Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại PGD lê trọng tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.69 KB, 90 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

MỤC LỤC

1
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NHTM

: Ngân hàng thương mại

TMCP

: Thương mại cổ phần

PGD

: Phòng giao dịch

DNVVN



: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TDNH

: Tín dụng ngân hàng

DN

: Doanh nghiệp

KH

: Khách hàng

NQH

: Nợ quá hạn

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

QD

: Quốc doanh


NQD

: Ngoài quốc doanh

RRTD

: Rủi ro tín dụng

DPRR

: Dự phòng rủi ro

2
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

3
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 15 năm đổi mới, Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, sản xuất không đủ tiêu dùng đã và đang vươn lên dần khẳng định được
uy tín, từng bước tiến vào các thị trường lớn, ổn định, nâng cao vị thế của
mình trên trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, bình đẳng theo
pháp luật, hiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Bên
cạnh đó là rất nhiều những cơ hội và thách thức khi đất nước hội nhập sâu
vào kinh tế thế giới thông qua các Hiệp định thương mại tự do, hình thành
Cộng đồng Kinh tế ASEAN, tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tính cạnh tranh của
mình, linh hoạt đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Để làm được điều đó
thì yếu tố cần thiết nhất với các doanh nghiệp chính là vốn- cơ sở hàng đầu
quyết định sự tăng trưởng kinh tế dù là với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ
một nền kinh tế nào.
Thực tế hiện nay, trong số khoảng 500 nghìn doanh nghiệp đang hoạt
động theo Luật doanh nghiệp nước ta, thì có trên 90% là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Theo đó, loại hình doanh nghiệp này đóng vai trò quan trọng,
nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các
nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Cụ thể, về
lao động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; sử dụng tới 51%
lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP… Nhu cầu về vốn ngày càng
lớn nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh tạo ra năng lực mới, nâng
cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt là với những doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) do vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp
thiết. Bởi vậy ngân hàng chính là nơi những doanh nghiệp này tìm đến để

hỗ trợ giải quyết các vấn đề về vốn.
Tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) là hình thức sử dụng
vốn phổ biến đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và
4
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

nhỏ nói riêng. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không ít những khó khăn và tồn tại như: sự
an toàn, chất lượng, hiệu quả... nhất là vấn đề chất lượng của các khoản tín
dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các ngân hàng vì chất lượng tín dụng liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Nhận thức được vấn đề này, qua quá trình thực tập tại Phòng giao
dịch Lê Trọng Tấn – Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà Nội, với
kiến thức đã học và thực tế, được sự hướng dẫn của thầy giáo Th.S Cao
Đông Hưng cùng sự nhiệt tình giúp đỡ của các anh chị cán bộ công nhân
viên Phòng giao dịch Lê Trọng Tấn – Ngân hàng TMCP An Bình chi
nhánh Hà Nội, em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại PGD Lê Trọng Tấn – Ngân hàng
TMCP An Bình chi nhánh Hà Nội” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình
với mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn để có cái nhìn
đúng đắn về tầm quan trọng của việc đảm bảo và nâng cao chất lượng tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua đó đưa ra các giải pháp

kiến nghị góp phần nhỏ bé vào việc định hướng nâng cao chất lượng tín
dụng đảm bảo hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
PGD Lê Trọng Tấn – Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại PGD Lê Trọng Tấn – Ngân hàng TMCP An Bình
chi nhánh Hà Nội

5
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với
lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hóa,

tại một thời điểm nhất định luôn luôn tồn tại một thực tế là có những người
đang tạm thời có một số tiền nhàn rỗi, trong khi có người lại đang rất cần
khối lượng tiền như vậy để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hay những cơ hội
đầu tư hiệu quả, họ sẵn sàng trả một khoản chi phí để có quyền sử dụng
khoản vốn này. Theo quy luật cung - cầu, họ sẽ gặp nhau và khi đó cả
người đi vay, người cho vay, và cả xã hội đều có lợi, sản xuất lưu thông,
đời sống được cải thiện. Theo đà phát triển, ngân hàng ra đời như một tất
yếu khách quan và là một trong những cách thức quan trọng, phổ biến nhất.
Các ngân hàng có thể được khái niệm qua chức năng, các dịch vụ hoặc
vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, như là doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ, tổ chức tín dụng, trung gian tài chính,… Theo Peter S.Rose: ''Ngân
hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dich vụ tài
chính da dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán
6
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.''
Ngân hàng gồm nhiều loại tùy vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, số lượng các ngân hàng.
Theo Điều 1, Khoản 1, Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước Việt Nam
số 38-LCT/HĐNN ngày 23/5/1990 về Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và

