Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tiểu luận chất đọc da cam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.19 KB, 11 trang )

Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

1. Phần mở đầu
Kể từ năm 1975, khi cuộc chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam
kết thúc và giành thắng lợi rực rỡ, hai nước đã giữ quan hệ thù địch trong
suốt một thời gian dài. Cho đến nay, hơn ba mươi năm sau chiến tranh,
những di sản của cuộc chiến tưởng chừng không thể nào xóa bỏ cũng đã
dần phai nhạt theo thời gian. Mối quan hệ song phương Mỹ Việt đã dần ấm
lên vì cả hai dân tộc đều mong muốn bỏ lại quá khứ và hướng tới tương lai.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố xóa bỏ
cấm vận đối với Việt Nam, ngày 12 tháng 7 năm 1995, Thủ tướng Võ Văn
Kiệt tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ ... Cuối năm 2006,
Quốc hội Mỹ đã thông qua quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh
viễn với Việt Nam … Những mốc lịch sử quan trọng này cho thấy rất nhiều
nỗ lực đã được đưa ra từ cả hai phía và rất nhiều – tuy không phải là tất cảcác vấn đề gây căng thẳng giữa hai nước đã được giải quyết.
Tuy nhiên, một hiện thực không thể chối cãi là cuộc chiến xâm lược
Việt Nam của Mỹ đã để lại một di sản lớn mà cho đến nay hai nước vẫn
chưa thể tìm được cách giải quyết thỏa đáng, đó là sự tàn phá của chất độc
đi-ô-xin đối với con người và môi trường Việt Nam và những di chứng của
nó. Suốt hơn ba mươi năm, vấn đề nạn nhân của chất độc da cam vẫn
thường được đặt lên bàn đàm phán bên cạnh những vấn đề được coi là quan
trong đối với cả hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ. Rất nhiều vấn đề đã được
thông qua song vấn đề nạn nhân da cam thì vẫn còn lại như một sự ám ảnh
và bế tắc trong quan hệ hai nước, và thường xuyên được đặt ra thảo luận
trong các buổi đàm phán song phương.
Các kết quả khảo sát thu được cho thấy, quân đội Mỹ đã rải gần mười
hai triệu gallon tương đương trên 500 triệu lít hóa chất độc hại lên khoảng
1/10 lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn từ 1961 đến 1971. Theo một nghiên
cứu gần đây thì 2.1 đến 4.8 triệu người Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp
-1-



Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

của chất độc da cam, và ít nhất một triệu người Việt Nam bị mắc các căn
bệnh hiểm nghèo do nhiễm chất độc đi-ô-xin có trong hóa chất này.
Những di chứng của chất độc da cam mà Mỹ trải lên lãnh thổ Việt
Nam càng ngày càng cho thấy mức độ tàn bạo của cuộc chiến và hậu quả
của nó đối với con người và môi trường nặng nề như thế nào. Người Việt
Nam, đặc biệt là những người đã từng tham gia vào cuộc chiến, chịu ảnh
hưởng trực tiếp của chất độc hóa học, và những thế hệ sau của họ, đã lên
tiếng đòi công lý, thậm chí có những người đã không thể trở về ngay cả
trong thời bình. Điều này đặt ra cho Chính phủ Việt Nam những áp lực lớn
hơn trong việc giải quyết các vấn đề môi trường và đưa ra chính sách hỗ trợ
cho nạn nhân chất độc da cam. Việt Nam liên tiếp yêu cầu Mỹ phải bồi
thường thiệt hại sau chiến tranh, trong khi, phía Mỹ cũng đã có những động
tác ủng hộ về khoa học và kỹ thuật giúp giải quyết hậu quả của chất da cam.
Vấn đề là ở chỗ, những công ty hóa chất Mỹ nhất định không công nhận và
bồi thường thiệt hại cho nạn nhân da cam ở Việt Nam. Họ nói rằng họ đã
sản xuất hóa chất theo yêu cầu của chính phủ Mỹ. Phiên tòa kiện các công
ty hóa chất lớn của Mỹ mà nguyên đơn là những nạn nhân da cam Việt
Nam đã kết thúc với một phán quyết được cho là không công bằng và phi
đạo lý, trong khi đó rất nhiều các cựu binh Mỹ ủng hộ Việt Nam. Hàng loạt
các sự kiện liên quan đến vấn đề nạn nhân da cam Việt Nam đã ảnh hưởng
tới mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong giới hạn bài tiểu luận của mình,
em chỉ tập trung phân tích những chính sách của Hoa Kỳ và mối quan hệ
song phương với Việt Nam chịu ảnh hưởng như thế nào từ vấn đề nạn nhân
da cam Việt Nam.

