫn chứng: Như đã chỉ ra ở trên, các em không nên quá
áp lực về việc phải thuộc dẫn chứng là điều vô cùng khó khăn đối với các em. Đối với mỗi tác phẩm
văn học nằm trong phạm vi ôn tập, các em chỉ chọn lọc những dẫn chứng tiêu biểu nhất, tinh sắc nhất
trong tác phẩm đó, kết tinh những giá trị độc đáo, sâu sắc nhất của tác phẩm. Bên cạnh đó, việc trích
dẫn dẫn chứng cũng là điều các em cần lưu ý. Các em có hai cách trích dẫn dẫn chứng: Trực tiếp và
gián tiếp. Đối với các dẫn chứng các em chưa thực sự nắm vững, hãy trích dẫn một cách gián tiếp (đối

với thơ các em có thể dẫn lại một vài từ đắt giá mà các em nhớ được, đối với văn xuôi các em có thể
diễn xuôi ý mà các em nhớ được để làm dẫn chứng). Dù dẫn gián tiếp hay trực tiếp, nếu các em có sự
phân tích một cách sâu sắc, giám khảo sẽ đều cho điểm tốt. Do đó, không quá áp lực về việc học dẫn
chứng hay cảm thấy băn khoăn, lo lắng khi mình rất hay đọc sai về một lỗi nào đó trong dẫn chứng,
hoặc học mãi mà không thể thuộc được dẫn chứng. Hãy học dẫn chứng từ các tác phẩm văn học một
cách thoải mái, tự nhiên nhất, nhẹ nhàng nhất, hãy để dẫn chứng không là điều gì quá cản trở các em.
1.3. Về kiến thức xã hội
Dạng đề nghị luận xã hội là dạng đề quen thuộc và thường xuyên xuất hiện trong tất cả các đề thi
THPT Quốc gia nên học sinh cần chú ý ôn tập một cách thích hợp. Dạng đề này có phạm vi ôn tập vô
cùng rộng rãi và phong phú, điều mà học sinh cần làm là tự trau dồi những tri thức xã hội cho bản
thân. Những kiến thức xã hội cần được học bên cạnh những sự kiện được cập nhật, học sinh cần trau
dồi thêm kiến thức về những tấm gương trong lịch sử ở nhiều lĩnh vực như: thể thao, nghệ thuật, chính
trị, kinh tế, văn hóa… để làm phong phú cho hệ thống dẫn chứng của các em. Nên lưu ý và thận trọng
khi tiếp nhận các thông tin thời sự diễn ra trong thời điểm gần đây, bởi tuy nó cập nhật với thời điểm
LOVEBOOK.VN | 19


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

hiện tại nhưng lại chưa được kiểm chứng qua độ lắng của thời gian. Những thông tin các em thu thập
được có thể sẽ không được đồng tình một cách hoàn toàn bởi người cán bộ chấm thi. Do đó nên lấy
những dẫn chứng đã được kiểm chứng và công nhận bởi thời gian như tấm gương của các nguyên thủ
quốc gia, những vận động viên nổi tiếng, những nhà bác học nổi tiếng trong lịch sử… được ghi nhớ tới
bởi mọi người. Tuy nhiên tránh lặp lại những dẫn chứng đã được sử dụng quá nhiều sẽ gây cho bài làm
sự nhàm chán. Ví dụ, trong quá trình ôn tập thay vì ôn lại những tấm gương được sử dụng quá nhiều
như Bill Gates hay Nguyễn Ngọc Ký với tấm lòng nhân đạo và tấm gương vượt khó hơn người, các em
có thể nhắc đến giáo sư trẻ tuổi Ngô Bảo Châu, nhắc đến các tấm gương nhà giáo như Chu Văn An,
Dương Quảng Hàm, Lê Văn Thiêm… để làm phong phú cho dẫn chứng của bài viết. Ngay cả một dẫn