Công ty tài chính, “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Như vậy, NHTM là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác.
Theo Luật số: 47/2010/QH12 Luật các tổ chức tín dụng do Quốc Hội
Việt Nam ban hành: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Trong thực tế, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam ngoài thực
hiện các hoạt động ghi trong luật nêu trên còn phải thực hiện các hoạt động
khác phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chẳng hạn như cho vay ưu đãi đối với một số dự án, một số đối
tượng, cho vay hỗ trợ phát triển một số thành phần kinh tế,… Do đó, các
ngân hàng thương mại thường được hiểu là một ngân hàng thực hiện các
dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ, nhận tiền gửi, cho vay,… và chịu
sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
1.1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
NHTM có 3 chức năng cơ bản:
7
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng


(1) Là trung gian tài chính

Hình 1.1. Chức năng trung gian tài chính của NHTM
NHTM là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư dưới hình thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Khi
thực hiện chức năng trung gian tài chính, NHTM đóng vai trò cầu nối giữa
người có nhu cầu về vốn và người dư thừa vốn.
Thông qua việc huy động các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế, NHTM hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền
kinh tế. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người cho vay vừa
đóng vai trò là người đi vay. Như vậy, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho
tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
• Về phía người gửi tiền: họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn
rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Ngân
hàng cũng đảm bảo cho họ sự an toàn đối với khoản tiền gửi và cung cấp
các dịch vụ thanh toán nhanh chóng, tiện lợi.
• Về phía người đi vay: họ thoả mãn được nhu cầu vốn để
thanh toán, kinh doanh, chi tiêu, mà không phải chi phí nhiều về sức lực,
thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn với giá rẻ, chắc chắn, tiện lợi
và hợp pháp.
• Về phía NHTM, ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Đây
chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của NHTM.
8
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

• Về phía nền kinh tế, chức năng này đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bởi nó đáp ứng nhu cầu vốn đảm bảo quá
trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Thực
hiện chức năng này, NHTM đã biến vốn tạm thời nhàn rỗi không hoạt động
thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tài chính được xem là chức năng quan trọng
nhất của NHTM, phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để
cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời nó
cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
(2) Là trung gian thanh toán
Khi NHTM nhận tiền gửi và cho vay – thực hiện chức năng trung
gian tài chính – tất yếu dẫn đến cơ sở của thanh toán hộ. Đầu tiên là thanh
toán hộ giữa những khách hàng có tiền gửi ở cùng một ngân hàng, sau đó
mở rộng ra khi hệ thống thanh toán liên ngân hàng được hình thành.
NHTM thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ theo lệnh của
khách hàng. NHTM đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh
nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
Việc các NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý
nghĩa rất lớn với toàn bộ nền kinh tế., Các NHTM cung cấp cho khách
hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi, nhờ vậy các chủ thể kinh tế sẽ
tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải
thanh toán và đảm bảo được việc thanh toán an toàn. Qua đó, chức năng
này đẩy nhanh tốc độ thanh toán, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tốc độ lưu
chuyển vốn, góp phần phát triển kinh tế. Hơn nữa, việc thanh toán không

dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giúp giảm lượng tiền mặt trong lưu thông,
tiết kiệm được chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, bảo quản tiền,
đếm nhận,...
9
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

