Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.54 KB, 16 trang )

Phần 1: Đặt vấn đề
69 năm đã trôi qua kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc
lập trên quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, tiền thân của nươc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một nên độc lập non
trẻ. Giá trị của độc lập có thể coi là vô giá, không gì có thể so sánh được. Nhưng có
một câu hỏi khác, thành quả đích thực mà nền độc lập đem lại cho người dân là gì?
Câu hỏi ấy được chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời rất thấu đáo và chính xác: “Nếu
nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
không có nghĩa lý gì”.
Với một đất nước bị xâm lược như chúng ta, ưu tiên trước hết là độc lập tự
do nhưng Bác thật sáng suốt, Người đã xác định rõ con đường phát triển của dân
tộc ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội
yêu cầu đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh phúc của nhân dân. Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc, dòng tiêu đề 6 chữ luôn đi kèm quốc hiệu Việt Nam trong
69 năm qua, dù là Việt Nam dân chủ cộng hòa hay Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Sáu chữ đơn giản đó là ham muốn tột bậc của chủ tịch Hồ Chí Minh, của
người khai sinh ra thể chế cộng hòa đầu tiên của Đông Nam Á. Điều đó là không
thay đổi, bởi vì Độc lập – Tự do – Hạnh phúc đơn giản là mục tiêu mà toàn dân tộc
Việt Nam hướng đến. Từng người, từng nhà, từng cơ quan, từng tổ chức đều hướng
đến mục tiêu đấy. Cùng như những lời của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại năm nào:
“Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng không có nghĩa lý gì”.
Nhưng làm thế nào Bác có thể xác định con đường phát triển cho dân tộc ta?
Trước Người, rất nhiều anh hùng dân tộc đã bôn ba tìm đường cứu nước, từ Phan
Bội Châu dựa vào Nhật để đánh Pháp – “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, Phan
Châu Trinh dựa vào khoa học của Pháp chấn hưng dân khí – “ chẳng khác gì xin
giặc rủ lòng thương”, hay Hoàng Hoa Thám mang hệ tư tưởng phong kiến Việt
Nam… nhưng kết quả chỉ là hai chữ “thất bại”. Sau những kinh nghiệm đau thương
này, Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu các cuôc cách mạng trên thế giới, điển hình
là ở Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, các cuộc cách mạng ở hai đất nước này đều không
triệt để. Cuối cùng, Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin dưới ánh sánh của cuộc


cách mạng tháng Mười. Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Ngay khi thành lập Đảng Cộng
1

1


sản Việt Nam, trong Chính cương vắn tắt do Người soạn thảo đã chỉ rõ: “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Em xin được phân tích luận điểm “Nếu nước được độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, thực tiễn của luận điểm với Việt Nam và ý nghĩa của luận điểm với
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Bài làm có gì thiếu sót, xin được thầy nhận xét, sửa chữa và bổ sung.

Phần 2: Nội dung
I.

Một số quan điểm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1. Quan điểm của C.Mác

Theo Mác , mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
tiến tới giải phóng con người một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa xã hội không chỉ
dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người mà phải từng bước thực hiện
hóa qua thực tiễn sự nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa
người với người và tiến tới mục tiêu cao cả nhất: “biến con người từ vương quốc
của tất yếu sang vương quốc của tự do,” tạo nên một thể liên hiệp “ trong đó sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi

người”. Để có thể giải phóng con người một cách triệt để nhất, cần phải giải phóng
từ sự áp bức về kinh tế. Những cuộc cách mạng trước đây vốn chỉ mang tính chính
trị, nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng
ách thống trị của giai cấp khác. Như vậy, người lao động mãi mãi bị thống trị,
không có chút nào gọi là độc lập tự do cả. Bởi vậy, việc trước hết cần làm để giải
phóng con người chính là thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu
sản xuất chủ yếu. Nói cách khác chính là thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bẳng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa với những hình
thức thích hợp, thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu
sản xuất. Không chỉ có vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn phát triển lực lượng sản
xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, từ đó dần dần cải thiện đời sống
của người dân.Như vây, Mác muốn xây dựng công cộng về tư liệu sản xuất, hướng
xã hội tới sự bình đẳng. con người được giải phóng.