chứng đã quen, học sinh cũng phải biết “làm mới” nó bằng cách lập luận, phân tích sao để người chấm
không cảm thấy nhàm chán. Tấm gương về thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký thay vì sử dụng để nói về nghị
lực, các em hoàn toàn có thể sử dụng một cách linh hoạt bằng cách sử dụng cho đề bài khối C năm
2012 bình luận về câu nói: “Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn
tạo nên thành tựu”. Như vậy, việc lựa chọn dẫn chứng để học đã cần một sự chọn lọc tinh tế (những
dẫn chứng nào cần học, những dẫn chứng nào được coi là quá quen thuộc và đã được khai thác quá
nhiều) nhưng việc đưa những dẫn chứng xã hội vào phân tích (kể cả việc vận dụng những dẫn chứng
cũ) lại càng khó hơn. Các em cần luyện tập nhiều cho thật nhuần nhuyễn dạng đề này. Bởi chỉ khi
dành thời gian ôn tập dẫn chứng một cách nghiêm túc thì các em mới có thể viết bài văn đạt điểm cao
được.
Dẫn chứng nghị luận xã hội là vốn kiến thức của riêng các em được thu thập trong suốt quá trình
các em ôn luyện. Nguồn kiến thức xã hội có thể thu thập từ các phương tiện thông tin đại chúng, sách
báo. Các em cần chủ động tìm dẫn chứng, thu thập dẫn chứng (đặc biệt từ nguồn Internet) với những
từ khóa thông dụng để tìm dẫn chứng nghị luận xã hội như: kỉ lục thế giới, tấm gương đáng học tập,
nhà bác học, nguyên thủ thế giới, chuyện lạ, những sự kiện của năm, hiện tượng đặc biệt của thế giới,
những hoạt động xã hội có ý nghĩa nhân loại v.v… nhằm tìm kiếm những câu chuyện có thật về những
con người, những sự việc xảy ra trên thế giới và trong nước. Các em nên có một cuốn sổ nhỏ để ghi lại
những tấm gương này và dành một khoảng thời gian nhất định thuộc chúng một cách đều đặn và
thường xuyên. Nên chú ý thu thập thông tin một cách sơ lược nhưng không thể thiếu những thông tin
mang tính xác thực (ví dụ đối với sự kiện Giờ Trái đất, các em phải thu thập được thời gian diễn ra, số
lượng thống kê về tổng số quốc gia thực hiện… đối với những tấm gương trong lịch sử như vận động
viên tàn tật chạy nhanh nhất thế giới chẳng hạn, các em phải nắm được tên đầy đủ của vận động viên
đó, đôi nét về tuổi thơ, những lần thất bại và đứng lên của anh ta như thế nào, sự động viên của gia
đình và xã hội dành cho anh ta ra sao…). Những thông tin mang tính xác thực (ngược với nó là những
thông tin chung chung theo kiểu: anh ấy đã có một sự cố gắng phi thường, luyện tập ngày đêm và
không bao giờ ngừng nghỉ… sẽ không đem lại sự thuyết phục cao đối với người chấm thi) là vô cùng
cần thiết để tạo nên tính chân thực, “nói có sách, mách có chứng” trong bài văn của các em.
Lưu ý nhỏ đối với các em trong quá trình các em sử dụng dẫn chứng đã thu thập được: Một đề
bài có thể sử dụng nhiều dẫn chứng khác nhau, và một dẫn chứng cũng có thể sử dụng vào nhiều đề
bài khác nhau. Do đó, các em đừng bao giờ nghĩ dẫn chứng mình học đã là đủ, hãy tích lũy hằng ngày,

ôn tập hằng ngày để đến lúc đi thi, các em hoàn toàn tự tin với kiến thức nghị luận xã hội của mình,
hoàn toàn có thể tin tưởng làm bài nghị luận xã hội rất tốt. Hãy nhớ, luyện tập là điều vô cùng quan
trọng, do đó hãy ôn tập những gì mình đã chuẩn bị hằng ngày và sử dụng những dẫn chứng mình đã
chuẩn bị, đã sưu tầm, thu nhặt được vào những bài viết của các em, bất cứ khi nào các em có cơ hội sử
dụng nó. Đừng để lãng phí những gì chúng ta đã thu nhặt được trong quá trình ôn luyện là cách các em
vận dụng tốt nhất những gì mà các em có vào bài thi.
1.4. Về kiến thức tiếng Việt

20 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

Đây là mảng kiến thức tương đối mới mẻ và ít nhiều còn gây bỡ ngỡ đối với các em học sinh
nhưng lại là phần kiến thức vô cùng quan trọng (chiếm 3 điểm trong đề thi THPT Quốc gia, tương
đương với câu hỏi Nghị luận xã hội và chỉ kém câu hỏi Nghị luận văn học 1 điểm). Mặt khác, câu hỏi
Đọc – hiểu thường rất ngắn gọn, không yêu cầu học sinh phải trình bày một cách dài dòng, được chia
làm 8 ý hỏi nhỏ, do đó việc học sinh nắm vững mảng kiến thức tiếng Việt là vô cùng quan trọng đối
với các em. Một sơ suất nhỏ cũng có thể làm các em mất điểm và đó cũng là ranh giới giữa đỗ và trượt
đối với các em.
Nhiều người cho rằng kiến thức tiếng Việt là vô hạn bởi không biết đề bài sẽ cho vào tác phẩm
nào, do đó học sinh không thể bao quát được hết kiến thức phần tiếng Việt. Tuy nhiên thực tế lại
không phải vậy, kiến thức về tác phẩm (sẽ đưa vào đề thi) là không lường trước được nhưng kiến thức
tiếng Việt các em sử dụng để vận dụng làm phần Đọc – hiểu là phần kiến thức hoàn toàn có thể làm
chủ được. Thực chất, phần kiến thức Đọc – hiểu chính là tổng hợp kiến thức tiếng Việt các em được
tiếp xúc từ những năm học phổ thông. Tác giả đã có sự tổng hợp một cách quy mô và chi tiết, từ đó
xác định phần kiến thức tiếng Việt có bốn mảng kiến thức chính như sau:
Thứ nhất là mảng kiến thức về từ vưng – ngữ nghĩa trong tiếng Việt. Phần này các em cần nắm