Đối với bản thân NHTM, chức năng trung gian thanh toán góp
phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh
toán, làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có
trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Ngoài doanh thu từ phí, NHTM
còn mở rộng huy động và cho vay. Chức năng này cũng chính là cơ sở
hình thành chức năng tạo tiền của NHTM.
(3) Tạo phương tiện thanh toán
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Hệ
thống ngân hàng tham gia tạo nên phương tiện thanh toán là tiền ghi sổ.
Các ngân hàng không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo
phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Ban
đầu các ngân hàng đã tạo ra tiền giấy thay cho tiền kim loại dựa trên số
lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, giấy nợ của ngân hàng
đã dần dần thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện
cất trữ, trở thành tiền giấy.
Từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, NHTM sử dụng để cho vay
bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền đó sẽ quay lại NHTM một

phần khi những người sử dụng tiền gửi vào ngân hàng dưới dạng tiền gửi
không kỳ hạn. Quá trình này tiếp diễn trong hệ thống ngân hàng tạo nên
một lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban
đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số tiền gửi. Hệ số này, đến
lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố bao gồm tỷ lệ dự trữ vượt mức, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công
chúng.
Với chức năng tạo phương tiện thanh toán, hệ thống ngân hàng
thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, từ đó đáp
ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Như vậy rõ ràng khái niệm về
tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do ngân hàng trung ương phát
10
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là tiền ghi sổ do các NHTM
tạo ra.
Chức năng này của NHTM cũng chỉ ra mối quan hệ giữa lưu thông
tiền tệ và tín dụng ngân hàng. Một khối lượng tín dụng mà NHTM cho vay
làm tăng khả năng tạo tiền của NHTM, dẫn đến làm tăng lượng tiền cung
ứng.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau, trong đó chức năng trung gian tài chính là chức năng cơ bản
nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng còn lại. Đồng thời, khi

ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo
phương tiện thanh toán cũng đã góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở
rộng hoạt động tín dụng.
1.1.1.3. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng không
ngừng tăng cường mở rộng danh mục các sản phẩm của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả
và thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên, về cơ bản hoạt động của NHTM bao gồm
ba nhóm cơ bản:
- Hoạt động huy động vốn.
- Hoạt động cấp tín dụng.
- Hoạt động cung cấp các dịch vụ khác.
(1) Hoạt động huy động vốn:
Cho vay được xem là hoạt động mang lại lợi nhuận cao do đó các
NHTM tìm mọi cách để huy động vốn nhằm phục vụ mục đích cho vay.
Huy động vốn là hoạt động “đầu vào” đối với một NHTM. Nguồn vốn của
NHTM đến từ các nguồn bao gồm: vốn tự có, vốn vay (vay của các tổ chức
tài chính, vay của Ngân hàng trung ương, doanh nghiệp, dân cư,…), lợi
11
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

nhuận giữ lại... Ngân hàng đóng vai trò là nhân tố tập hợp các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hình thức:

* Nhận tiền gửi tiết kiệm của cá nhân và tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức:
nguồn vốn này chiếm tỉ trọng chủ yếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động của
NHTM.
* Nguồn đi vay: NHTM có thể vay trên thị trường liên ngân hàng, vay
ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác, … đây là nguồn vốn
quan trọng và rất cần thiết vì nó đáp ứng được kịp thời và đảm bảo cho hoạt
động của ngân hàng diễn ra một cách liên tục khi NHTM lâm vào tình trạng
thiếu hụt vốn tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả hay nhu cầu
vay vốn của khách hàng.
(2) Hoạt động sử dụng vốn:
Sau khi huy động được vốn, NHTM phải sử dụng thế nào để hiệu
quả hoá những nguồn tài sản này. Thông thường hoạt động sử dụng vốn
của ngân hàng tập trung vào các hình thức sau:
* Nghiệp vụ ngân quỹ: là hoạt động của NHTM nhằm bảo đảm khả
năng thanh toán thường xuyên, bao gồm : các quỹ tiền mặt, các khoản tiền
gửi thanh toán ở Ngân hàng trung ương và NHTM khác, các khoản tiền
đang trong quá trình thu về.
* Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân
hàng để tạo ra lợi nhuận. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn từ
60-80% tổng số tài sản có của NHTM, đem lại hơn 60% doanh lợi cho
ngân hàng. Đại bộ phận tiền huy động được NHTM cho vay theo 2 loại
chính là cho vay ngắn hạn và cho vay trung-dài hạn để thực hiện các dự án
đầu tư phát triển kinh doanh, sản xuất, dịch vụ, đời sống. Tuy nhiên, trong
thực tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và của ngành ngân
hàng, các NHTM còn đưa ra nhiều loại hình tín dụng khác, đáp ứng mọi
nhu cầu tín dụng của các thành phần trong nền kinh tế. Ví dụ như: tín dụng
12
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