2

2


2. Quan điểm của Lê nin
Nếu như xét quan điểm của Mác, dễ nhận thấy người tiếp cận vấn đề này ở
góc độ lý luận thì sang quan điểm của Lênin, người lại tiếp cận từ thực tiễn. Điều
này được thể hiện rõ ràng qua cuộc cách mạng Tháng Mười cùng những chính
sách kinh tế mà Lênin đưa ra, từ chính sách cộng sản thời chiến cho đến chính sách
kinh tế mới – NEP.
Về độc lập dân tộc: Sau Cách mạng Tháng Hai, nước Nga xuất hiện tình
trạng 2 chính quyền song song tồn tại: chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và xô
viết đại biểu công nhân và binh lính. Sau khi nắm được chính quyền, chính phủ lâm
thời đã không giải quyết những vấn đề đã hứa trước đó như vấn đề ruộng đất của
nông dân, việc làm cho công nhân, tình trạng thiếu lương thực và nhất là quyết theo

đuổi chiến tranh đế quốc đến cùng. Trước tình hình đó, Lênin quyết định lật đổ
chính quyền lâm thời, xây dựng chính quyền Xô viết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bolshevik, nhân dân Xô viết đã đứng lên khởi nghĩa, sau một thời gian dài đấu
tranh, Cách mạng tháng Mười đã giành được thắng lợi. Đây là cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản tiến hành, thắng lợi của cuộc cách mạng đã hình
thành nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, đưa nước Nga đi theo
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liền sau đó, trong đêm 7 tháng 11 năm 1917
(25 tháng 10 theo lịch Nga), Đại hội Xô Viết toàn Nga lần thứ hai tuyên bố khai
mạc tại điện Smoniyl và tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết do Lenin đứng
đầu. Các sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô Viết đã được thông qua là Sắc lệnh
hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xô Viết còn thực hiện các biện pháp
thủ tiêu các tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp, những đặc
quyền của giáo hội, nam nữ bình đẳng. Đối với các dân tộc, chính phủ Xô Viết
công bố bản Tuyên ngôn về quyền các dân tộc ở Nga khẳng định quyền bình đẳng
của các dân tộc và cho phép các dân tộc có quyền tự quyết như công nhận nền độc
lập của Ba Lan, Phần Lan. Cuối cùng, nước Nga độc lập, Lênin đã hoàn toàn giải
phóng cho con người nơi đây, đồng thời cũng mở ra con đường giải phóng cho các
dân tộc khác.
Về chủ nghĩa xã hội: Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công, chính
quyền Xô Viết tranh thủ giải quyết những vấn đề cấp bách, củng cố chính quyền
của giai cấp vô sản, đặt nền móng cho việc xây dựng nên kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, đến năm 1918, nước Nga có nội chiến( giai cấp địa chủ và tư bản bị lật
đổ đã nổi dậy chống chính quyền Xô Viết). Từ bên ngoài có sự can thiệp vũ trang
của 14 nước để quốc do Anh, Pháp cầm đầu hòng bóp chết nhà nước Xô Viết còn
3

3


non trẻ. Cuộc nội chiến và can thiệp nước ngoài làm nước Nga càng thêm khó khăn

chồng chất. Để đối phó với tình hình đó, Lênin nêu ra khẩu hiệu: “Tất cả cho tiêu
diệt kẻ thù” và thi hành chính sách “ Kinh tế cộng sản thời chiến:
• Tất cả nền công nghiệp được quốc hữu hóa và áp dụng cơ chế quản lý tập
trung nghiêm ngặt.
• Giới thiệu độc quyền nhà nước về ngoại thương.
• Kỷ luật nghiêm khắc đối với người lao động, và đình công có thể bị xử bắn.
• Nghĩa vụ lao động công ích bắt buộc áp dụng cho "tầng lớp không lao động".
• Phân chia lương thực – trưng thu thặng dư nông sản từ nông dân theo giá trị
tối thiểu để phân phối tập trung cho dân số còn lại.
• Lương thực và phần lớn hàng hóa được phối cấp và phân phối theo phương
thức tập trung.
• Xí nghiệp tư nhân là bất hợp pháp.
• Quản lý đường sắt theo dạng quân sự được giới thiệu.
Nhờ thực hiện chính sách “Kinh tế cộng sản thời chiến” mà Nhà nước Xô Viết
mới có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, đảm bảo đánh thắng thù
trong giặc ngoài. Hơn thế nữa, trong thời gian này, khí thế lao động của quần chúng
được lên cao, “Ngày thứ bày lao động Cộng sản chủ nghĩa” được thực hiên trên
toàn nước Nga. Cũng trong những năm này, Lênin đã tổ chức lại toàn bộ nền kinh
tế, trên cơ sở sử dụng năng lượng điện, xây dựng kế hoạchđiện khí hóa nước Nga –
kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn đầu tiên của Liên Xô: quy định 10- 15 năm thay
đổi bộ mặt cyả nước Nga, cai tạo nền kinh tế về cơ bản , đặt nền móng vững chắc
cho chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, chính sách này chỉ mang tính tạm thời, trong hoàn cảnh có nọi
chiến và can thiệp, cùng với việc kéo dài chính sách đó, nền kinh tế nước Nga bị
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nội chiến kết thúc, đến năm 1921,
đảng cộng sản Bolshevik đã chủ trương thay chính sách “ Kinh tế cộng sản thời
chiến” bằng chính sách “ Kinh tế mới” – NEP. Chính sách này được quán triệt
trong các ngành kinh tế và lấy việc làm nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề cấp bách
trước mắt. Tổng sản lượng lương thực của Liển Xô năm 1921 là 42,2 triệu tấn đã
tăng lên đến 74,6 triệu tấn năm 1925. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với