được đặc điểm hệ thống từ ngữ tiếng Việt với việc phân loại từ vựng tiếng Việt theo cấu tạo (bao gồm
từ đơn, từ láy, từ ghép), các kiến thức về trường từ vựng tiếng Việt, các loại từ vựng tiếng Việt phân
theo nghĩa (từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ đồng âm – khác nghĩa). Đây là mảng kiến thức về TỪ TIẾNG
VIỆT.
Thứ hai là mảng kiến thức về ngữ pháp tiếng Việt. Phần này học sinh cần nắm được sự phân tích
ngữ pháp từ cấp độ từ, cụm từ tiếng Việt (từ loại trong tiếng Việt, các cụm từ trong tiếng Việt gồm có
cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ); cấp độ câu tiếng Việt (các thành phần câu – chính, phụ; các
kiểu câu phân loại theo cấu tạo – đơn, ghép, phức; các kiểu câu phân loại theo mục đích nói – 4 kiểu
cầu kiến, cảm thán, trần thuật, nghi vấn); cấp độ đoạn văn và văn bản tiếng Việt (các thao tác lập luận;
các phương thức xây dựng đoạn văn, các vấn đề về các phép liên kết đoạn văn). Đây là mảng kiến thức
về NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT.
Thứ ba là mảng kiến thức ở cấp độ cao hơn, đó là kiến thức về biện pháp tu từ tiếng Việt và các
phong cách ngôn ngữ tiếng Việt (gồm có sáu phong cách ngôn ngữ là phong cách ngôn ngữ sinh hoạt,
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ báo chí,
phong cách ngôn ngữ hành chính và phong cách ngôn ngữ khoa học). Đây là mảng kiến thức về
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT.
Thứ tư là các vấn đề về yêu cầu trong sử dụng tiếng Việt. Các dạng bài các em gặp đó là dạng
bài sửa lỗi sai trong một ngữ liệu nhất định. Dạng bài này chia thành các yêu cầu ở các cấp độ sau: yêu
cầu về chính tả, yêu cầu về diễn đạt (chia ra từ, câu, văn bản), yêu cầu về ngữ pháp (chia ra từ, câu,
văn bản), yêu cầu về phong cách văn bản. Đây là mảng kiến thức về YÊU CẦU SỬ DỤNG TIẾNG
VIỆT.
Trên đây là bốn mảng kiến thức tiếng Việt được tác giả thống kê một cách tương đối toàn diện
thông qua các cấp độ từ thấp đến cao, bao quát hết hệ thống kiến thức để các em học sinh có thể ôn
tập. Về nội dung cụ thể, các em có thể tìm hiểu trong các sách giáo khoa Ngữ văn các cấp Trung học
cơ sở và Trung học phổ thông để nắm được nội dung chi tiết. Khi gặp bất cứ vấn đề nào khó, không
hiểu, hãy trao đổi cùng bạn bè và thầy cô hoặc tra cứu trên các nguồn tin cậy của mạng internet để thực
sự hiểu về vấn đề đó.
Về dạng bài cụ thể, câu hỏi Đọc – hiểu hướng các em đến nhiều hình thức hỏi khác nhau. Cụ thể
các dạng bài, tác giả sẽ trình bày ở phần sau của cuốn sách. Trên đây chỉ chi ra phạm vi ôn tập cho các
em để các em có kế hoạch phân chia hợp lí khối lượng kiến thức tiếng Việt này, đảm bảo bao quát hết

toàn bộ kiến thức tiếng Việt trong quá trình ôn luyện.
2. Luyện viết một cách thường xuyên
LOVEBOOK.VN | 21


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

Để viết được một bài văn hay, học sinh không chỉ ôn tập thường xuyên về kiến thức mà còn phải
rèn luyện hằng ngày bằng cách luyện viết ở nhà. Việc luyện viết thường xuyên không chỉ giúp học
sinh tăng được khả năng diễn đạt mà còn tăng được khả năng viết nhanh. Nhiều học sinh tâm sự rằng
các em có rất nhiều ý muốn nói đến trong bài làm văn nhưng các em viết quá chậm, không kịp ghi hết
các ý của mình. Giải pháp duy nhất là các em phải tăng cường hoạt động viết cho mình, các em có thời
gian để luyện viết rất nhiều, hãy dành nó để viết những bài thi thử ở nhà (các em bấm giờ và viết hết
sức giốn như các em đang thi thật) để luyện cho tay linh hoạt hơn cũng như luyện suy nghĩ nhanh hơn.
Tất cả thời gian các em có bây giờ cũng chỉ hướng đến việc ba tiếng đồng hồ trong ngày thi thật các
em viết gì, làm gì, vậy tại sao không sử dụng nó để luyện viết thử thật nhiều lần? Việc luyện tập cần
được triển khai một cách khoa học với đồng hồ bấm giờ để học sinh kiểm soát được thời gian viết.
Việc luyện viết được tiến hành cụ thể trên hai phương diện sau.
2.1. Viết đoạn văn
Trước khi viết thành bài văn hoàn chỉnh, học sinh cần có những lần viết đoạn văn để tăng khả
năng viết đoạn văn của mình. Viết đoạn văn cần đảm bảo những yêu cầu sau:
Thứ nhất, đoạn văn cần phải thực hiện nhiệm vụ làm sáng tỏ một chủ đề nào đó. Trong đoạn cần
có câu chủ đề đặt ở đầu đoạn hoặc cuối đoạn (thường là đầu đoạn, khi đó học sinh thực hiện lối viết
diễn dịch). Việc viết văn có câu chủ đề tạo cho học sinh cách viết văn sáng rõ, không viết lan man
tràng giang đại hải mà lại không phục vụ một nội dung cụ thể nào. Đối với những đoạn văn không có
câu chủ đề (học sinh triển khai theo cách viết song hành, các câu văn có vai trò như nhau) thì các câu
văn cần phải hướng tới một chủ đề ngầm ẩn nào đó. Trong các kiểu viết đoạn văn: diễn dịch, quy nạp,
song hành, móc xích, tổng – phân – hợp thì cách viết diễn dịch là cách viết được khuyến khích viết vì