thông thường cho các đơn vị kinh doanh, tín dụng thuê mua, tín dụng
chứng từ ,…
* Nghiệp vụ đầu tư: hoạt động đầu tư của NHTM diễn ra chủ yếu
trên thị trường tài chính thông qua mua bán các chứng khoán. Ngân hàng
thu được lợi nhuận từ khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra,
ngân hàng còn có thể tiến hành đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu hoặc
hùn vốn, góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp và sẽ được phân chia lợi
nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
(3) Hoạt động khác:
Để giúp ngân hàng phát triển toàn diện và đem lại những khoản thu
nhập khá quan trọng, NHTM còn tiến hành các nghiệp vụ trung gian bao
gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách hàng qua đó làm tăng sự thoả mãn của khách hàng đối với
2 loại nghiệp vụ cơ bản kể trên. Các dịch vụ trung gian thường là: dịch vụ
chuyển khoản, dịch vụ thu hộ - chi hộ, dịch vụ cung cấp các công cụ thanh
toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ kiều hối - thu đổi ngoại tệ, dịch vụ tư vấn
thông tin, dịch vụ thuê mua và bảo lãnh,… Các nghiệp vụ trung gian này có
vai trò bổ sung thêm vào các nghiệp vụ cơ bản, tạo giá trị gia tăng và có thể
tạo ra sự khác biệt của ngân hàng trong cạnh tranh.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và là
một sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá. Nó tồn tại và phát triển song
song cùng với nền kinh tế hàng hoá, là động lực quan trọng thúc đẩy nền

kinh tế hàng hoá phát triển lên những giai đoạn cao hơn. Trải qua nhiều
hình thái kinh tế - xã hội, đã có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng
được đưa ra. Song khái quát lại có thể hiểu tín dụng theo khái niệm cơ bản
sau:
13
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

“ Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch
giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho
bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận
được phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.”
Tín dụng là hoạt động cơ bản và đặc trưng của NHTM. Tín dụng
ngân hàng là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên
là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa
là người cho vay vừa là người đi vay, hay nói cách khác, ngân hàng là một
trung gian tài chính luân chuyển vốn từ nơi tạm thừa vốn sang nơi thiếu
vốn. Giá ( hay lãi suất) của khoản vay do ngân hàng ấn định cho khách
hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoản thời gian
tồn tại của khoản vay.
Chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng ngân hàng là ngân hàng,
nhà nước, doanh nghiệp và hộ dân cư. Đối tượng được sử dụng trong quan
hệ tín dụng là tiền, do đó nó không chịu sự giới hạn theo hàng hoá, vận
động đa phương đa chiều. Đây chính là ưu điểm nổi bật và là sự khác biệt

giữa tín dụng ngân hàng với các loại hình tín dụng khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Từ khái niệm của tín dụng ngân hàng, có thể thấy tín dụng ngân hàng
mang những đặc điểm cơ bản như sau:
• Thứ nhất, tín dụng là có lòng tin: bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng latinh “creditum” có nghĩa là “sự tín nhiệm” hay “sự giao phó”. Nghiên cứu
khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời
gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của
người cho vay vào người đi vay. Yếu tố lòng tin tuy vô hình nhưng không
thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín
dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
14
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, “lòng tin” được biểu hiện từ nhiều
phía, không chỉ có lòng tin từ một phía của ngân hàng đối với người đi vay.
Nếu ngân hàng không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay thì
quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay
cảm nhận thấy ngân hàng không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng
tín dụng, về thời hạn vay,…thì quan hệ tín dụng cũng có thể không phát
sinh.
• Thứ hai, tín dụng là có tính thời hạn: khác với các quan hệ mua bán thông
thường khác, quan hệ tín dụng ngân hàng không trao đổi quyền sở hữu
khoản vay mà chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay. Ngân hàng