2. Phần nội dung
2.1 Nguyên nhân Mỹ sử dụng chất da cam trong cuộc chiến tại Việt

Nam.
-2-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

Trong cuộc chiến tại Việt Nam, Mỹ đã thực hiện một chương trình
khổng lồ sử dụng hóa chất diệt cỏ trong suốt giai đoạn từ năm 1961 đến
năm 1971. Mục tiêu của chương trình này là một thứ mục tiêu kép: thứ nhất
phá hủy diện tích rừng nhiệt đới của Việt Nam – nơi ẩn náu của quân du
kích Việt Nam, thứ hai là chặn nguồn lương thực của quân Việt Nam.
Chương trình này ban đầu được biết đến dưới cái tên là Operation Trail
Dust sau đổi thành Operation Hade và cuối cùng là Operation Ranch Hands.
Một loạt các chất hóa học, 15 loại tất thảy, đã được đem ra kiểm
nghiệm và đồng thời “ứng dụng” luôn tại Việt Nam. Những hóa chất diệt cỏ
đầu tiên được sử dụng hay nói cách khác, đem thử nghiệm trong những năm
từ 1962 đến 1964 là “Agent Orange”, “Agent Purple” và “Agent White”.
Trên thực tế, những chất này không có màu, nhưng được gọi tên theo màu
của những thùng 55 gallon tương đương 247.5 lít đựng chúng. Một lượng
lớn các hóa chất khác cũng đã được trộn vào trong các thùng hóa chất trước
khi rải xuống Việt Nam. Năm 1964, sau hàng loạt các cuộc thử nghiệm như
thế, chất da cam – “Agent Orange” được cho là hiệu quả nhất cho kế hoạch
tàn phá những cánh rừng Việt Nam của quân đội Mỹ. Năm 1965, khi các
vướng mắc về hậu cần của Mỹ được giải quyết, chiến dịch càn quét Việt
Nam bằng chất da cam cũng được mở rộng. Phần lớn chất hóa học độc hại
này được Lực lượng không quân Mỹ lúc đó là C-123K tiến hành rải lên
Việt Nam. Từ năm 1968 trở đi, một phiên bản mới của kế hoạch này cũng
được đưa vào chiến trường dưới cái tên “Orange II” hay “Super Orange”.
Tính đến năm 1971, khoảng 24.000 km 2 trên tổng số 331.212 km2 của Việt
Nam đã ngập trong chất độc da cam.

2.2 Việc sử dụng chất diệt cỏ vào cuộc chiến Việt Nam là có ý đồ từ
phía Mỹ

-3-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

Năm 1967, Mỹ ngày càng can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Việt
Nam. Phía Mỹ cho rằng chi tiêu quân sự lớn sẽ chỉ góp phần làm gia tăng
lạm phát trong nước, vấn đề đã khiến giới thượng lưu Mỹ đặt câu hỏi về
cuộc chiến tranh Việt Nam. Chất độc hoá học được sử dụng vào chiến tranh
vì một phần nào đỡ tốn kém hơn vũ khí tối tân. Tuy nhiên, trước những
phản ứng mạnh mẽ từ người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tại Việt Nam vì
những chất hoá học mà không quân Mỹ đem trải thảm xuống hơn hai nghìn
hecta rừng khu vực miền Nam Việt Nam đã ảnh hưởng đến cả những lính
Mỹ chiến đấu tại đây, đã khiến cho Chính phủ phải lên tiếng. Ngày 25
tháng 11 năm 1969, Tổng thống Nixon ra lệnh phá huỷ tất cả những kho vũ
khí vi trùng và cấm chiến tranh hoá học và chiến tranh sinh học, theo đó
yêu cầu Thượng viện chấp nhận Nghị định thư Geneva 1925, nhưng lại vẫn
duy trì quyền sử dụng vũ khí giết người của quân đội Mỹ trong trường hợp
đe doạ an ninh của nước Mỹ. Hai chiếc tàu đầy khí độc hại được bọc trong
những chiếc thùng bằng bê tông đã được thả xuống Thái Bình Dương vào
tháng 8/1970. Tiếp đó là sự thất bại của thoả thuận SALT I và SALT II những Hiệp ước về hạn chế vũ khí chiến lược.
Vào những năm cuối của cuộc Chiến tranh Thế giới II, cụ thể là vào
tháng 6/1961, quân đội Mỹ được chuẩn bị để sử dụng một số hoá chất làm
rụng lá cây ở chiến trường Thái Bình Dương. Nhưng do sợ bị tố cáo là tiến
hành chiến tranh hoá học, nên kế hoạch này bị huỷ bỏ.
Thế nhưng đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ Kenedi và Hội đồng an
ninh quốc gia đã bật đèn xanh cho quân đội Mỹ sử dụng hoá chất (được gọi

