Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện phú ninh, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.58 KB, 116 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GO
VA
IC
NN
CN
DV
GT
TĐPTBQ
TĐPTĐG

: Giá trị sản xuất
: Giá trị tăng thêm
: Chi phí trung gian
: Nông nghiệp
: Công nghiệp
: Dịch vụ
: Giá trị.
: Tốc độ phát triển bình quân
: Tốc độ phát triển định gốc

i


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................108

ii



DANH MỤC BẢNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................108

iii


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................108

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý, có hiệu quả cao là một trong những
nội dung trọng yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Sự hưng
thịnh của mỗi quốc gia đều được lấy kinh tế làm thước đo tiêu chuẩn dân giầu nước
mạnh xã hội phồn vinh. Muốn phát triển kinh tế thì nông nghiệp là một trong những
vấn đề cần đặc biệt quan tâm và “nhận thức đúng vai trò của nó trong chiến lược
phát triển kinh tế, thực hiện đồng bộ hàng loạt những vấn đề liên quan đến nông
nghiệp” Việt Nam là một nước nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, chiếm
đến 80% dân số sống ở nông thôn và có khoảng trên 70% dân số sống, lao động làm
việc trong ngành sản xuất nông nghiệp. Nên đây là một vấn đề đang được, các
ngành các cấp quan tâm, coi đó là một giải pháp quan trọng, cơ bản để đẩy mạnh
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, hiện đại
hoá nông thôn. Tuy nhiên trong cơ cấu ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao,
sản xuất chủ yếu vẫn là tập trung vào trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi và các dịch vụ
trong nông nghiệp vẫn còn chưa được chú trọng.

Cùng với sự đổi mới của cả nước, nền kinh tế của huyện Phú Ninh tỉnh
Quảng Nam trong những năm qua mặc dù đã có nhiều chuyển biến, sau khi được
thành lập theo Nghị định số 01/2005/NĐ-CP ngày 05/01/2005 của Chính phủ. Kinh
tế - xã hội đã có sự phát triển khá toàn diện và mạnh mẽ. Từ một huyện với 80% số
người dân sống bằng nghề nông, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn 60% trong cơ cấu
ngành đến nay Phú Ninh có những chuyển biến khá rõ nét. Nhờ sản xuất phát triển,
đời sống nhân dân ở các địa phương từng bước được cải thiện. Kinh tế có bước tăng
trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, lĩnh vực công nghiệp
- thương mai, dịch vụ chiếm 68%; nông nghiệp từ 60% (năm 2005) xuống còn 32%;
tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 14%; lao động phi nông nghiệp đạt 37%, tăng gần
gấp hai lần so với khi mới tách ra khỏi thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam. Song, nhìn
chung nền kinh tế của huyện Phú Ninh phát triển chưa bền vững, còn mang nặng
nền sản xuất thuần nông, mang tính chất cá thể nhỏ lẻ, tự cung tự cấp. Đời sống
của nhân dân ở huyện còn nhiều khó khăn, còn phụ thuộc chủ yếu vào
nông nghiệp.

1


Để khai thác một cách triệt để các lợi thế của huyện, nhanh chóng thay đổi
bộ mặt nông nghiệp nông thôn, từng bước hình thành và phát triển một nền nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, hiệu quả
trong thời gian tới, thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp huyện Phú
Ninh là vấn đề quan trọng mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài:
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng
Nam” để làm luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đây là chủ đề được nghiên cứu khá rộng rãi trong và ngoài nước, dưới góc
độ rộng như nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo cơ cấu
ngành, theo vùng sinh thái và theo thành phần kinh tế, đồng thời xem xét cả chuyển

dịch cơ cấu các nguồn lực trong nông nghiệp.
Như đề tài chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình của thạc sĩ Nguyễn Ngọc Quang
2006. Đề tài những giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Phú Lộc, tỉnh thừa thiên Huế của thạc sĩ Nguyễn Văn An 2004. Đề
tài chuyển dịch cơ cấu ngành và đóng góp vào chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt
Nam của tiến sĩ. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương năm 2004.
Ngoài ra có nhiều công trình đã được xuất bản như:
Nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước cảu tác giả GS,TS Hoàng Ngọc Hòa, NXB chính trị quốc
gia 2008.
Công nghiệp hóa nông nghiệp và nôn thôn ở Việt Nam con đường và bước đi
của tác giả GS, TS Nguyễn Khắc Tuấn, NXB chính trị quốc gia 2006
Song, dưới góc độ kinh tế chính trị đến nay chưa có công trình nào viết về
vấn đề này dưới dạng luận văn khoa học về huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam để
tìm ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp huyện Phú Ninh. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài trên của chúng tôi được kế
thừa, không trùng lắp với với đề tài nghiên cứu nào khác.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung

2


Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp huyện Phú Ninh từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp huyện Phú
Ninh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, hiệu quả
3.2. Mục tiêu cụ thể.