năm 1913 đạt 75, 5% ( đến năm 1926 khôi phục được 100%), nhiều ngành vượt
mức trước chiến tranh……
4

4


Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản suất ở cả
thành thị và nông thôn, vì nó đáp ứng được yêu cầu của quy luật kinh tế của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính chất hàng hóa và có nhiều thàn. Nhờ đó,
trong một thời gian ngắn, Nhà nước Xô Viết đã khôi phục được nền kinh tế quốc
dân bị chiến tranh tàn phá; đã tiến được một bước dài trong việc củng cố khối liên
minh công nông; một Nhà nước công nông nhiều dân tộc đầu tiên trên thế giới đã
được thành lập, đó là Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết.
3. Kinh nghiệm từ một số nước xã hội chủ nghĩa khác
a. Chủ nghĩa xã hội của Mao Trạch Đông (Trung Quốc):
Bởi ý thức tư tưởng phong kiến ở Trung Quốc ăn sâu và ngoan cố nên trong quá
trình lãnh đạo Trung Quốc xây dựng văn hoá tinh thần xã hội chủ nghĩa, Mao Trạch
Đông đã tiến hành cải tạo tư tưởng với quy mô lớn nhằm thông qua đó tạo nên con
người mới xã hội chủ nghĩa để có thể xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có
nền tảng chắn chắn. Cải tạo tư tưởng có ý nghĩa đặc biệt đối với công cuộc xây
dựng văn hoá tinh thần ở Trung Quốc. Mao Trạch Đông chỉ ra rằng “Trong quá
trình xây dựng văn hoá tinh thần xã hội chủ nghĩa, người người phải cải tạo, kẻ bóc
lột phải cải tạo, người lao động cũng phải cải tạo”. Đương nhiên tính chất và
phương thức của kẻ bóc lột và người lao động có phần khác biệt nhau.
Việc cải tạo tư tưởng đối với giai cấp bóc lột là cải tạo mang tính cưỡng bức, là
"xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến của họ, xoá bỏ một giai cấp xã hội chứ
không phải tiêu diệt thể xác của họ". Đối với tầng lớp tri thức, Mao Trạch Đông
nhấn mạnh chủ yếu thông qua phê bình và tự phê bình để tự giáo dục và tự cải tạo.
Việc cải tạo tư tưởng đối với cán bộ lãnh đạo được tiến hành xung quanh cuộc đấu

tranh chống sa đọa thối nát, trở thành nhiệm vụ cơ bản trong việc cải tạo tư tưởng
của cán bộ lãnh đạo. Còn giai cấp công nhân, theo quan điểm của chủ nghĩa Marx,
họ là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là giai cấp tiên tiến nhất, cách
mạng nhất, nhưng Mao Trạch Đông đã căn cứ vào thực tế của đội ngũ công nhân ở
Trung Quốc đưa ra nhận định rằng giai cấp công nhân cũng phải cải tạo. Việc cải
tạo tư tưởng đối với giai cấp công nhân chủ yếu là nâng cao khả năng nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới của họ, đồng thời không ngừng rũ bỏ ý thức nông dân của
người công nhân, thay đổi tập quán nông dân cho phù hợp với tình hình mới trong
sự nghiệp phát triển xã hội chủ nghĩa. Đối với việc cải tạo tư tưởng của nông dân,
Mao Trạch Đông cho rằng cần giúp họ từ bỏ thói quen và tâm lý phân tán, lạc hậu,
khắc phục tư tưởng phong kiến tự tư tự lợi.
5