là chất làm rụng lá cây) để rải xuống các vùng đất Việt Nam không nằm
trong khả năng kiểm soát của quân đội Mỹ. Các tài liệu công khai của quân
đội Mỹ tiết lộ, trong 11 năm, từ 1962-1972, Mỹ đã dùng máy bay rải xuống
lãnh thổ Việt Nam trên 72 triệu lít hoá chất da cam. Con số do Mỹ đưa ra
còn xa với con số mà quân đội Mỹ thực sự rải xuống lãnh thổ Việt Nam. Đô
-4-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

đốc Hải quân Mỹ Zumwalt, người trực tiếp chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ
từ 1968 đến 1971, đã tiết lộ: tỷ lệ thương vong hàng tháng của Hải quân Mỹ
là 6%. Có nghĩa rằng trong một nhiệm kỳ 10 tháng tham dự chiến trận tại
VN, một quân nhân Mỹ chỉ có 30% hi vọng sống sót. Để giảm bớt thương
vong của Mỹ tại chiến trường, Chính phủ Mỹ bật đèn xanh cho việc sử
dụng hoá chất da cam. Với việc phun rải hoá chất trên, Mỹ muốn huỷ diệt
các khu rừng nguyên sinh làm cho lực lượng vũ trang Việt Nam bị bộc lộ,
trở thành con mồi cho bom đạn Mỹ. Ngoài ra, còn nhằm mục đích triệt phá
lương thực, môi trường sống của người dân. Dù ra sức bưng bít, ngay từ
đầu việc sử dụng hoá chất da cam tại chiến trường Việt Nam đã gặp sự
chống đối của rất nhiều nhà khoa học Mỹ. Ngày 15/06/1966, Hội Vì sự tiến
bộ của khoa học Hoa Kỳ đã đòi thành lập Đoàn điều tra tác hại của việc Mỹ
sử dụng các hoá chất độc ở Việt Nam. Vào những năm 1967, 1968, 1969
Mỹ gia tăng gấp bội việc phun rải hoá chất da cam xuống các khu rừng và
vùng dân cư của Việt Nam. Cũng vào những năm này phong trào chống
chiến tranh hoá học tại VN đã lan tràn khắp nước Mỹ. Hơn 5.000 nhà khoa
học Mỹ đã ký một kiến nghị đòi Tổng thống L.Johnson ngừng ngay việc sử
dụng các chất độc hoá học ở Việt Nam. Trước áp lực của dư luận, vào tháng
4/1970, Bộ Quốc phòng Mỹ phải tuyên bố chấm dứt việc phun rải chất màu
da cam tại VN. Nhưng Mỹ vẫn tiếp tục làm cái việc mà họ đã tuyên bố

chấm dứt. Cùng với thời gian, tác hại của hoá chất da cam ngày càng bộc
phát dưới dạng các bệnh nan y.
Người của cả hai bên chiến tuyến đều trở thành nạn nhân của chất độc da
cam.
2.3. Chính sách của Mỹ
Kể từ khi nối lại quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã
duy trì một chính sách tương đối nhất quán đối với vấn đề phơi nhiễm chất
độc da cam đi-ô-xin ở Việt Nam. Một mặt, Chính phủ Mỹ cấp kinh phí cho
-5-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