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp huyện
Phú Ninh và rút ra được thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
bền vững hiệu quả.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp bao
gồm: nông (trồng trọt và chăn nuôi), lâm, ngư nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
+ Về thời gian: Từ năm 2010 đến nay và đưa ra giải pháp đến 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp chung có tính chất phương pháp luận như
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp thu thập thông tin: Số liệu được thu thập từ nhiều nguồn dạng
thứ cấp và sơ cấp. Số liệu thứ cấp được lấy từ sách chuyên ngành, sách tham khảo,
niên giám thống kê, báo cáo khoa học, tạp chí chuyên ngành, luận văn thạc sĩ, tiến
sĩ và các báo cáo của tỉnh của huyện. Số liệu sơ cấp được lấy từ phiếu điều tra, dự
kiến là 50 phiếu cho đối tượng điều tra là cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã và 100 phiếu cho đối tượng là nhân dân.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp so sánh.
6. Kết quả và những đóng góp mới kỳ vọng đạt được của nghiên cứu
Các kết quả chính của đề tài:
Hệ thống hoá được những vấn đề lý luận và thực tiễn; các nhân tố tác động;
kinh nghiệm một số nước trong việc giải quyết vấn đề này và những bài học kinh
nghiệm bổ ích có thể rút ra. Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành


3


nông nghiệp huyện Phú Ninh trong những năm qua. Phương hướng và giải pháp có
cơ sở khoa học, có tính khả thi nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
huyện Phú Ninh.
Những đóng góp mới kỳ vọng đạt được của nghiên cứu:
Đề tài là một công trình khoa học, là tài liệu tham khảo cho những người học
tập và nghiên cứu trong lĩnh vực chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp;
giúp cho lãnh đạo các địa phương có những giải pháp khoa học trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở khoa học về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp.
Chương 2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp huyện
Phú Ninh tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Định hướng, giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp huyện Phú Ninh tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP
1.1. Lý luận cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế
Nền kinh tế của mỗi nước là một tổ hợp phức tạp, bao gồm các bộ phận và
phân hệ hợp thành. Việc phân tích, đánh giá cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét cấu

4



trúc bên trong của nền kinh tế, biểu hiện ở những mối quan hệ kinh tế giữa các bộ
phận và giữa các phân hệ của các bộ phận đó trong hệ thống kinh tế. Những mối
quan hệ kinh tế đó ràng buộc lẫn nhau và được biểu hiện ở những quan hệ về mặt
lượng cũng như quan hệ về mặt chất. C.Mác đã chỉ ra rằng: “Cơ cấu kinh tế là sự
phân chia về chất lượng và tỉ lệ về số lượng của quá trình sản xuất xã hội" [ ,13] .
Khi có sự thay đổi của một số bộ phận và phân hệ nào đó trong hệ thống kinh tế sẽ
làm thay đổi các bộ phận và phân hệ còn lại, hoặc ngược lại. Trong khi phân tích và
đánh giá một cơ cấu kinh tế trên quan điểm hệ thống nhất thiết phải chỉ ra được
định lượng và định tính của các quan hệ kinh tế. Là kết quả của quá trình phân công
lao động xã hội, cơ cấu kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất của nền kinh tế. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có các bộ phận, các
phân hệ được kế hợp với nhau một cách hài hoà, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, tài nguyên của đất nước, làm cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, có nhịp độ
tăng trưởng và phát triển ổn định, nâng cao mức sống của dân cư và tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động làm việc có hiệu quả.
“Cơ cấu kinh tế tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định hợp thành”. [1]Cơ cấu kinh tế của một nước xét trên tổng
thể bao gồm những mối liên hệ tổng thể giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế của
nước đó, bao gồm các yếu tố kinh tế, các lĩnh vực kinh tế (sản xuất, phân phối, trao
đổi, tiêu dùng),các ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ …), các khu
vực kinh tế(nông thôn, thành thị), các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, cá
thể, hộ gia đình). Ở mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi thành phần kinh tế lại có cơ cấu
riêng của mình tuỳ thuộc vào những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể. Để có
một nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định tất yếu phải có một
cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế đó phản ánh được các yêu cầu của quy luật
khách quan: Quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế xã hội. Trong việc hình thành và
vận động của cơ cấu kinh tế, nhân tố chủ quan của con người cũng có vai trò rất
quan trọng. Việc nhận thức đầy đủ và ngày càng sâu sắc các quy luật khách quan,

người ta phân tích, đánh giá hiện trạng của cơ cấu kinh tế, biết được xu hướng biến
đổi của cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó tìm ra các phương án xác lập cơ cấu kinh tế cụ

5


thể và lựa chọn phương án tối ưu có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong những
điều kiện cụ thể của đất nước. Đồng thời qua đó tìm ra và thực hiện các giải pháp
hữu hiệu để đảm bảo cơ cấu kinh tế đó đi vào cuộc sống. Lịch sử phát triển kinh tế xã hội của nhân loại đã cho thấy cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất
biến mà luôn ở trạng thái vận động, không ngừng biến đổi, phát triển và có sự
chuyển dịch cần thiết phù hợp với những thay đổi biến động của các điều kiện tự
nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Do tác động của tiến bộ kỹ thuật và ứng dụng công
nghệ mới, do sự phát triển của khoa học quản lý và ứng dụng nó trong thực tiễn
hoạt động kinh tế -xã hội, cơ cấu kinh tế cũng theo sự phát triển đó mà ngày càng
hoàn thiện hơn. Theo đà phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, cơ cấu kinh tế cũng ngày càng
tiến bộ. Muốn xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu, chiến
lược kinh tế - xã hội của các thời kỳ lịch sử nhất định, con người phải nghiên cứu
các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội. Đó là sự đòi hỏi bức thiết. Nghiên
cứu hoạch định và dự báo cơ cấu kinh tế hiện tại và trong tương lai là việc làm cần
thiết của các nhà lý luận và những người quản lý. Từ đó yêu cầu trước hết phải đặt
ra là nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn các chính sách vĩ mô, các mô hình kinh
tế cụ thể, những vấn đề kinh tế vi mô.
Từ sự phân tích trên có thể khái quát cơ cấu kinh tế như sau: “Cơ cấu kinh
tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế của mỗi nước. Các bộ phận đó
gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ
lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất
định, phù hợp với những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định, nhằm đạt được hiệu
quả kinh tế - xã hội cao” .
1.1.1.2. Ngành nông nghiệp

Sán xuất nông nghiệp là hoạt động sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi
các cây trồng và vật nuôi hữu ích cho con người.