5


Việc cải tạo tư tưởng ở Trung Quốc lúc đó chủ yếu nhắm vào tàn dư của tư
tưởng phong kiến, trọng tâm là cải tạo quan điểm giá trị của chủ nghĩa cá nhân.
Loại quan điểm này thứ nhất là chủ trương tự tư tự lợi, thứ hai là quan bản vị (làm
quan mưu lợi ích cá nhân hẹp hòi). Chủ nghĩa đoàn thể, chủ nghĩa bè phái, chủ
nghĩa địa phương cục bộ là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, những thứ này đều tạo
nên mạng lưới quan hệ cá nhân lấy cái "Tôi" làm trung tâm. Chủ nghĩa quan liêu là
di sản được sinh ra từ tác phong "ông lớn" của quan bản vị. Tất cả những thứ nói
trên đều đi ngược lại xu hướng giá trị "công bằng, công chính" xã hội chủ nghĩa
trong tư tưởng của Mao Trạch Đông. Vì thế Mao Trạch Đông đã căn cứ theo
nguyên tắc duy vật lịch sử, chủ trương nhân dân bản vị (mưu lợi ích cho nhân dân),
đề ra tư tưởng phục vụ nhân dân. Ông kêu gọi mọi người học tập các tấm gương
tiêu biểu như Trương Tư Đức, Bạch Cầu Ân, Lôi Phong, mỗi người là một chiến sĩ
cộng sản; Đề xướng phẩm chất đạo đức cộng sản chí công vô tư, không màng lợi
ích cá nhân. Ông cho rằng trong điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa, dù làm bất cứ

việc gì, ở bất cứ cương vị nào cũng đều không được tư lợi mà phải phục vụ nhân
dân. Nếu có được tinh thần và phẩm chất phục vụ nhân dân như thế sẽ chiến thắng
các loại khó khăn, ở xã hội nào cũng đều có thể lập nên kỳ tích. Quan điểm giá trị
phải được thể hiện qua hành động cụ thể nên Mao Trạch Đông ra sức đề xướng tinh
thần phấn đấu gian khổ, dũng cảm, chí thú sự nghiệp, hiến dâng và chủ nghĩa tập
thể, lấy đó làm thước đo đánh giá tình hình xây dựng quan điểm giá trị.
Qua phân tích cho thấy trong thực tiễn tìm kiếm phương hướng xây dựng nền
văn hoá tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mặc dù gặp nhiều trắc trở nhưng Mao Trạch
Đông đã thông qua cải tạo tư tưởng, loại bỏ những tàn dư của chủ nghĩa phong kiến
và chủ nghĩa thực dân, thay đổi thói quen tâm lý và phương thức hành vi cũ, xây
dựng nền văn hoá tinh thần xã hội chủ nghĩa theo quan điểm giá trị và quan điểm
đạo đức phục vụ nhân dân. Do đó ở Trung Quốc đã có được những thay đổi long
trời lở đất, thay đổi đó lại đặt cơ sở, đem lại kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển
toàn diện vì tiến bộ xã hội và tự do của con người hôm nay.
b.

Chủ nghĩa xã hội của Đặng Tiểu Bình (Trung Quốc)

Đặng Tiểu Bình đã mang đến xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc.
Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc là sản phẩm kết hợp giữa tư tưởng chủ
nghĩa xã hội dân chủ của Mác-Ăng-ghen những năm cuối đời và thực tiễn cụ thể
cải cách-mở cửa của Trung Quốc, sẽ xây dựng Trung Quốc thành một nước xã hội
chủ nghĩa dân chủ giàu có, văn minh, công bằng và hài hoà như châu Âu ngày nay.
6