những nghiên cứu khoa học nhằm thẩm định mức độ lan rộng của chất da
cam trên lãnh thổ Việt Nam nhiều năm sau chiến tranh và đánh giá mức độ
nghiêm trọng của hậu quả do phơi nhiễm đi-ô-xin. Tại những khu vực chịu
tác động nặng nề nhất của chất độc hoá học này, chính phủ Mỹ cũng đã có
những hỗ trợ về tài chính và ký thuật nhằm hạn chế mức tối đa những tác
hại của các hoá chất vẫn còn tồn tại trong môi trường và ảnh hưởng tới cuộc
sống của người dân Việt Nam. Mặt khác, Chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục không
chịu thừa nhận trách nhiệm về mặt pháp lý của mình đối với tất cả những
hậu quả được cho là do chất da cam sử dụng trong cuộc chiến Việt Nam
gây nên. Thêm vào đó, Mỹ liên tiếp đặt ra những nghi vấn về mức độ tin
cậy của các bằng chứng về chất đi-ô-xin chứa trong hàng triệu lít chất diệt
cỏ và những thùng chất da cam đã dội xuống Việt Nam trong suốt thời gian
diễn ra chiến tranh và các tác hại của nó gây nên các căn bệnh hiểm nghèo
cũng như các vấn đề về sức khoẻ và các khuyết tật bẩm sinh mà nhiều
người Việt Nam phải chịu đựng.
Viện trợ từ phía Chính phủ Mỹ đối với Việt Nam về vấn đề nạn nhân
da cam chủ yếu là góp phần vào những nỗ lực của cả hai nước nhằm thẩm

định, kiềm chế và xử lý những ca bệnh do phơi nhiễm chất da cam. Theo
báo cáo đánh giá của một quan chức từ Bộ Ngoại giao Mỹ trước Uỷ ban Hạ
Viện Hoa Kỳ (5/2008) cho thấy những nỗ lực hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam trong vấn đề nạn nhân da cam gồm có:


Thành lập Uỷ ban liên kết tham vấn (JAC) nhằm đưa ra các hoạt động liên
kết giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ về các vấn đề liên quan đến phơi
nhiễm chất da cam.



Tiến hành các Hội thảo liên kết giữa Bộ Quốc Phòng Mỹ và Bộ Quốc
Phòng Việt Nam nhằm trâo đổi các tư liệu lịch sử về các hoạt động của

-6-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

quân đội Mỹ tại Việt Nam cũng như là việc sản xuất, buôn bán và tích trữ
chất da cam trong thời kỳ chiến tranh.


Đề ra một dự án trị giá 2 triệu đô la Mỹ trong vòng 5 năm, với sự tham gia
của Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ, Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam và
Bộ Quốc phòng Việt Nam, nhằm giúp Việt Nam tiến hành các thí nghiệm
phân tích mẫu đất và vật phẩm.




Và khoản chi viện trợ từ Văn phòng Chính phủ và Cục Bảo vệ Môi trường
Mỹ trị giá 200.000 đô la Mỹ.
Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, 40 triệu đô la Mỹ đã được chi ra cho các
chương trình gỡ bỏ bom mìn tại Việt Nam từ năm 1993, và 43 triệu đô la
cũng đã chi cho khoản viện trợ người khuyết tật từ năm 1989. Các khoản
này đều trích từ Quỹ hỗ trợ nạn nhân chiến tranh Leahy. Trong đó, khoản
chi cho các dự án về nạn nhân da cam là 2 triệu đô. Mặc dù Văn phòng
Chính phủ Mỹ không đưa ra hạng mục cụ thể của các khoản chi này nhưng
cũng có thể thấy rằng hầu như phần lớn các khoản chi ra từ quỹ này là cho
các hoạt động nghiên cứu.
Tính đến nay, diễn đàn đầu tiên giữa Chính phủ Mỹ và chính phủ Việt
Nam về vấn đề nạn nhân chất da cam là JAC. Cuộc họp đầu tiên của JAC
diễn ra tại Hà Nội vào ngày 5 và 6 tháng 6 năm 2006. Trong hội nghị này,
đoàn Việt Nam đã nhấn mạnh mong muốn đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực
làm sạch môi trường, chăm sóc và điều trị cho các nạn nhân của chất da
cam đi-ô-xin và cho các nghiên cứu khoa học. Trong hội nghị lần thứ hai
của JAC tổ chức ngày 14 và 15 tháng 8 năm 2007, tại Hà Nội, đồng Chủ
tịch phái đoàn Mỹ nhấn mạnh rằng JAC không phải là một cơ quan ban
hành chính sách mà là một uỷ ban tham vấn khoa học, chỉ có nhiệm vụ đưa
ra những tham vấn khoa học cho các chương trình liên quan đến chất da
cam đi-ô-xin tại Việt Nam. Hội nghị lần thứ ba của JAC tổ chức từ ngày 8
-7-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