6


Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Những điều
kiện tự nhiên như đất đai, độ ẩm, nhiệt độ, bức xạ mặt trời, lượng mưa... trực tiếp
ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng con vật nuôi.
Nông nghiệp cũng là ngành có năng suất lao động thấp vì đây là ngành phụ
thuộc rất nhiều vào tự nhiên, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp cũng rất khó khăn.
Ngoài ra sản xuất nông nghiệp ở nước ta thường gắn liền với phương pháp
canh tác, lề thói, tập quán …. đã có từ hàng ngàn năm nay.
Ở các nước nghèo nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, và thu
hút một bộ phận lao động quan trọng trong xã hội.
Kinh tế nông nghiệp theo ngành gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp. trong từng ngành cụ thể được phân theo sản phẩm như: ngành sản xuất cây
lương thực, thực phẩm, rau quả, cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, trồng
rừng, chăm sóc, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản…
Chuyên môn hóa càng cao, phân công lao động càng sâu thì phân ngành càng chi
tiết, đa dạng. Sự hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hóa phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và được thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của từng quốc gia, địa phương trong từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc xác định
và phát triển đúng hướng các ngành chuyên môn hóa trong cơ cấu sản xuất nông
nghiệp có ý nghiã quan trọng đối với việc phát triển kinh tế của địa phương và
của từng vùng. Nó sẽ sử dụng một cách hợp lý các điều kiện đặc thù, làm tăng
năng suất lao động từng ngành và lao động xã hội, tiết kiệm vốn đầu tư, tạo ra
khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, chất lượng cao giá rẻ, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng nội bộ và xuất khẩu.

Vậy theo nghĩa hẹp nông nghiệp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà
con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, con vật nuôi để tạo ra
sản phẩm như lương thực, thực phẩm … để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Nông
nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp.
1.1.1.3. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Trên góc độ không gian lãnh thổ của mỗi nước, người ta phân chia ra thành
kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị. Sự phân biệt giữa kinh tế nông thôn và kinh

7


tế thành thị dựa vào sự khác nhau về địa lý, gắn liền về trình độ phát triển lực lượng
sản xuất, phân công lao động xã hội và những đặc thù của các ngành. Khu vực nông
thôn bao gồm một không gian rộng lớn, ở đó cộng đồng dân cư sinh sống và hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (theo nghĩa rộng) với các hoạt động kinh
tế - xã hội gắn liền với lĩnh vực đó. Kinh tế nông thôn là một tổng thể các ngành
kinh tế trong khu vực nông thôn. Kinh tế nông thôn gồm các ngành liên quan mật
thiết với nhau: Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và bao gồm cả công nghiệp,
dịch vụ trong nông nghiệp . Các ngành kinh tế đó quan hệ chặt chẽ với nhau theo
những tỷ lệ nhất định về số lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất lượng. Cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp là một bộ phận của hệ thống cơ cấu kinh tế quốc dân,
phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc dân, nhưng nó cũng mang tính độc lập tương đối.
Vậy cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp được hiểu: Cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ theo tỷ lệ về số lượng và chất lượng tương
đối ổn định của các yếu tố kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp trong
một khoảng thời gian và không gian nhất định.
* Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
Ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổ hợp các ngành gắn liền với các
quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Trên cơ sở sự phát
triển của phân công lao động xã hội trong quá trình sản xuất và công nghiệp hoá,

các ngành đó được hình thành và ngày càng phát triển cho phép tách sản xuất của
các nhóm sản phẩm và các sản phẩm thành ngành kinh tế cụ thể tương đối độc lập
với nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau.
Ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm các ngành: trồng trọt, chăn nuôi
phục vụ nông nghiệp. Trong trồng trọt lại phân ra: Trồng cây lương thực, cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây cảnh …. Ngành chăn nuôi gồm có: chăn nuôi gia súc, gia
cầm, nuôi thuỷ, hải sản…. Những ngành trên được phân ra thành những ngành nhỏ
hơn. Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển tạo thành
cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

8


Phát triển ngành lâm nghiệp và giải quyết mối quan hệ hợp lý giữa nông
nghiệp với lâm nghiệp, giữa lâm nghiệp với công nghiệp nông thôn là yêu cầu
khách quan của sự phát triển kinh tế nông thôn.
Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng cấu thành kinh tế nông
nghiệp ở nước ta. Ngành thuỷ sản bao gồm: nuôi trồng, khai thác, đánh bắt và chế
biến thuỷ hải sản. Đó là một ngành kinh tế có lợi thế để phát triển, góp phần tích
cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp- nông thôn theo hướng
kết hợp nuôi trồng thuỷ đặc sản với nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến
và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ
giữa trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Đây là mối quan hệ
phản ánh sự phát triển một cách toàn diện nhằm đạt hiệu quả cao của sản xuất kinh
doanh nông nghiệp. Ngoài ra cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp còn biểu
hiện mối quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu nông sản và chế biến .
1.1.1.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Xét cả về hình thức và nội dung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở
mối quan hệ về lượng và chất của các yếu tố cấu thành kinh tế nông nghiệp. Vì vậy,

ở mỗi thời điểm khác nhau có một quan hệ tỷ lệ về các yếu tố cấu thành của kinh tế
nông nghiệp khác nhau. Bởi vì trong quá trình vận động của cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, mỗi yếu tố có sự vận động khác nhau và có sự chuyển hoá cho nhau. Xét
trên phương diện đó, cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng
đều có sự thay đổi. Đó là tất yếu khách quan do sự vận động nội tại của cơ cấu kinh
tế dưới sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chúng.
Tuy nhiên, để nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng vận động
theo đúng quy luật, khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so sánh cần phải
có sự tác động thích hợp. Qúa trình tác động vào nền kinh tế và kinh tế nông nghiệp
theo đúng quy luật và mục tiêu xác định trước được coi là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.