6


Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển sang chủ nghĩa xã hội dân chủ là tuân theo lời
dạy của Mác và Ăng-ghen những năm cuối đời, kế thừa truyền thống cách mạng

dân chủ mới, triệt để thoát khỏi mô hình Liên Xô, trở lại với chủ nghĩa Mác tiến
cùng thời đại. Đó là định vị lịch sử của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung
Quốc.
Nếu như Mao Trạch Đông đã giải phóng con người Trung Quốc ở mặt tư
tưởng thì Đặng Tiểu Bình lại giải phóng sức lao động của con người, tạo ra sự thay
đổi về chất. Điều này có thể dễ dàng thấy thông qua sự phát triển của nền kinh tế
Trung Quốc, sự hình thành một tầng lớp trung lưu thành thị chiếm tới 15% dân số,
mức sống cao hơn (thể hiện qua sự tăng trưởng ngoạn mục của mức GDP trên đầu
người, chi tiêu tiêu dùng, tuổi thọ, tỷ lệ biết chữ, và tổng mức sản xuất lương thực)
và ở mức rộng lớn hơn là các quyền con người và tự do cho người dân thường
Trung Quốc Không sai khi nói rằng Trung Quốc sẽ không có được ngày hôm nay
nếu không có Đặng Tiểu Bình.
Dù tiêu chuẩn cuộc sống đã được cải thiện rõ rệt trong thập kỷ 1980, những
cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình vẫn bị chỉ trích rộng rãi. Những người bảo thủ
cho rằng một lần nữa Đặng Tiểu Bình lại mở cửa Trung Quốc cho những điều xấu
xa từ bên ngoài, và người dân quá thiên về tư duy vật chất, trong khi những người
theo chủ trương tự do chỉ trích Đặng Tiểu Bình về lập trường cứng rắn của ông
trong lĩnh vực chính trị. Các lực lượng tự do đã bắt đầu bày tỏ thái độ phản kháng
bằng nhiều cách khác nhau chống lại thế lực lãnh đạo, và đã dẫn tới Sự kiện Thiên
An Môn năm 1989 khiến chính phủ Trung Quốc bị quốc tế lên án. Những chỉ trích
về các cuộc cải cách kinh tế, cả trong và ngoài Trung Quốc cho rằng cải cách đã
gây ra bất bình đẳng giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tham nhũng tràn lan, thất
nghiệp tăng cao, cùng với đó là tình trạng giãn thợ tại các doanh nghiệp nhà nước
làm ăn kém hiệu quả cũng như các ảnh hưởng văn hóa xấu khác.
c.

Kinh nghiệm từ Trung Quốc

Các chủ trương chính sách còn mang tính bắt buộc, cưỡng chế, gây ra nhiều bất
đồng, mâu thuẫn. Mặc dù đất nước có phát triển nhưng còn nhiều, người phản đối,

chưa nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của người dân.Trong khi chủ nghĩa xã hội
đặt dân làm đầu, do dân làm chủ, các chủ trương, chính sách trên vẫn chưa làm
được điều ấy.
7

7


II.

Độc lập dân tộc và Xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sau hơn 10 năm lăn lộn qua nhiều nước để tìm tòi thử nghiệm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lenin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc:
“Bản luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa” của Lenin, Người đã sung sướng nói
to lên: “ Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta !” và là từ lòng yêu nước, thương dân, Người ra đi
tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa
Lenin đã tìm thấy con đường cứu nước cứu dân và giải phóng lao động và quả
quyết: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con
đường cách mạng vô sản, giành độc lập dân tộc” .Sau khi giành được thắng lợi
trong cuộc cách mạng tháng 8-1945, chính quyền non trẻ của ta gặp phải tình thế
vô cùng khó khăn, như ngàn cân treo sợi tóc khi phải đối đầu với thù trong-tình
hình kinh tế tài chính kiệt quệ, dân chúng lầm than với 2 thứ giặc đói và giặc dốt,
và giặc ngoài-quân thù lăm le xâm lược trở lại nước ta. Việc xác định những nhiệm
vụ cấp bách phải giải quyết trước mắt trở nên quan trong hơn bao giờ hết, đặt Đảng
ta, một Đảng non trẻ đứng trước thử thách lớn lao của lịch sử.
Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của tổ quốc, tự do
của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, HCM đã tìm hiểu tuyên

ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của
CM Pháp và tiếp nhận những nhân tố có gía trị trong 2 bản tuyên ngôn này. Từ đó
Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc: “tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”.
Trong chính cương vắn tắt cũng như lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, HCM đã
xác định mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, làm cho đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.Kháng chiến toàn quốc
bùng nổ, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc của HCM thể hiện bằng
lời khẳng định: “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, mở rộng
chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, HCM lại đưa ra một chân lý bất hủ: “không có gì
quý hơn độc lập tự do”. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Năm 1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố
8