nó khá dễ viết, ý của bài làm vì thế cũng được sáng rõ, bên cạnh đó người cán bộ chấm thi cũng dễ
dàng nhận ra người viết có những ý cụ thể nào. Học sinh cần dành thời gian để luyện viết đoạn văn
theo hướng diễn dịch với chủ đề là những luận điểm của các bài văn nghị luận. Ví dụ: Trong đề bài
“Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu trong đoạn thơ sau của
bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh: “Dữ dội và dịu êm… Khi nào ta yêu nhau” ” sẽ triển khai thành bốn ý
chính như sau: Bốn câu đầu là những cung bậc của sóng và cũng là những cung bậc cảm xúc của người
phụ nữ trong tình yêu; Khổ thơ thứ hai là sự khẳng định tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, nó
làm bồi hồi, xao xuyến, rung động trái tim của đôi lứa; Khổ thứ ba là băn khoăn về nơi tình yêu bắt
đầu; Khổ thứ tư là cách lí giải nguồn gốc của sóng và qua đó là sự trăn trở về khởi đầu tình yêu. Triển
khai bốn ý này, học sinh có thể viết thành bốn đoạn văn một cách mạch lạc. Có những đoạn văn phải
xuống dòng để so sánh với những câu thơ khác thì học sinh cần lưu ý không làm đứt mạch tư duy của
luận điểm chính, không làm luận điểm chính lạc hướng sang một vấn đề khác. Có luận điểm phải phân
tích thành nhiều ý nhỏ hơn buộc học sinh cần triển khai thành nhiều đoạn văn khác nhau.
Như vậy, học sinh có thể tự tạo chủ đề để tự luyện viết. Luyện viết càng nhiều sẽ càng khiến tư
duy của các em sáng rõ, khi viết thành bài văn sẽ hiệu quả hơn.
2.2. Viết bài văn
Việc luyện viết thành bài văn cũng là điều cần thiết đối với các em. Khi viết đoạn văn một cách
thành thạo, biết khi nào thì cần xây dựng câu chủ đề, khi nào thì triển khai một cách khoa học thành
các đoạn phân tích thì các em bắt đầu luyện viết các bài văn hoàn chỉnh.
Việc luyện viết các đề bài hoàn chỉnh sẽ rèn luyện cho các em tư duy mạch lạc, phân bố thời
gian cụ thể cho từng luận điểm trong bài như thế nào là phù hợp. Nếu các em viết đoạn văn tốt thông
qua một quá trình dài luyện viết đoạn văn thì khi viết thành bài các em sẽ gặp khó khăn một chút ở giai
đoạn đầu. Về sau việc luyện tập sẽ dễ dàng hơn vì các em đã nắm được cách viết như thế nào thì hiệu
quả.
Đặc biệt đối với dạng đề nghị luận xã hội, các em cần có những ý tưởng cụ thể từ trước khi đặt
bút viết, tránh tình trạng của nhiều học sinh hiện nay cứ cầm bút rồi nghĩ đến đâu viết đến đó, đến khi
22 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0