giao giá trị khoản vay cho người đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định. Sau khi khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam
kết, người đi vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản
lợi tức hợp lý kèm theo như cam kết đã giao ước với ngân hàng.
• Thứ ba, tín dụng là có tính hoàn trả: đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận
động của tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các
phạm trù kinh tế khác. Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng,
hoàn thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng được
người đi vay hoàn trả cho ngân hàng kèm theo một phần lãi như đã thoả
thuận.
• Thứ tư, tín dụng ngân hàng có tính rủi ro: tín dụng ngân hàng luôn luôn
phải đối mặt với tình trạng thông tin không cân xứng giữa ngân hàng và
người đi vay, dẫn đến rủi ro đạo đức và rủi ro do sự lựa chọn đối nghịch.
Một mối quan hệ tín dụng ngân hàng được gọi là hoàn hảo nếu được
thực hiện với đầy đủ các đặc trưng trên, nghĩa là người đi vay hoàn trả
được đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn cho ngân hàng.
1.1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng

15
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

Tín dụng ngân hàng gồm nhiều hình thức khác nhau dựa trên sự khác
biệt của quy trình cấp tín dụng, hoặc mục tiêu, đối tượng,… cấp tín dụng.

Trong quá trình phát triển, với mỗi hình thức tín dụng, các ngân hàng
không ngừng đa dạng các sản phẩm tín dụng nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu
cầu của khách hàng. Việc phân loại tín dụng ngân hàng có cơ sở khoa học
giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại
hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng,
nó chính là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng phù hợp, nâng cao
hiệu quả quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn hoạt động của toàn ngân hàng,
đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Khi các hình thức tín dụng càng đa
dạng thì cách phân loại càng chi tiết. Thông thường, tín dụng ngân hàng
được phân loại theo các tiêu thức chủ yếu sau:
• Căn cứ theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng được chia
thành 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm,
thường được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay phục vụ nhu cầu
sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân hay cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn
lưu động của các doanh nghiệp.
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, dùng để cho vay
vốn phục vụ nhu cầu cải tiến đổi mới kỹ thuật, mua sắm tài sản cố định,
xây dựng và mở rộng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử
dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có
quy mô lớn.
Tín dụng trung và dài hạn thường được đầu tư để hình thành vốn cố
định và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.

16
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

• Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng được chia
thành 2 loại:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: đây là loại tín dụng cung
cấp cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp cho cá nhân nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng thường được dùng để mua
sắm xe cộ, nhà cửa, các thiết bị gia đình... Tín dụng tiêu dùng ngày càng
có xu hướng tăng lên.
• Căn cứ theo tài sản đảm bảo, có các loại tín dụng sau:
- Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà ngân hàng yêu cầu
khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Tài sản đảm bảo cho
phép ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đảm bảo
đó hoặc thông qua khả năng trả nợ của người thứ ba khi nguồn thu nợ thứ
nhất không có hay không đủ đáp ứng.
Các nghiệp vụ đảm bảo bao gồm cầm cố và thế chấp. Phân loại theo
tính chất an toàn, tài sản đảm bảo được ngân hàng chia thành hai loại: Loại
1 và Loại 2. Phân loại theo hình thái tài sản đảm bảo thì có các hình thức
như: đảm bảo bằng hàng hóa trong kho (nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm,
…); đảm bảo bằng tài sản cố định; đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của
người thứ ba; đảm bảo bằng chứng khoán; đảm bảo bằng bảo lãnh của
người thứ ba; đảm bảo bằng số dư bù.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là loại hình tín dụng không có
tài sản đảm bảo hoặc không có bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng không có
tài sản đảm bảo thường được áp dụng với khách hàng truyền thống, có tình
hình tài chính lành mạnh, có quan hệ lâu dài và có uy tín đối với ngân hàng

như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có khả năng hoàn trả nợ, có dự
án sản xuất kinh doanh khả thi,....
17
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