9


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình làm biến đổi cấu trúc
và các mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và mục tiêu
nhất định, nghĩa là đưa hệ thống đó từ một trạng thái nhất định tới trạng thái phát
triển tối ưu để đạt được hiệu quả mong muốn, thông qua sự điều khiển có ý thức
của con người, trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH là quá
trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp tạo năng
suất lao động cao. Sử dụng tốt nhất các lợi thế so sánh nói chung và mỗi địa phương
nói riêng, khai thác tối đa các tiềm năng tạo khối lượng tích luỹ ngày càng lớn cho
nền kinh tế quốc dân, góp phần vào ổn định phát triển nền kinh tế - xã hội. Đồng
thời từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là chuyển dịch từ ngành có giá trị thấp sang ngành có giá trị cao hơn cụ
thể là: Trong cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thủy sản trong
giá trị toàn ngành, tăng khối lượng nông lâm, thủy sản chế biến và xuất khẩu.Trong

nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chăn nuôi. Trong trồng trọt, tăng tỷ
trọng giá trị cây công nghiệp, rau màu, hoa quả. Trong lâm nghiệp, chuyển nhanh từ
khai thác sang thực hiện trồng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng; phủ xanh đất trống, đồi
trọc, chế biến lâm sản. Trong ngư nghiệp, phát triển nuôi trồng gắn với khai thác và
chế biến thủy hải sản.
1.1.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá và phát triển bền vững.
Trong những năm gần đây ngành nông nghiệp Việt Nam đã phát triển nhanh,
đóng góp gần 1/4 GDP toàn nền kinh tế. Sản xuất lương thực, đặc biệt là lúa gạo
tăng liên tục cả về diện tích gieo trồng và năng suất, đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia và đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới. Thâm canh trở thành xu hướng chủ đạo với việc áp dụng các thành tựu
khoa học công nghệ mới về giống, quy trình canh tác và chế biến sản phẩm. Chuyên
ngành nông nghiệpthuần đã phát triển theo hướng đa dạng hoá các loại cây trồng,

10


vật nuôi hàng hóa có giá trị và theo nhu cầu của thị trường; Chuyên ngành lâm
nghiệp đã bước đầu ngăn chặn tình trạng suy thoái rừng đã xảy ra trong những năm
gần đây; Chuyên ngành thủy sản đã phát huy lợi thế về nuôi trồng các loài thủy sản
nước ngọt, lợ và mặn trên địa bàn cả nước nên đã tạo ra nhiều loại sản phẩm thủy
sản có giá trị cao, được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng.
Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra nhiều thách thức về tính bền vững của phát
triển toàn ngành nông nghiệp như: tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian qua chủ
yếu vẫn dựa vào tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên tận dụng các yếu tố đầu vào như
lao động, vốn, vật tư và nguồn lực tự nhiên. Trong khi đó, quỹ đất nông nghiệp
giảm mạnh và bị chia nhỏ thành nhiều mảnh để chia cho các hộ gia đình nên đã gây
khó khăn trong áp dụng cơ giới hoá, đưa đến hiệu quả sử dụng thấp; tình trạng lũ
lụt, hạn hạn và dịch bệnh diễn ra phổ biến đã ảnh hưởng xấu đến kết quả sản xuất;

giá cả nông sản biến động nhanh và theo chiều hướng xấu đã tác động tiêu cực tới
sản xuất, thu nhập và đời sống của người nông dân. Chính sách nhà nước đối với
nông nghiệp chưa đề cập và xử lý kịp thời những tác động tiêu cực của thiên tai và
biến động của thị trường, dẫn đến động lực sản xuất của nông dân giảm sút.
Hiện nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta vẫn còn rất lạc hậu, còn
mang nặng tính chất tiểu nông, tự cấp, tự túc, biểu hiện: Sản xuất nông nghiệp trong
cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn là chủ yếu, công nghiệp và dịch vụ kém phát triển.
Trong cơ cấu nông nghiệp chủ yếu là nông nghiệp thuần túy (chiếm đến trên 75%),
lâm nghiệp và ngư nghiệp còn nhỏ bé. Trong sản xuất nông nghiệp thì trồng trọt
chiếm tỷ lệ lớn gấp hơn 3 lần so với chăn nuôi. Trong trồng trọt, diện tích cây lương
thực chiếm tỷ lệ lớn (trên 60%).
Trước thực trạng nông nghiệp Việt Nam hiện nay, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn sẽ giúp cho nông nghiệp, nông thôn có
bước phát triển nhanh, vững chắc, đạt được các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã
đề ra, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bởi vì:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tạo
điều kiện tiếp tục giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội với hai nguồn lực quan