8


dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
bản chất của Đảng. Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời
tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực
sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ
nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có
một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm

việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hoà bình, hạnh phúc của con người.
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại; xoá
bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh
tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc
nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết, không có sự
can thiệp từ bên ngoài.
Với Hồ Chí Minh, "trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất
tự do" (Nhật ký trong tù). Và để có tự do, thì trước hết là phải giành lại độc lập cho
Tổ quốc, giành lại quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam.Độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu
của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộtiến trình cách
mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổibật trong các thời điểm có tínhbước ngoặt
lịch sử.
Trong nền độc lập đó mọi người đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc
lập chẳng có nghĩa gì. HCM nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân
chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn no mặc đủ ấm”. Từ tư tưởng này thể hiện tính
nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của HCM.Điều này thể hiện ở mục tiêu của
cách mạng Việt Nam là: đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước nhà
hoàn toàn độc lập. Sau cách mạng tháng Tám thành công, HCM đã đọc bản tuyên
ngôn độc lập khẳng định: “nước Việt Nam….và của cải để giữ quyền tự do độc lập
ấy”.
Hòa bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc
sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hòa bình không thể tách
rời độc lập dân tộc và muốn có hòa bình thật sự phải có độc lập thật sự. HCM đã
nêu: “nhân dân chúng tôi thành thật mong muôn hòa bình nhưng nhân dân chúng
tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
Quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “không có gì
9

9



quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia.“Tự do” không phải là giá trị bất biến, luôn thay đổi theo thời gian. “Tự do” mà
cụ Hồ nói sáu mươi sáu năm trước đã khác xa với những giá trị của tự do bây giờ.
Nói tự do ngày nay tức là tự do của người dân, nhân dân chỉ có được tự do khi nhà
nước được lập ra phải là một nhà nước hợp hiến, chịu giới hạn quyền lực bởi một
bản hiến pháp được phúc quyết bởi toàn dân, trong đó xác định rõ những quyền cơ
bản và việc người dân có quyền được lựa chọn, thay đổi Quốc hội, Chính phủ
thông qua cuộc bầu cử chân chính.2
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc, tự
do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không phải ai khác chính cụ Hồ đã
chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu
nhất của mỗi người dân nước Việt.Mục tiêucủa CNXH là “độc lập, tự do cho dân
tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, gì cả
không lao động được thì nghỉ ngơi, những phong tục tập quán không dần dần được
xóa bỏ...Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt đó là CNXH”.Chỉ có CNXH mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột
người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ
cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về
tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới
mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành
viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất
ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm
cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với
các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự
bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng

dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm
chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái
dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy
không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực
hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị
10

10


làm người cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách
rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng
về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó
tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia
với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn
của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ.
III.

Thực tiễn tại Việt Nam sau cách mạng tháng 8.1945

Cuộc Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo, "dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 nǎm nay để gây dựng
nên nước Việt Nam độc lập Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ
mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà"
Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam : kỷ
nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và tạo

ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách
mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật,
Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt trận Việt Minh và Chủ
tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn
dân ủng hộ. Phong trào cách mạng tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao
trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức
và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách
mạng.
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại,
nhân dân ta và chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khǎn, thử
thách nặng nề.
• Về Kinh tế - tài chính: Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt
qua những khó khǎn lớn về kinh tế, đời sống xã hội. Nên kinh tế nước ta vốn
đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp và phátxít Nhật vơ vét, bị chiến
tranh và thiên tai tàn phá nên lại càng nghèo hơn. Nǎng suất lúa rất thấp ( 12
tạ/ha). Nông dân lao động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng
không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945
11

11


chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ. 50% ruộng đất bỏ hoang.
Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm
vào đình đốn, hàng hoá khan hiếm. Tài chính quốc gia gần như trống rỗng. Ngân
hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. Chính quyền cách mạng
chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720 đồng, trong đó có 586.000 đồng tiền

rách.
• Về văn hóa”Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không
biết chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3
vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành
luật và ngành thuốc.
• Suất thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ
gồm vài trǎm người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính
quyền mới gặp không ít khó khǎn, lúng túng.
• Về chính trị- quân sựVào thời gian này, nhà nước ta mới được thành lập, thật
sự còn non trẻ. Bộ máy Nhà nước chưa được hoành chỉnh. Hơn nữa, lực
lượng vũ trang lại mỏng manh, rất cần bổ sung.
Bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khó khăn mà đất nước ta phải đối mặt. Tuy
nhiên, nhờ áp dụng tài tình Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, mọi vấn đề đã được giải quyết. Những khó khǎn, thử thách to lớn cả về
quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội trên đây, đặt chính quyền cách mạng và vận
mệnh đất nước ta trong thế "ngàn cân treo sợi tóc". Tình hình trên đòi hỏi Đảng và
chính quyền cách mạng có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy
sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.