đến ngày 11 tháng 9 năm 2008 tại Hà Nội, tập trung vào các nỗ lực cải thiện
môi trường ở Việt Nam, cùng với sự hiện diện của các tổ chức tài trợ đang
nỗ lực trong vấn đề chất da cam đi-ô-xin tại Việt Nam.

Tháng 5 năm 2007, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật dành riêng
cho các vấn đề binh lính Mỹ, cựu chiến binh, bão Katerina và Iraq, 2007
(P.L. 110-28), quyết định hỗ trợ 3 triệu đô la Mỹ cho khôi phục lại môi
trường tại những địa điểm bị phơi nhiễm đi-ô-xin và hỗ trợ cho các chương
trình y tế trong các khu dân cư gần những khu vực này. Ngày 1 tháng 2 năm
2008, đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Michael Michalak đã thông báo trước
cuộc họp liên kết giữa các quan chức Mỹ và Việt Nam rằng “cần đi tới
những bước thoả thuận cuối cùng để xác định cách thức mà những quỹ hỗ
trợ từ chính phủ Mỹ chi ra ”. Trong bản báo cáo đánh giá trình lên trước Uỷ
ban Thượng viện phụ trách các vấn đề quan hệ đối ngoại với Đông Á và
Thái Bình Dương, Trợ lý Bộ trưởng phụ trách vấn đề đối ngoại với Đông Á
và Thái Bình Dương Christopher R. Hill nhấn mạnh: “... Quốc hội đã không
hề quan tâm đến kế hoạch chi 3 triệu đô la cho các chương trình cải thiện
môi trường và y tế mà chúng ta đang vạch ra lúc này ...”
Kể từ bản đánh giá của ông Hill, người ta không thấy có thêm một
thông báo nào khác từ Đại sứ quán Mỹ hay từ Bộ Ngoại giao về việc sử
dụng khoản chi 3 triệu đô này. Theo nguồn tin từ Bộ Ngoại giao Mỹ cho
biết, Cơ quan phụ trách các vấn đề phát triển quốc tế Mỹ (USAID) sẽ chỉ
đạo việc chi viện trợ này. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và USAID chỉ ra rằng một
phần trong các quỹ viện trợ này sẽ được sử dụng để tạo nên một hình ảnh
trọn vẹn về nước Mỹ ở Việt Nam với mục đích tiến hành các hoạt động
chăm sóc sức khoẻ, cải thiện môi trường và hàn gắn vết thương da cam điô-xin. Các hoạt động khác trích từ quỹ 3 triệu đô có thể bao gồm bổ sung
nghiên cứu cải thiện môi trường và các hoạt động hợp tác về y tế, bao gồm
hoạt động của các phòng khám gần những “điểm nóng”- khu vực ảnh
-8-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33

hưởng nặng nề bởi chiến tranh. Như đã tường trình, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ

và USAID sẽ tiến hành kiểm tra xác minh các chương trình hỗ trợ hiện nay
cho các công dân Việt Nam bị nhiễm chất độc hoá học để khẳng định tính
hiệu quả của số tiền 3 triệu đô la đã chi ra.