11


trọng là tài nguyên thiên nhiên và sức lao động rất dồi dào ở nông thôn, tạo ra sản
phẩm thích ứng với lợi thế từng vùng miền, có sức cạnh tranh cao trên thị trường
quốc tế, giúp cho đẩy mạnh xuất khẩu, tăng tích lũy ngoại tệ, thúc đẩy công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tạo
điều kiện bố trí lại sản xuất và cây trồng con vật nuôi hợp lý hơn nhằm tạo ra sản
phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, giá trị cao, chi phí thấp, đáp ứng nhu cầu trên
thị trường thu được lợi nhuận cao tăng đóng góp cho thu nhập quốc dân.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa còn

tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, giúp tăng
cường sự hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
+ Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
chính là tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn trên cơ sở giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo ra sự
phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách giữa đô thị và nông thôn,
giữ vững ổn định, trật tự xã hội và củng cố an ninh quốc phòng quốc gia.
Những vấn đề đặt ra trên đây đã đưa tới sự cần thiết phải tiếp tục chuyển
dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng mới, đó là chú trọng tính hiệu quả, tính
bền vững, từ bỏ cách phát triển theo chiều rộng, chi phí cao, kém hiệu quả và không
bền vững. Đó là nội dung tiếp tục phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
trong điều kiện mở rộng thị trường và hội nhập quốc tế đến năm 2020

1.1.3. Nội dung và đặc điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.1.3.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông – lâm – thủy sản theo xu hướng giảm dần
tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp nhằm khai thác
tốt hơn lợi thế của những tiềm năng đất đai vùng trung du, miền núi, diện tích mặt

12


nước, ao hồ, sông, suối, biển. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với nông – lâm – thủy sản
để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong nông nghiệp xu hướng phát triển làm giảm dần độc canh lúa, tăng dần
tỷ trọng cây công nghiệp, rau, quả, cây đặc sản, chăn nuôi để sản xuất ra nhiều nông
sản hàng hóa và xuất khẩu có giá trị cao.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt và chăn nuôi:
Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chủ yếu của nông nghiệp. Trong nền
kinh tế nông nghiệp truyền thống, trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nông

nghiệp, bởi vì sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho đời sống nhân
dân. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu
sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ trọng ngành chăn nuôi có xu
hướng tăng lên. Ở Việt Nam, ngành trồng trọt vẫn giữ vai trò chủ đạo, tỷ trọng
ngành chăn nuôi có tăng, nhưng còn chậm.
- Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành trồng trọt:
Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu chủ yếu là giữa cây lương thực với cây
công nghiệp rau, quả. Theo xu hướng chung, cơ cấu bữa ăn sẽ dần thay đổi theo
hướng giảm bớt lương thực. Cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp nhẹ (công nghiệp dệt, thực phẩm, dược liệu, hóa chất, …). Những ngành
công nghiệp này lại là những ngành thu hút nhiều lao động, do đó phát triển những
ngành này sẽ tạo thêm việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, để phát triển cây
công nghiệp cần chú ý về yêu cầu về quy trình kỹ thuật, vốn đầu tư ban đầu và thâm
canh nhiều hơn so với cây lương thực. Rau, hoa quả, rất cần thiết cho đời sống con
người nhu cầu về rau, hoa quả ngày càng có xu hướng tăng lên cả trong nhu cầu bữa
ăn cũng như đời sống xã hội. Sản xuất những sản phẩm này chú ý áp dụng công
nghệ tiên tiến và bố trí gần nơi thuận lợi cho vận chuyển cũng như nơi tiêu thụ.
- Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành chăn nuôi:
Ở Việt Nam chăn nuôi gia súc, gia cầm là hoạt động sản xuất quan trọng
trong nông nghiệp trâu, bò, lợn, gà, vịt thường được nuôi phổ biến. Ngoài ra các vật
nuôi khác như ngựa, dê, ngan, ngỗng … tuy còn nhỏ bé nhưng cũng góp phần đa

13


dạng hóa sản phẩm. Đặc điểm của việc phát triển chăn nuôi phản ánh điều kiện và
thế mạnh của từng vùng. Cơ cấu các loại gia súc, gia cầm có sự chuyển dịch theo
hướng tăng các loại vật nuôi có giá trị phục vụ tiêu dùng với chất lượng cao và xuất
khẩu. Cụ thể thời gian qua ở Việt Nam là giảm tỷ trọng đàn lợn, tăng tỷ trọng đàn
bò và gia cầm, nhưng sự dịch chuyển này rất chậm.

- Lâm nghiệp:
Trong lâm nghiệp, chuyển nhanh từ khai thác sang thực hiện trồng, khoanh
nuôi, bảo vệ rừng; phủ xanh đất trống, đồi trọc, chế biến lâm sản. Phát triển lâm
nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến
khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để
người dân có thể sống, làm giàu từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; hình thành các tổ
hợp trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản và phát triển các
vùng rừng chuyên môn hoá bảo đảm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nguyên liệu
trong nước cho công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giấy.
-Ngư nghiệp:
Trong ngư nghiệp, phát triển nuôi trồng gắn với khai thác và chế biến thủy
hải sản.Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi
thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh
là chủ yếu đối với thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi trồng với chế
biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với
ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại
hoá các cơ sở chế biến thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ
phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
1.1.3.2. Đặc điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Những đặc điểm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được biểu hiện
như sau:
-Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu ngành và chúng chỉ có thể có sự chuyển biến mạnh mẽ khi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp biến đổi theo hướng có tính quy luật, giảm tương đối và tuyệt