Lovebook.vn

viết được hai trang giấy thì dừng lại, coi như đã làm sáng tỏ vấn đề mà đề bài đặt ra. Đây là một hiện
tượng cực kì nguy hiểm, trong bài thi trên lớp các em có thể luyện viết dần dần, nhưng đến kì thi quan
trọng như thi THPT Quốc gia mà các em vẫn tái diễn việc “viết không chủ đích” thì kết quả sẽ không
được mong đợi. Như vậy, ngay cả trong quá trình luyện viết, các em cũng cần ý thức được mình đang
triển khai những ý gì trong bài văn nghị luận xã hội, tránh bàn chung chung, nghĩ gì viết nấy. Có như
vậy, việc luyện viết ở nhà của các em mới thực sự có hiệu quả được.
2.3. Viết một đề thi hoàn chỉnh
Sau khi thành thạo với kĩ năng viết đoạn và viết thành bài, các em sẽ tiến hành giải đề. Tự tìm đề
để giải, bấm giờ một cách chính xác rồi so với đáp án và tự chấm điểm sẽ là cách rất hiệu quả để các
em ôn tập. Nếu nhờ được thầy cô chấm bài thì kết quả sẽ chính xác hơn, ý thức hoàn thiện bài làm
cũng cao hơn. Các em viết càng nhiều thì khả năng viết của các em sẽ càng được cải thiện.
Một bài văn đạt điểm cao chưa hẳn đã hay nhưng phải đúng, đủ và logic. Viết văn cần một tâm
hồn nhạy cảm nhưng cũng cần một tâm thế tỉnh táo. Trước khi viết được những câu văn trau chuốt,
học sinh cần viết được đúng cái đã. Luyện cho mình viết đúng và đủ về kiến thức, sáng rõ và logic về
cách trình bày rồi mới tiến đến viết hay.
3. Tích cực tham khảo đề thi của Bộ GD&ĐT những năm gần đây
Đây là lời khuyên vô cùng bổ ích mà hầu hết các giáo viên thường xuyên khuyên học sinh khi ôn
tập. Các em học sinh tham khảo chủ yếu là dạng đề mà các năm hay thi (tham khảo đặc biệt các năm
từ 2013 đến nay), xem về thang điểm cụ thể cho từng phần như thế nào. Thông qua đối chiếu các đề thi
của các năm mà nhận ra phần nào là tương đồng, năm nào cũng có, phần nào là những đổi mới của Bộ
GD&ĐT. Thông qua thang điểm có sẵn, học sinh lưu ý không để mất điểm một cách đáng tiếc với một
số phần nhỏ có trong thang điểm. Ví dụ trong câu hỏi nghị luận văn học 4 điểm luôn có một phần là
giới thiệu tác giả, tác phẩm với những nét khái quát nhất chiếm một phần trong chỗ 2 điểm nội dung.
Tuy nhiên, nhiều em bỏ qua phần này hoặc viết quá sơ sài. Vì vậy hãy đừng bỏ quên bất kì điều gì
trong thang điểm của Bộ GD&ĐT để rồi mất điểm, các em chỉ cần nói được những nét cơ bản nhất về
nội dung tác phẩm và những nét lớn trong phong cách nghệ thuật của nhà văn được nhắc đến là các em
đã có thêm điểm rồi. Trong các kì thi lớn như thi THPT Quốc gia thì chỉ 0,25 điểm cũng có thể là ranh

giới giữa đỗ và trượt, nó có thể khiến các em trở thành sinh viên hoặc tiếp tục ôn lại một năm nữa. Do
đó, các em học sinh cần tham khảo kĩ đề thi của Bộ GD&ĐT những năm gần đây và biết cách tham
khảo để rút kinh nghiệm và tránh bị mất điểm một cách đáng tiếc.
Tham khảo đề thi các năm của Bộ GD&ĐT cần đi kèm với theo dõi các thông tin trên báo chí,
các phương tiện thông tin đại chúng khác để nhận thấy sự biến đổi về cách thức ra đề mới của Bộ
GD&ĐT. Đối với các đề bài ra theo hướng mới, học sinh cần khẩn trương ôn tập theo phương pháp
mới, không được trì trệ bởi những kiến thức cũ mà phải cập nhật những luồng kiến thức mới. Về đề
bài cụ thể theo hướng ra đề mới của Bộ GD&ĐT, tác giả sẽ đề cập đến ở phần sau của cuốn sách.
III. PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI THI MÔN NGỮ VĂN
Môn Ngữ văn là một môn học khó đối với nhiều em, tuy nhiên nắm được phương pháp làm bài
sẽ khiến các em dễ dàng đạt điểm cao. Tác giả xin chia sẻ những phương pháp làm bài đã được áp
dụng của những thí sinh đạt điểm thủ khoa, á khoa các trường Đại học hàng đầu cả nước những năm
gần đây cũng như những sinh viên đã từng đạt giải trong kì thi học sinh giỏi Toàn quốc môn Ngữ văn.
Đó là những phương pháp vô cùng quý báu, nếu thấy thực sự phù hợp đối với bản thân mình, các em
học sinh có thể tham khảo và áp dụng bởi lẽ không có phương pháp nào là tối ưu cho tất cả mọi người.
Điểm chung nhất của các phương pháp làm bài thi là sao để bài làm được sáng rõ nhất, ý của người
viết được triển khai một cách khoa học nhất. Một bài văn được điểm cao là bài văn biết cách trình bày
bài làm, đưa được lượng kiến thức đã ôn tập vào bài làm một cách khoa học nhất. Dưới đây tác giả sẽ
trình bày chi tiết về phương pháp để làm bài thi một cách hiệu quả nhất để các em học sinh chuẩn bị
bước vào kì thi THPT Quốc gia có thể tham khảo.
LOVEBOOK.VN | 23


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

1. Phân bố thời gian hợp lí
Muốn làm bài thi một cách hiệu quả, học sinh cần phân bố thời gian một cách hợp lí để làm bài.
Tùy theo dạng đề mà học sinh triển khai việc phân bố thời gian khác nhau. Việc phân bố thời gian