2.4. Lời kết
Mười năm trở lại đây, các vấn đề kinh tế và an ninh thương mại được
ưu tiên hàng đầu vượt lên trên vấn đề di sản chiến tranh trong mối quan hệ
Việt Mỹ. Mặc dù tại Mỹ vấn đề di sản chiến tranh Việt Nam là rất phức tạp
và tác động xấu đến những nỗ lực bình thường hoá quan hệ song phương
giữa hai quốc gia nhưng hiện nay, những lợi ích mà đôi bên cùng nhận
được từ thương mại song phương đã phần nào ảnh hưởng đến toàn bộ quan
hệ Việt Mỹ. Tuy nhiên, những sai lầm trong việc giải quyết các di sản chiến
tranh, như là địa vị của những nạn nhân chất da cam Việt Nam chẳng hạn,
vẫn hoàn toàn có thể làm tổn hại hay ít ra là làm chậm lại tiến trình đẩy
mạnh hơn nữa quan hệ song phương Việt Nam và Hoa Kỳ.
Về phần mình, Chính phủ Việt Nam dường như vẫn còn cân nhắc
những vấn đề kinh tế mang tính chiến lược ưu tiên hơn so với vấn đề nạn
nhân da cam vì lợi ích cao nhất là phát triển đất nước trong thời đại mới.
Tuy vậy, 2.1 đến 4.8 triệu người Việt Nam hiện trong vùng ảnh hưởng phơi
nhiễm của chất độc da cam và hơn một triệu người được xác nhận là chịu di
chứng đi-ô-xin hiện vẫn còn là vết thương nhức nhối, và hàng ngàn trẻ em
Việt Nam ngày nay vẫn còn bị những di chứng của chất da cam. Nhiều nhà
phân tích cho rằng Việt Nam sẽ có thẻ không tiếp tục giữ thái độ tích cực
với Mỹ nếu như Mỹ vẫn cứng nhắc không thừa nhận trách nhiệm của mình

-9-


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33


trong các vấn đề liên quan đến sử dụng chất độc da cam và hậu quả của nó
để lại sau chiến tranh ở Việt Nam.
Trong quá khứ, các chính sách của Mỹ về vấn đề chất da cam dường
như theo chiều hướng phủ nhận mọi trách nhiệm pháp lý đối với các ảnh
hưởng tới sức khoẻ con người do chất da cam gây nên, đồng thời vẫn đưa ra
các khoản viện trợ song lại kèm theo những đánh giá nhận định về tính xác
thực của các bằng chứng chiến tranh. Cuối cùng thì những hỗ trợ về tài
chính và y tế từ Mỹ cho các nạn nhân chất da cam đã không thật sự hiệu
quả. Mặc dù hiện nay, cả hai chính phủ gần như đã có được những bước
tiến thực sự trong việc giải quyết vấn đề này, song cần có thêm thời gian, có
thể là vài năm hoặc nhiều hơn thế để làm dịu lại vấn đề nóng này trong
quan hệ ngoại giao hai quốc gia. Điều này phụ thuộc phần nhiều vào hành
động của Chính phủ Mỹ. Bởi vì, người Việt Nam không khỏi ngạc nhiên
khi nhận thấy sự suy xét của Chính phủ Mỹ đối với trách nhiệm bồi thường
chiến tranh cho Việt Nam, nhất là sau khi vụ kiện 37 công ty hoá chất Mỹ
do các nạn nhân da cam là nguyên đơn đã kết thúc bằng một phán quyết
không công bằng và phi đạo lý. Chính phủ Mỹ cho rằng không có đủ bằng
chứng xác thực chứng tỏ rằng tình trạng của những nạn nhân bị phơi nhiễm
chất da cam là hậu quả của hàng triệu lít thuốc diệt cỏ và hoá chất đi-ô-xin
chứa trong chúng mà quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam những năm 6070. Trên thực tế, có một mâu thuẫn rằng, Chính phủ Mỹ sẵn sàng chi các
khoản hỗ trợ nhân đạo cho các nạn nhân của bom mìn mà lại từ chối hỗ trợ
trực tiếp cho những nạn nhân da cam đi-ô-xin tại Việt Nam. Mâu thuẫn này
trong chính sách của Mỹ rất có thể là căn nguyên cho các vấn đề trong quan
hệ song phương.
Trái lại, nước Mỹ lo ngại rằng, nếu như chấp nhận một số trách nhiệm
đạo đức hay pháp lý nào đó trước vấn đề nạn nhân da cam đi-ô-xin Việt
- 10 -


Bài tập môn Chính sách đối ngoại Lê Vũ Nguyệt Minh Lớp B33


Nam, thì rất có thể Mỹ sẽ phải đối đầu với những xung đột quân sự không
mong muốn. Do vậy, trong hoàn cảnh này, điều quan trọng là bất kỳ hỗ trợ
nào được gửi đến các nạn nhân Việt Nam chịu ảnh hưởng của chất da cam
nên được coi như một hành động nhân đạo, chứ không phải là một sự thú
nhận tội ác chiến tranh.

- 11 -



×