14


đối lao động hoạt động trong khu vực nông nghiệp với tư cách là lao động tất yếu,

lao động này ngày càng thu hẹp để tăng lao động thặng dư.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tồn tại và phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội. Mỗi một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội tương ứng với một cơ cấu kinh tế nông thôn cụ thể.
C.Mác nói “Trong sự phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là tất yếu không ai
tránh khỏi, một sự tất yếu thầm kín, yên lặng” [,14]. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
cơ cấu kinh tế cụ thể trong hệ hống kinh tế nông nghiệp cũng như xu hướng chuyển
dịch của chúng ra sao là tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội, những điều
kiện tự nhiên nhất định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Tuy
nhiên, các quy luật kinh tế lại được biểu hiện và vận động thông qua hoạt động của
con người. Vì vậy, con người phải nhận thức đầy đủ các quy luật kinh tế cũng như
các ngành tự nhiên để từ đó góp phần vào việc hình thành, biến đổi và phát triển cơ
cấu kinh tế nông nghiệp sao cho cơ cấu đó ngày càng hợp lý và đem lại hiệu quả
cao. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, cơ cấu kinh tế
còn bị chi phối bởi sự phát triển kinh tế chung của vùng và của thế giới. Như vậy,
việc hình thành và vận động của cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải tôn trọng
khách quan và không được áp đặt chủ quan, duy ý chí.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp không cố định mà luôn luôn vận động và biến
đổi. Sự vận động biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn gắn liền với điều
kiện kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên và tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ
mới. Sự tác động của các điều kiện đó làm cho các bộ phận kinh tế trong hệ thống
kinh tế nông nghiệp biến đổi, tác động lẫn nhau, tạo ra một cơ cấu kinh tế nông
nghiệp mới. Cơ cấu ấy vận động và phát triển, đến lượt nó phải nhường chỗ cho
một cơ cấu mới khác ra đời. Tuy vậy, để đảm bảo cho quá trình hình thành, vận
động và phát triển của cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách khách quan, yêu cầu đặt
ra là cơ cấu nông nghiệp phải đảm bảo tương đối ổn định. Nếu cơ cấu kinh tế nông
nghiệp thường xuyên thay đổi, xáo trộn sẽ làm cho các quá trình sản xuất kinh

15



doanh không ổn định, quá trình đầu tư lúng túng, lưu thông hàng hoá trở ngại, làm
cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển què quặt và phiến diện, gây lãng phí,
tổn thất cho nền kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính hợp tác và cạnh tranh. Trong việc
lựa chọn một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, có hiệu quả cao phải xem xét đầy
đủ các yếu tố từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc hình thành cơ cấu kinh tế và mối liên
hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Sự gắn bó được biểu hiện trong quá trình
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong việc bố trí sản xuất, hoạch định các
chính sách, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tổ chức quá trình
sản xuất kinh doanh chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp
1.1.4.1. Nhân tố nguồn lực tự nhiên.
Các nguồn lực tự nhiên như nguồn nước, khí hậu.., có ảnh hưởng mạnh tới
hướng phát triển ngành nông lâm thủy sản ở từng vùng, tiểu vùng địa lý. Điều kiện
tự nhiên khác nhau giữa các vùng, tiểu vùng đã tạo ra lợi thế so sánh và sức cạnh
tranh riêng của ngành nông nghiệp ở từng vùng, tiểu vùng và là căn cứ quan trọng
để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng về ngành nông nghiệp.
Việt Nam là quốc gia có sự đa dạng cao về điều kiện tự nhiên giữa các vùng,
vì vậy đã tạo ra tính đa dạng của các loại sản phẩm nông, lâm, thủy sản. 7 vùng kinh
tế sinh thái từ Bắc xuống Nam là: Trung du Miền núi phía bắc; Đồng bằng Sông
hồng; Bắc trung bộ; Nam trung bộ; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ và Đồng bằng
Sông cửu long có điều kiện tự nhiên về đất đai, khí hậu rất khác nhau nên đã tạo ra
các lợi thế và bất lợi thế ở từng vùng trong phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản,
hình thành nhân tố tự nhiên, ảnh hưởng mạnh tới định hướng phát triển và cơ cấu
sản phẩm của ngành nông nghiệp ở các vùng, tạo nên tính đa dạng về sản phẩm và
sự khác biệt về cơ cấu ngành nông nghiệp theo vùng sinh thái.


16


Dưới tác động của nhu cầu thị trường trong và ngoài nước về hàng hóa nông
sản trong những năm vừa qua, ngành nông nghiệp Việt Nam định ra được lợi thế
riêng cho từng vùng và đã phát triển các sản phẩm cụ thể ở từng vùng, tạo nên cơ
cấu sản phẩm của từng vùng phù hợp với thị trường, khai thác có hiệu quả đất đai,
nguồn nước và các nguồn lực khác ở từng vùng sinh thái nông nghiệp.
Tuy nhiên phải thấy rằng, nhân tố nguồn lực tự nhiên không tự tạo ra ảnh
hưởng tích cực hay tiêu cực tới phát triển nông nghiệp và tạo dựng cơ cấu ngành
nông nghiệp ở từng vùng, mà chính con người thông qua nhận thức của mình về
những điểm mạnh, điểm yếu của nguồn lực tự nhiên ở từng vùng mà quyết định
phát triển hướng ngành nông nghiệp cho phù hợp. Như vậy, nhận thức đúng của con
người về nguồn lực tự nhiên và quyết định phát triển nông nghiệp theo hướng nào
cho phù hợp chính là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển nông nghiệp.
Để nhận thức đúng về nguồn lực tự nhiên, ngày nay Việt Nam vẫn tiếp tục
phải nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá để đưa ra định hướng phát triển nông nghiệp
hợp lý nhất so với nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm làm ra.
1.1.4.2 Lực lượng lao động trong nông nghiệp.
Lực lượng lao động trong nông nghiệp là yếu tố năng động và cách mạng
nhất của lực lượng sản xuất, nó quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nhân tố
này luôn bao gồm hai khía cạnh, đó là số lượng và chất lượng lao động. Cả hai khía
cạnh này đều ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến phát triển và chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp. Nếu lao động nông nghiệp có số lượng thích hợp, có chất lượng
cao thì sẽ ảnh hưởng rất tích cực đến phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp. Ngược lại nếu lao động nông nghiệp thiếu hoặc đủ về số lượng so với yêu
cầu của sản xuất, nhưng yếu kém về chất lượng thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát
triển và chuyển dịch ngành nông nghiệp, đồng thời khó đạt năng suất và hiệu quả
lao động cao.
Thực trạng lực lượng lao động nông nghiệp của Việt Nam như sau: Trong