12

Về kinh tế- tài chínhĐể giải quyết nạn đói, trước mắt Chính phủ kêu gọi toàn
dân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau qua các phong trào “hũ gạo cứu đói”, “Ngày
cứu đói”….. Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện các biện pháp tiết kiệm lương
thực, cung cấp lương thực để nấu rượu, làm quà bánh,…. Đồng thời, ban
hành một số sắn lệnh nhằm giải quyêt khó khăn về lương thực như Sắc lệnh
cấm đầu cơ tích trữ lương thực ( 5 – 9 – 1945) , cho tự do lưu thông thóc gạo
giữa các vùng. Để giải quyêt tận gốc nạn đói, Chính phủ đề ra phải đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp, Chính phủ có biện pháp để hỗ trợ cho nông dân như

quy định địa chỉ giảm tô 25% cho nông dân, tạm cấp ruộng đất công, ruộng
của bọn việt gian phản động và của thực dân Pháp cho nông dân cày cấy, tổ
12


chức nhân dân hàn khẩu những quãng đê bị vỡ, vận động nông dân nhanh
chóng cấy tái giá, giúp nông dân vay vốn , cung cấp giống, nhiều nông cụ.
Về công nghiệp,Chính phủ chủ trương là kiên quyết giữ vững chủ quyền,
nhưng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp. Một số xí nghiệp của tư bản Pháp và
nước ngoài được tiếp tục kinh doanh như các xí nghiệp điện, nước,….nhưng phải
tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Chính phủ khuyến khích tư
bản tư nhân Việt Nam kinh doanh, phát triển sản xuất, Nhà nước ban hành dự thảo
luật Lao động, bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người công nhân như tiền lương, điều
kiện làm việc, tiền trợ cấp khi thôi việc, quyền hưởng những quyền lợi ngang nhau
giữa nam và nữ công nhân, quyền tự do lập nghiệp đoàn, tự do bãi công,…
Về thương nghiệp, Chính phủ ra sắc lệnh thủ tiêu, luật lệ ngăn sông, cấm
chợ do Pháp – Nhật đặt ra trước đây, sắc lệnh về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn độc
quyền kinh doan. Đồng thời, Chính phủ chủ trương khuyến khích buôn bán, vận
động các nhà buôn thành lập hội thương gia Việt Nam, phong thương mại.
Về tài chính, Chính phủ kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp đỡ
của nhân dân, thông qua phong trào “Quỹ độc lập”, theo sắc lệnh của Chính phủ
ngày 4- 9- 1945, “Tuần lễ vàng” được tổ chức ngày 19- 9 -1945 nhằm thu gom số
vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu dùng vào việc cần gấp và quan
trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Ngoài ra, Chính phủ còn vận động
sự giúp đỡ của nhân dân thông qua “hũ gạo nuôi quân”, “ nhận nuôi cán bộ,”…..
Để tạo điều kiện cho nhân dân an tâm sản xuất, giảm bớt sưu cao, thuế nặng,
Chính phủ đã có biện pháp kịp thời và đúng đắn về chính sách thuế, bãi bỏ thuế bất
công vô lý vào ngày 7- 9-1945 như thuế thân, thuế rượu, muối và thuốc phiện.
Ngày 22-9-1945, miễn giảm thuế môn bài kinh doanh nhỏ dưới 50 đồng, thuế chợ,
xe đò, xe tay,… Ngày 26-10-1945, Chính phủ ban hành nghị định giảm thuế điền

thổ 20%, miến thuế cho các vùng bị lụt ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ,… Để bù vào
khoản thiểu hụt ngân sách, Chính phủ đặt ra nguồn thu mới: “đảm phụ đặc biệt”
đánh vào ngành vận tải, bưu điện, “đảm phụ quốc phòng”. Chấn chỉnh các nguồn
thu đi dôi với việc thành lập bộ máy quản lý thu. Ngày 10-9-1945, Sở thuế quan và
thuế gián thu, Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ, cộng sản và điền thổ,… được
thành lập.
Cùng với đấu tranh tiền tệ vào, cuối tháng 10- 1945 ( đấu tranh với ngân
hàng Đông Dương đổi tiền, đối phó với “tiền quan kim” và “quốc tệ”), chúng ta đã
bí mật in tiền. Tháng 12- 1945, chúng ta cho lưu hành tiền lẻ, để giải quyết nạn
khan hiếm tiển lẻ và cho nhân dân làm quen với tiền mới của chính quyền cách
mạng sau đó từng bước tiến hành phát hành tiền trong cả nước.
13