• Căn cứ theo các thức xác định số tiền cho vay, tín dụng ngân hàng
gồm 2 loại:
- Tín dụng theo món (từng lần): đây là hình thức phổ biến của ngân
hàng. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án
sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng, thẩm định dự án và ký
hợp đồng cho vay, xác định mục đích, quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,
thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo (nếu cần)… Mỗi món vay được
tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. Tùy theo từng kỳ hạn nợ trong hợp
đồng ngân hàng sẽ thu gốc và lãi.
- Tín dụng theo hạn mức tín dụng: là nghiệp vụ tín dụng mà ngân
hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng trong khoảng thời
gian xác định và cho vay theo hạn mức đó. Như vậy, khi cấp hạn mức,
ngân hàng cam kết cho vay nếu khách hàng đáp ứng đủ điều kiện yêu cầu
của ngân hàng.
• Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng, tín dụng ngân hàng bao gồm các
nghiệp vụ:
- Chiết khấu giấy nợ: là việc ngân hàng mua lại có thời hạn, hoặc có
bảo lưu quyền truy đòi các giấy tờ có giá của khách hàng. Đặc điểm chung

của giấy tờ có giá là giấy nợ (nhận nợ hay đòi nợ) - được hiểu là một lệnh
hoặc cam kết vô điều kiện để thanh toán một khoản tiền xác định cho người
thụ hưởng khi được yêu cầu hoặc tại một thời điểm xác định.
Nói cách khác, chiết khấu giấy nợ là việc ngân hàng ứng trước tiền
cho khách hàng (người thụ hưởng) tương ứng với giá trị của giấy nợ trừ đi
phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một giấy nợ chưa đến hạn. Đối với
ngân hàng, việc bỏ tiền ra ở hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong
tương lai với lãi suất xác định trước được xem như một hoạt động tín dụng.

18
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

- Cho vay: là việc ngân hàng cấp tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong khoảng thời gian xác định.
Ngân hàng có thể cho vay bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, tiền có thể
được chuyển tới tài khoản của khách hàng hoặc tài khoản của người bán
cho khách hàng.
- Cho thuê: Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho khách hàng vay để
mua tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ
( hoặc chưa đủ) điều kiện để vay và để mở rộng tín dụng, trường hợp này
ngân hàng sẽ cho khách hàng thuê tài sản theo yêu cầu. Cho thuê là việc
ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa
thuận nhất định. Khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng theo kỳ

hạn trả nợ.
- Bảo lãnh: Bảo lãnh của NHTM là cam kết của ngân hàng dưới
hình thức thư bảo lãnh, cam kết về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng (người được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín.
Hình thức bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay, đòi
hỏi ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay. Bảo lãnh tạo
mối liên kết giữa san sẻ rủi ro và trách nhiệm tài chính. Ngân hàng nỗ lực
tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp rủi ro, chi phí, đồng thời
mở rộng các dịch vụ khác như tư vấn, kinh doanh ngoại tệ, , thanh toán…
1.2. Hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ

19
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

Thực tế ở trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân cơ bản của sự khác nhau này là do
tiêu thức dùng để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên
trong đó có hai tiêu thức được sử dụng ở phần lớn các nước là số lượng lao

động và quy mô vốn.
Mặt khác việc lượng hoá các tiêu thức để phân loại quy mô doanh
nghiệp còn tuỳ thuộc vào những yếu tố như trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi nước và các quy định cụ thể phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, hay trong ngành nghề khác nhau thì
chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau. Ta có thể thấy rõ điều này
thông

qua

số

liệu

ở bảng 1.1:
Bảng 1.1. Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước và
vùng lãnh thổ

(Nguồn: Giải pháp phát triển DNVVN Việt Nam – NXB CTQG, tr2 )
20
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

Tại Việt Nam, theo Khoản 1, Điều 3, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP

của Chính Phủ Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh
nhiệp vừa và nhỏ được định nghĩa:” Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh
doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba
cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn
tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí
ưu tiên), cụ thể như sau:

Bảng 1.2. Chỉ tiêu phân loại quy mô doanh nghiệp

(Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ Về trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nhiệp vừa và nhỏ)
Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 93% trong tổng số doanh nghiệp
hiện có là DNVVN, cụ thể là 80% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm
DNVVN, trong khu vực kinh tế tư nhân DNVVN chiếm tỷ trọng 97% xét
về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước.
21
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