giai đoạn 2005 đến 2010 số lượng lao động trong ngành nông nghiệp tăng từ 23,6
triệu người vào năm 2005 lên 24,4 triệu người vào năm 2013, bình quân tăng

17


126,55 nghìn người/năm (0,5%/năm). Tình trạng lao động ngày càng dư thừa so với
diện tích đất nông nghiệp có thể sử dụng vào sản xuất nông nghiệp gây khó khăn
cho việc tăng quy mô diện tích đất sản xuất của mỗi hộ nông dân và tăng nhanh
năng suất lao động. Về năng suất lao động nông nghiệp, bình quân giai đoạn 20112013 năng suất lao động của 1 lao động nông nghiệp đạt 17,8 triệu đồng, cao hơn
1,1 lần so với giai đoạn 2006-2010 (16,2 triệu đồng) và 1,4 lần so với giai đoạn
2000-2005 (12,7 triệu đồng). Tốc độ tăng năng suất lao động nông nghiệp bình
quân ở giai đoạn 2006-2010 đạt 4,7%/năm cao hơn so với giai đoạn 2001-2005
(4,1%/năm). Bình quân giai đoạn 2000-2013 tốc độ tăng năng suất lao động nông
nghiệp đạt 2,9%/năm. Như vậy, việc sử dụng lao động trong nông nghiệp đã có tiến
bộ về năng suất và thu nhập, nhưng chưa đạt như mong muốn. Ngày nay, kinh tế thị
trường đã phát triển đến sự thống nhất khu vực và thế giới, người lao động trong
nông nghiệp muốn là chủ thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa thì không
thể chỉ dừng lại ở sản xuất hàng hóa giản đơn mà phải là những người có trình độ
kinh doanh hàng hóa phát triển, phải có tri thức làm giàu. Một mặt người lao động
nông nghiệp phải tự vươn lên năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm; phải có sự
trợ giúp đắc lực của giáo dục và đào tạo, dịch vụ khuyến nông, đặc biệt là vai trò
quy hoạch, đầu tư lớn và đồng bộ của Nhà nước. Đặc biệt trình độ dân trí, khả năng
lao động, kỹ năng nghề nghiệp, tính cần cù, thông minh,… là những yếu tố ảnh
hưởng đến việc hình thành và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Trong thực tế,
trình độ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp hàng hóa phải cao hơn người sản
xuất trong nền kinh tế tự nhiên, phải từ bỏ tập quán và thói quen sản xuất theo kiểu
tự cung, tự cấp, dám bỏ sức và tiền của vào sản xuất cái gì có khả năng nhất, hiệu
quả nhất.
1.1.4.3. Lợi thế của địa phương trong phát triển nông nghiệp.

Đối với nước ta sản xuất nông nghiệp có lợi thế về khí hậu, đất đai, mặt nước
rừng và lao động. Điều kiện khí hậu tạo ra một nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng,
sản xuất nhiều vụ trong năm mà không cần chi phí điều tiết khí hậu. Lao động nông
nghiệp khá dồi dào giá rẻ. Đó là hai lợi thế ưu ái nhất mà nước ta có được. Tuy

18


nhiên mỗi địa phương lại có được những lợi thế riêng của địa phương mình như lợi
thế về đất đai, về vốn, về lao động, về thị trường, về giao thông. Lãnh đạo các địa
phương sẽ dựa vào lợi thế so sánh của địa phương mình mà đưa ra chính sách điều
chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý, để phát huy tối đa lợi thế đó. Nếu xu hướng chuyển
dịch có thể khai thác được lợi thế của địa phương thì sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế diễn ra nhanh và hiệu quả; ngược lại sẽ làm chậm quá trình chuyển dịch
và thậm chí không đạt được kết quả như mong muốn. Do đó những lợi thế của địa
phương tác động không nhỏ đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp.
1.1.4.4. Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp
Trong điều kiện hiện nay việc ứng dụng khoa học vào quá trình sản xuất
nông nghiệp là điều kiện không thể thiếu, đó là yếu tố cơ bản để tăng năng suất lao
động, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.Khoa học kỹ
thuật trong nông nghiệp được biểu hiện ở một số mặt cơ bản như là: ứng dụng tiến
bộ công nghệ sinh học vào sản xuất; hoàn thiện hệ thống quy trình công nghệ bảo
quản và chế biến sản phẩm; kỹ thuật trong việc sử dụng và cải tạo đất, sử dụng
nguồn nước phục vụ nông nghiệp, nông thôn và bảo vệ môi trường; kỹ thuật trong
việc sử dụng các phương tiện hóa học như phân bón, thuốc bảo vệ cây trồng vật
nuôi, thuốc kích thích tăng trưởng, vật liệu hóa học xây dựng; những tiến bộ liên
quan đến người lao động nông nghiệp bao gồm: trình độ văn hóa, trình độ quản lý,
kỹ năng, kỹ xảo, trình độ lành nghề, trình độ tiếp thị; tiến bộ kỹ thuật trong trang bị
và sử dụng các phương tiện cơ khí như: Máy công tác hay là công cụ lao động nói