13




Về văn hóa
Ngày 8 - 9 - 1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập Nha Bình dân học
vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ 8 - 9 - 1945 đến 8–91946, có 76.000 lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ.Trường phổ
thông các cấp và đại học khai giảng sớm với nội dung học và dạy đổi mới.
Và như vậy, đã đẩy lùi được giặc dốt.

Về chính trị
Như đã nói, cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền ta còn hết sức
non trẻ, nhưng lại phải tiếp thu một gia tài đổ nát do chế độ cũ để lại. Hơn thế nữa,
các thế lực để quốc, phản động quốc tế cấu kết bao vây, chốn phá hòng thủ tiêu
thành quả cách mạng của nhân dân ta. Không chỉ có vậy, chính quyền mới còn phải
đấu tranh với sự chống phá của cac thế lực phản động trong nước. Tình thế “ngàn

cân treo sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và thực thi nhiều biện pháp để
tập hợp, sử dụng nhân sĩ, trí thức, nhân tài phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến và
kiến quốc. Nhiều nhân sĩ, trí thức được mời tham gia bộ máy hành chính và cơ
quan chuyên môn ở các cấp, nhất là ở Trung ương. Vĩnh Thuỵ (Bảo Đại) đã được
cử làm cố vấn Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà theo Sắc lệnh số 23-SL do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10-9-1945. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là phải thực hiện quyền dân chủ cho
quần chúng, phải "xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính
phủ chính thức" . Vì vậy, ngày 3-9-1945, tức là một ngày sau khi Nhà nước cách
mạng ra đời, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử
và bầu cử, không phân biệt giầu, nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v.." . Sau một thời
gian chuẩn bị, đẩy mạnh "Tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản
xuất nữa" để chống đói. Tiêu diệt giặc dốt, "biết chữ để cầm lá phiếu thực hiện
quyền công dân",… ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra. Lần đầu tiên
trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền làm chủ, bầu những đại
biểu chân chính vào các cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.


14

14


Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam ra đời.


Phần 3: Kết
Độc lập đi liền với tự do. Độc lập dân tộc đi liền với tự do của người dân.
Chính Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng nếu nước độc lập mà người
dân không được tự do thì cái độc lập đó cũng không để làm gì. Tự do là một tài sản
quý giá và vĩnh hằng của con người, có thể coi đó cũng là một quyền tự nhiên của
con người. Chính trong tuyên ngôn độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp thu tư tưởng của các nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những quyền cơ bản của con
người, trong đó có quyền tự do, suy rộng ra quyền của một dân tộc.
Cũng trên tinh thần đó, tôi nghĩ vị chủ tịch của nước Việt Nam mới đã mở
rộng tư tưởng “bác ái” thành “hạnh phúc”. Bác ái là tình thương, lòng yêu mến con
người rộng khắp, bao trùm. Hạnh phúc là tình thương được cụ thể hóa thành “ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hạnh phúc là tình thương cho
mọi người được chan hòa bình đẳng trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh
phúc là khi con người được thỏa mãn những nhu cầu và yêu cầu chính đáng của
mình. Hạnh phúc là khi người dân được sống đầy đủ các quyền công dân của mình
trong một đất nước độc lập, dưới một nhà nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân
chủ, nhất là tự do tư tưởng.
Năm 1956, đến nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I Trường đại
học Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ ràng điều này: “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi
người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi
mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”.
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Mỗi năm đến ngày Cách mạng Tháng Tám và
ngày Quốc khánh, tôi thường ngẫm về sáu chữ này. Trong những ngày này năm
nay, độc lập càng đòi hỏi được bảo vệ và củng cố, tự do càng được yêu cầu bảo
đảm, hạnh phúc càng được khát khao đạt tới. Sáu chữ nói thì dễ, đọc thì nhanh,
nhưng làm thì khó khăn, lâu dài, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ làm tốt hơn.
Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng CNXH,
nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con đường, bằng nhiều biện

pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và tôn giáo,
15

15


nhằm thay đổi bản chất của chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán bộ, đảng viên
và nhân dân luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận

16

16



×