Đây là loại hình doanh nghiệp chiếm đại đa số và đóng vai trò chủ chốt
trong nền kinh tế, đóng góp một phần lớn vào ngân sách nhà nước thông
qua việc nộp thuế và phí, hỗ trợc cho chi tiêu Chính phủ vào các công tác
xã hội và các chương trình phát triển khác, đồng thời tạo ra 40% cơ hội cho

dân cư tham gia đầu tư có hiệu quả nhất trong việc huy động các khoản tiền
đang phân tán, nằm trong dân cư, từ đó hình thành các khoản vốn đầu tư
cho sản xuất kinh doanh.
1.2.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN là một bộ phận không thể thiếu trong cộng đồng các doanh
nghiệp của một nền kinh tế, nhóm doanh nghiệp này mang những đặc điểm
cơ bản sau:
• Thứ nhất, DNVVN chiếm đa số trong tổng số doanh nghiệp, đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế. Theo báo cáo mới nhất vào tháng 1/2014 của
Tradeup về tình hình tài chính của các DNVVN tại Mỹ, nhóm doanh
nghiệp này chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, sử dụng trên 50% tổng số
lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho 65% lượng lao động ở khu vực
tư nhân. Theo số liệu được Ủy ban châu Âu (EC) công bố 8/2014, hơn 20
triệu DNVVN ở châu Âu chiếm 99% tổng số doanh nghiệp. Tại Việt Nam,
theo Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (2011), Việt Nam có 543.964 doanh nghiệp, trong đó
DNVVN chiếm 96%, sử dụng 51% tổng số lao động xã hội, đóng góp hơn
40% GDP cả nước.
• Thứ hai, DNVVN có quy mô vốn nhỏ, số lượng lao động ít, chu kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường ngắn do vậy khả năng thu hồi
vốn nhanh, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả..
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê và Ngân hàng
Thế giới tiến hành cho thấy ở Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có
quy mô vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tỷ lệ tương đối cao, tới 42,1%, quy mô
22
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

vốn từ 1 - 5 tỷ đồng chiếm 37,13 % và 8,19 % là DN có vốn từ 5 - 10 tỷ
đồng. Bình quân số vốn của DNVVN chỉ khoảng 1.900 triệu đồng.
Hoạt động của DNVVN chủ yếu hướng vào những sản phẩm có sức
mua cao, các lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống hàng ngày, đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của xã hội, do vậy DNVVN có chu kỳ sản xuất kinh doanh
ngắn, từ đó tăng tốc độ quay vòng vốn, tăng tốc độ luân chuyển vốn, giúp
bản thân doanh nghiệp trong việc quay vòng vốn đầu tư vào công nghệ mới
tiến bộ đồng thời là một ưu thế trong việc nhận được nguồn vốn tài trợ từ
NHTM. Tuy nhiên loại hình DNVVN thường có chu kỳ kinh doanh diễn
biến theo mùa dẫn đến sự không ổn định khiến cho việc lập chiến lược phát
triển dài hạn của các doanh nghiệp này có thể không được chú trọng và
không rõ ràng, ảnh hưởng tới kế hoạch và khả năng trả nợ.
• Thứ ba, DNVVN chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cơ cấu tổ
chức gọn nhẹ, năng động, linh hoạt, dễ thích ứng với những biến động của
nền kinh tế thị trường.
DNVVN có bộ máy sản xuất và quản lý hiệu quả, gọn nhẹ giúp cho
các quyết định được đưa ra một cách nhanh chóng, thống nhất, góp phần tiết
kiệm chi phí tài chính, tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đặc
điểm nổi bật này tạo nên lợi thế của DNVVN. Bên cạnh đó, do đặc trưng về
quy mô, các cấp quản trị trung gian không nhiều, số lượng sản phẩm ít nên
DNVVN dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp quy mô lớn trong việc thay
đổi loại hình sản xuất kinh doanh cho phù hợp với kinh tế thị trường. Do vậy
việc mở rộng tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp này là khá dễ dàng,
giúp ngân hàng phân tán rủi ro.
• Thứ tư, DNVVN năng lực tài chính thấp, có trình độ công nghệ - kỹ thuật
thấp, máy móc thiết bị lạc hậu, cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư kĩ lưỡng.