được tính theo thang điểm như sau: Vì bài thi của các em là 180 phút do đó 180 phút được chia đều
cho 10 điểm. Như vậy, đối với các câu hỏi 3 điểm, học sinh làm trong khoảng 30 – 50 phút, các câu
hỏi 4 điểm làm trong khoảng 80 - 90 phút.
Việc phân chia thời gian mang tính tương đối. Đối với mỗi đề bài, học sinh cần khoảng 5 – 7
phút đầu giờ để lập dàn ý cho toàn bộ đề thi. Sau đó học sinh mới bắt tay vào viết bài. Việc lập dàn ý
cho tất cả các câu từ những phút đầu tiên hoàn toàn dựa vào cơ sở khoa học của nó. Trong 30 phút đầu
tiên bước vào phòng thi, sự minh mẫn và sáng rõ của học sinh bao giờ cũng đạt mức cao nhất. Học
sinh nên lập dàn ý một cách sơ lược toàn bộ đề thi ngay từ những phút đầu tiên sẽ là định hướng tốt để
học sinh làm bài thi. Việc làm xong câu nào mới lập dàn ý câu đó cũng được tuy nhiên không hiệu quả
bằng việc lập dàn ý toàn bộ đề khi mới bắt đầu tính giờ làm bài. Kinh nghiệm trên đã được thực hiện
và đem lại hiệu quả cao cho các học sinh đã từng tham dự kì thi tuyển sinh ĐH – CĐ cũng như kì thi
THPT Quốc gia.
Phân bố thời gian hợp lí cần được thực hiện bằng việc mang theo đồng hồ khi vào phòng thi. Đôi
khi học sinh phân bố thời gian không đúng, bị vượt quá hoặc chưa đến giới hạn thời gian đặt ra, điều
học sinh cần nhất lúc đó là giữ cho tâm thế thật bình tĩnh để hoàn thành bài thi thật tốt, không vì thấy
thời gian lệch so với chuẩn đặt ra từ trước mà hoang mang, lo lắng, làm ảnh hưởng không tốt đến phần
viết tiếp theo. Các em cần nhớ rằng kết quả của bài thi không nằm ở kết quả ở từng phần và là ở kết
quả tổng thể, do đó khi thực hiện xong một câu hỏi mà thấy không khớp với thời gian thì cũng phải cố
gắng bình tĩnh hoàn thành tốt những câu còn lại.
Thời gian làm bài thi THPT Quốc gia được thiết kế một cách khoa học và có tính toán về mặt
thời gian. Học sinh cần tận dụng hết khoảng thời gian này, không nên ra phòng thi sớm rồi lại tiếc vì
không viết hết ý của mình. Mỗi học sinh được thực hiện bài thi một lần, không nên để những tình
huống đáng tiếc xảy ra chỉ vì ra khỏi phòng thi sớm.
2. Nhận diện các kiểu đề, dạng đề thi môn Ngữ Văn thi THPT Quốc gia
Đề thi môn Ngữ văn được đặt ra nhằm kiểm tra việc nắm vững kiến thức của học sinh trong một
vấn đề, một phạm vi cụ thể nào đó trong một thời lượng cho phép nhất định. Theo nhìn nhận, đánh giá
đề thi trong nhiều năm nay, tác giả nhận thấy có những kiểu đề, dạng đề như sau:
2.1. Dạng đề Đọc – hiểu (3 điểm) – xu hướng ra đề mới của Bộ GD&ĐT
Đây là dạng đề mới được đề ra trong năm 2014 và có sự định hình tương đối rõ rệt từ năm 2015,
là một điểm nhấn khá quan trọng của nền giáo dục và thi cử những năm gần đây. Tuy nhiên, bất kì sự

đổi mới nào cũng có thể là cản trở và có những khó khăn, vướng mắc ban đầu nhất định của nó. Học
sinh có thể bất ngờ và nhiều lúng túng trước sự thay đổi đề này của Bộ GD&ĐT. Trong cuốn sách này,
tác giả xin đưa ra dạng đề này một cách sơ lược nhất để học sinh nhận diện và biết cách trình bày vào
bài thi.
Dưới đây là một dạng câu hỏi Đọc – hiểu (3 điểm):
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa,
song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là điều chắc chắn.
Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và
chiến sĩ anh hùng; thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ
nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
(Hồ Chí Minh, Di chúc, in trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia)
24 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

Câu 1: Chỉ ra nội dung chính của đoạn trích trên. (0,25 điểm).
Câu 2: Tác giả của đoạn trích hướng bài viết đến những đối tượng nào? Tại sao anh (chị) nhận ra
điều đó? (0,5 điểm).
Câu 3: Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép liên kết trong đoạn trích trên? (0,5 điểm).
Câu 4: Tương lai mà Hồ Chí Minh dự đoán trong di chúc thể hiện vẻ đẹp nào của Người? Trong
khoảng 5 - 7 dòng, thể hiện suy nghĩ của anh (chị) về nét đẹp đó. (0,25 điểm).
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 5 đến Câu 8
Mỗi lần nắng mới hắt bên song.
Xao xác gà trưa gáy não nùng;

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ Me tôi thuở thiếu thời,
Lúc Người còn sống, tôi lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi.
Hình dáng Me tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa.
(Lưu Trọng Lư, Theo Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh, Hoài Chân, NXB Văn học, 1994)
Câu 5. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ. (0.25 điểm)
Câu 6. Hình ảnh nắng mới trong bài thơ có ý nghĩa gì trong việc thể hiện cảm xúc thơ? (0.5
điểm)