chung; hệ thống các công trình thụy lợi; các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất như đường sá, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, nhà xưởng, kho
bãi,… Các yếu tố này được coi là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, chính là “giá đỡ
vật chất”, là bộ xương sống của sản xuất, là nhân tố trực tiếp làm thay đổi trạng thái
của sản xuất, nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa nông sản.
Phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn liền với cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại mà trước hết là công nghệ sinh học, tiến bộ kỹ thuật gen, nuôi cây tế

19


bào. Những thành tựu này, một mặt mở ra khả năng, hướng đi mới, từ ứng dụng và
chuyển giao công nghệ tạo ra những giống cây, con có năng suất, chất lượng cao,
tăng khả năng cạnh tranh; mặt khác đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc, lựa chọn, quy
hoạch ứng dựng các công nghệ mới đó một cách hợp lý với điều kiện tự nhiên, đặc
điểm kinh tế - xã hội trong nước.
1.1.4.5. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường
nông sản.
Khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản có ảnh hưởng mạnh và trực tiếp
đến phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Nếu năng lực cạnh tranh
của các sản phẩm nông sản thấp thì nó sẽ làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp không thể đạt tới mục tiêu đề ra hoặc đạt ở mức thấp và cơ cấu
ngành vẫn không đem lại hiệu quả, làm kéo dài quá trình này và gây tốn kém, lãng
phí các nguồn lực xã hội. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về sự khác biệt của điều
kiện tự nhiên. Tuy nhiên, để khai thác lợi thế trên, tránh nguy cơ bị ép giá, ngành
cần hình thành chiến lược sản xuất và phân phối phù hợp với nhu cầu thị trường để
đạt hiệu quả cao nhất. Các đối thủ cạnh tranh chính Việt Nam là Thái Lan,
Indonexia, Ấn Độ, Trung Quốc…
Ảnh hưởng cụ thể của năng lực canh tranh sản phẩn tới chuyển dịch cơ cấu

ngành nông nghiệp thể hiện trên các mặt sau:
+ Tạo thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa nông lâm thủy sản hàng hóa, thị
trường xuất hàng hóa nông lâm thủy sản mở rộng nhờ vào chất lượng hàng hóa tăng
lên, giá thành sản xuất thấp, hệ thống quy trình sản xuất thực phẩm an toàn vệ sinh,
xuất sứ nguồn gốc được hoàn thiện.
+ Giúp người sản xuất tiếp cận nhanh với thị trường để ra quyết định đầu tư
đúng, nâng cao giá trị, mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp bền vững.
1.1.4.6. Công nghiệp chế biến nông sản
Sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nông sản có một ý nghĩa
rất lớn đối với sự phát triển nông nghiệp: Một là, nó biểu hiện rõ nông nghiệp đã

20


chuyển biến thành một ngành công nghiệp; Hai là, sự phát triển của việc chế biến
về mặt kỹ thuật các nông sản thường gắn liền với sự tiến bộ kỹ thuật trong nông
nghiệp, vì bản thân việc sản xuất nguyên liệu để chế biến thường thường đòi hỏi
phải cải tiến nông nghiệp, mặt khác, những phế liệu trong khi chế biến thường đem
dùng vào nông nghiệp, làm cho sản lượng nông nghiệp tăng lên và ít ra cũng khôi
phục một phần sự thăng bằng và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và công
nghiệp. Các loại hình DN và tổ chức kinh doanh hoạt động trong ngành nông
nghiệp chính là các tác nhân tạo ra động lực cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
ngành. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay của nước ta cần khuyến khích phát triển
các doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, nhằm đưa sản phẩm nông
nghiệp vào chế biến; góp phần nâng cao giá trị sản phẩm trên thị trường. Sự phát
triển về lượng và chất của các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
chế biến nông sản đóng vai trò là nhân tố chủ động thúc đẩy tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu toàn ngành nông nghiệp trên quy mô cả nước và ở quy mô
các vùng sinh thái.

1.1.4.7. Chính sách nông nghiệp của chính phủ.
Nếu chính sách nông nghiệp đúng đắn, thích hợp nó sẽ phát huy được tính
năng động của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng
thế mạnh của đất nước, đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa và ngược lại nếu các chính sách nông
nghiệp của Nhà nước không đúng đắn, không thích hợp nó sẽ trở thành yếu tố kìm
hãm sự phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước
thông qua các chính sách để khắc phục những khuyết tật của thị trường, cụ thể như:
chính sách đất đai, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách khoa học - công
nghiệp, chính sách tiêu thụ nông sản… các chính sách này vừa tạo phân công lao
động xã hội, vừa tạo điều kiện môi trường để thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Thực tiến cho thấy ở nhiều nước trên thế giới, mặc dù điều kiện tự nhiên
không được thuận lợi nhưng nông nghiệp hàng hóa đạt được tốc độ phát triển cao,

21


×