Do quy mô vốn nhỏ, việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng còn nhiều
khó khăn, khả năng huy động vốn trên thị trường kém dẫn đến rất nhiều các
23
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

DNVVN thường xuyên ở trong tình trạng thiếu vốn. Hiện trạng công nghệ,
thiết bị máy móc, cơ sở hạ tầng thấp kém là một điều dễ nhận thấy ở phần
lớn DNVVN nước ta. Điều này đã kéo theo hiệu quả sử dụng vốn thấp,
đồng thời chi phí sản xuất gia tăng.
• Thứ năm, DNVVN có trình độ lao động và năng lực quản lý còn nhiều hạn
chế.
Xét về trình độ của người lao động, đứng trên phương diện lợi ích xã
hội thì DNVVN đã mang lại công ăn việc làm cho một số lượng lớn người
lao động, song đứng trên lợi ích doanh nghiệp, đây lại là một trong vấn đề
mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm hiện nay. DNVVN ít có khả năng
thu hút được những lao động và quản lý có trình độ, tay nghề cao bởi
doanh nghiệp khó có thể trả lương cao khi mà năng lực tài chính còn hạn
chế, cũng không có các chính sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân
những nhà quản lý, người lao động giỏi. Mặt khác, một phần do định kiến
của bản thân người lao động, họ cho rằng ở DNVVN thì cơ hội phát triển
nghề nghiệp là thấp. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh
nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về quản lý kinh doanh, thiếu
kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị. Những nguyên nhân trên

khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tạo lập chỗ đứng, nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, kể
cả các nước phát triển. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay thì
các nước đều chú trọng việc hỗ trợ các DNVVN huy động tối đa các nguồn
lực, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Vai trò của các DNVVN lại càng
được thể hiện rõ nét hơn trong điều kiện các nước đang phát triển, điển
hình như Việt Nam. Trong các loại hình sản xuất kinh doanh ở Việt Nam
hiện nay, DNVVN có ảnh hưởng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế 24
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Cao Đông Hưng

xã hội. Trong khoảng 500 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật
doanh nghiệp nước ta thì trên 90% là các DNVVN. Trong số hơn 3 triệu hộ
sản xuất cá thể trong ngành công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ (
không đăng ký theo Luật Doanh nghiệp), thì đại bộ phận là người kinh
doanh có quy mô vừa.
Vai trò quan trọng của DNVVN được thể hiện cụ thể trên những nét cơ bản
sau:
− Hoạt động của các DNVVN góp phần tăng hiệu quả kinh tế, làm cho
nền kinh tế năng động hơn.
Với quy mô vốn và lao động nhỏ, các DNVVN dễ dàng được thành
lập, chuyển đổi mặt hàng, mô hình sản xuất kinh doanh. Điều này cho thấy,

các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong cung cấp và lưu thông hàng
hóa, dịch vụ bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, đồng thời là những vệ tinh,
hỗ trợ gia công cho các doanh nghiệp lớn cùng hệ thống đồng thời là mạng
lưới tiêu thụ hàng hóa cho các doanh nghiệp lớn. Bên cạnh đó, DNVVN
cũng cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh
tế đáp ứng kịp thời, tích cực nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong
phú. .
− DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho
người lao động.
Từ thực tế những năm qua ta có thể thấy toàn bộ các DNVVN mà
phần lớn là khu vực ngoài quốc doanh là nguồn chủ yếu tạo ra công ăn việc
làm trong tất cả các lĩnh vực. Cụ thể theo số liệu của Tổng cục thống kê
cho thấy DNVVN đã tuyển dụng gần 1 triệu lao động, chiếm 49% lực
lượng lao động trên phạm vi toàn quốc, ở duyên hải miền Trung số lượng
lao động làm việc tại các DNVVN so với số lao động trong tất cả các lĩnh

25
SV: Phạm Thu Quỳnh

Lớp: Ngân hàng 54B


×