Câu 7. Nhận xét của anh/chị về tác dụng của phép tu từ trong câu thơ: “Mỗi lần nắng mới reo
ngoài nội”. (0.25 điểm).
Câu 8. Cảm nhận của anh/chị về hình ảnh người mẹ trong câu thơ “Nét cười đen nhánh sau tay
áo.” (0.5 điểm).
[Đề bài trích từ sách Chinh phục đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn, tập 2 của cùng nhóm tác
giả]
Như vậy, về hình thức, dạng đề này thường đưa một tác phẩm (không có trong chương trình sách
giáo khoa, nếu có điểm tương đồng thì chỉ là có thể lấy các tác giả trong chương trình nhưng với
những tác phẩm khác, hoặc không thì tác giả và tác phẩm chưa được tiếp xúc với học sinh trong
chương trình) với những câu hỏi đọc hiểu cụ thể. Các dạng hỏi của đề bài này không giới hạn, có thể
linh hoạt hỏi từ những chi tiết nhỏ nhất để yêu cầu học sinh trả lời và nắm vững kiến thức của bài. Yêu
cầu học sinh có thể khác nhau: viết đoạn văn, trả lời ngắn gọn để giải quyết vấn đề đặt ra. Về cách giải
cụ thể sẽ được trình bày ở phần sau.
2.2. Dạng đề viết bài nghị luận xã hội
Theo cấu trúc đề thi từ trước đến nay (kể từ khi dạng bài nghị luận xã hội được đưa vào đề thi)

thì dạng bài nghị luận xã hội đều chiếm số lượng điểm là 3 điểm.
Nghị luận xã hội không phải là dạng đề hoàn toàn mới đối với học sinh như những năm học
trước, nó đã được đưa vào đề thi THPT Quốc gia đã nhiều năm nay và không còn gây khó khăn đối
với học sinh. Có hai dạng đề bài được đưa vào kì thi THPT Quốc gia đó là: nghị luận về một hiện
tượng đời sống và một tư tưởng, đạo lí (hoặc so sánh các hiện tượng đời sống, tư tưởng, đạo lí trái
chiều nhau để nhận ra bài học hành động). Dạng đề nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong các

LOVEBOOK.VN | 25


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

tác phẩm văn học không nằm trong phạm vi ôn tập của các kì thi THPT Quốc gia nên học sinh cần lưu
ý khoanh vùng ôn tập chính xác.
Một số đề bài nghị luận xã hội cụ thể được đưa ra trong những năm gần đây như sau:
- Nhìn lại vốn văn hoá dân tộc, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có nêu một nhận xét về lối sống
của người Việt Nam truyền thống là:
Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết
thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn.
(Theo Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.160-161)
Từ nhận thức về những mặt tích cực và tiêu cực của lối sống trên, anh/chị hãy bày tỏ quan điểm
sống của chính mình (bài viết khoảng 600 từ).
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2013, khối C]
- Đi dọc đất nước với tâm nguyện tìm hiểu nguồn cội bằng trải nghiệm của chính mình, chàng
trai Việt kiều Tran Hung John có một nhận xét:
Phần nhiều người Việt Nam có tính cách thụ động, là những người đi theo chứ không phải người
tiên phong. Nếu có ai đó đi trước và thử trước, tôi sẽ theo sau chứ không bao giờ là người dẫn đường.
Áp lực xã hội khiến bạn phải đi theo con đường đã được vẽ sẵn.

(John đi tìm Hùng, NXB Kim Đồng, 2013, tr.113)
Anh/chị có đồng tình với ý kiến trên không? Hãy trao đổi với Tran Hung John và bày tỏ quan
điểm sống của chính mình (bài viết khoảng 600 từ).
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2013, khối D]
- Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng.
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình
về sự nguy hại của đạo đức giả đối với con người và cuộc sống.
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2010, khối D]
- Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2011, khối D]
- Có ý kiến cho rằng: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề trên.
[Đề thi THPT Quốc gia năm 2015]
Dạng đề này có phạm vi ôn tập vô cùng rộng rãi. Học sinh cần chuẩn bị một vốn kiến thức xã hội
đủ rộng để có thể thực hiện tốt bài thi. Trong phần hướng dẫn một số đề bài cụ thể thuộc dạng nghị
luận xã hội trong cuốn sách này, tác giả sẽ cung cấp một số thông tin xã hội quan trọng, học sinh có
thể tham khảo để bổ sung vốn tri thức cho mình và vận dụng nó làm dẫn chứng cho bài văn nghị luận
xã hội của mình. Về kĩ năng cụ thể viết bài nghị luận xã hội, tác giả sẽ trình bày ở phần sau.
2.3. Dạng đề viết bài nghị luận văn học
Đây là dạng bài tập truyền thống có từ nhiều năm nay và chưa bao giờ vắng mặt trong đề thi
THPT Quốc gia và lượng điểm của câu hỏi bao giờ cũng lớn nhất (4 điểm) nên học sinh cần có tâm thế
ôn tập tốt nhất đối với dạng đề này. Dạng đề nghị luận văn học bao gồm nhiều cách hỏi, tác giả tổng
hợp thành các dạng như sau:
2.4.1. Dạng đề phân tích, bình giảng thơ
Trong đề thi THPT Quốc gia bao giờ cũng giới hạn phạm vi phân tích, bình giảng thơ trong một
vài khổ thơ nhất định hoặc cả một bài thơ ngắn. Tuy nhiên xu hướng phân tích một vài khổ sẽ được
chú trọng hơn bởi sẽ không đủ về mặt thời gian để học sinh triển khai phân tích một bài thơ dài và
cũng không đánh giá được sự tinh nhạy của học sinh khi triển khai thành phân tích những chi tiết nhỏ
trong tổng thể bài thơ. Dạng đề này thường thấy trong những năm học trước năm 2012 như:

- Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
26 | LOVEBOOK.VN


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0

Lovebook.vn

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
(Đất Nước – trích trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ Văn 12 nâng cao,
tập 1, NXB Giáo dục, 2009, tr. 117 – 118)
Phân tích đoạn thơ trên để làm rõ những cảm nhận riêng, độc đáo về đất nước của Nguyễn Khoa
Điềm.
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2011, khối C]
- Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
(Văn học 11, tập 1, NXB Giáo dục, 2005, tr.131)

[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2008, khối D]
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng
- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
(Văn học 11, tập 1, NXB Giáo dục, 2005, tr. 147)
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2007, khối C]
Thao tác được sử dụng trong dạng đề này là phân tích kết hợp với bình giảng. Trong phân tích
phải có bình giảng vì nếu chỉ dựa vào câu chữ để diễn xuôi mà không biết dừng lại ở những chi tiết đắt
giá để bình giảng thì bài văn sẽ khô khan, thiếu tính văn học. Trong bình giảng phải có phân tích vì
nếu chỉ bình tán chung chung mà không dựa trên cơ sở từ ngữ thì bài văn sẽ yếu về mặt ý, các chi tiết
muốn nổi bật được giá trị thì cần đến quá trình phân tích làm sáng rõ các đặc điểm về nghệ thuật. Đối
với các em phổ thông không nhất thiết phải phân biệt rạch ròi thế nào là phân tích, thế nào là bình
giảng, chỉ cần các em hiểu được yêu cầu làm sao bài làm vừa có chất văn, vừa có tính khoa học, có cơ
sở trong quá trình phân tích, bình giảng tác phẩm là được.
2.4.2. Dạng đề phân tích một yếu tố trong tác phẩm văn xuôi
Trong dạng đề truyền thống những năm trước đây luôn có một câu hỏi thuộc phần thơ và một
câu hỏi thuộc phần văn xuôi để học sinh lựa chọn. Tuy nhiên trong xu hướng ra đề mới của Bộ
LOVEBOOK.VN | 27


Tổng hợp các dạng câu hỏi và kỹ năng làm bài thi môn Ngữ Văn 2.0


Lovebook.vn

GD&ĐT thì câu nghị luận văn học là câu bắt buộc (không được lựa chọn) do đó học sinh cần ôn tập
một cách toàn diện và cẩn trọng. Đối với dạng đề phân tích một yếu tố trong tác phẩm văn xuôi, học
sinh có thể gặp những dạng bài như sau:
- Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân.
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2011, khối C]
- Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn.
Anh (chị) hãy phân tích khung cảnh phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên trong tác phẩm
Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2011, khối D]
- Cảm nhận về vẻ đẹp sử thi của hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành (Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011).
[Đề thi tuyển sinh ĐH – CĐ năm 2012, khối C]
Trong tác phẩm văn xuôi được đưa ra phân tích thường đề bài chỉ yêu cầu phân tích một yếu tố
trong đó chứ không phải phân tích toàn bộ tác phẩm. Các yếu tố này rất đa dạng: tình huống truyện,
chỉ tiết nghệ thuật, nhân vật,… hoặc đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn xuôi đó. Ví dụ: Đối với truyện
ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, những vấn đề cơ bản đặc trưng của tác phẩm thường được đề
cập đến là nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục, tình huống truyện; truyện ngắn Những đứa
con trong gia đình của Nguyễn Thi thì nổi bật ở màu sắc Nam Bộ, các nhân vật như Chiến, Việt, chú
Năm… Học sinh trong quá trình ôn tập cần nắm được trong từng tác phẩm thì nổi bật là vấn đề gì để
chú trọng vào phân tích làm sáng tỏ.
Lưu ý: Trong xu hướng ra đề gần đây của Bộ GD&ĐT thì dạng đề Phân tích yếu tố trong tác
phẩm văn xuôi có một biến thể là Phân tích yếu tố trong một đoạn trích cụ thể trong tác phẩm văn
xuôi. Đó là trường hợp đề thi THPT Quốc gia năm 2015:
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt nhưđang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã
đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con
cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính
là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗđâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng
về,cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng nhưđàn ông thuyền khác uống rượu...
Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa
tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả
của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên
thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải
có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn
28 | LOVEBOOK.VN


×