Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích luận điểm của hồ chí minh “muốn xây dựng XHCN trước hết cần có nhưng con người XHCN” liên hệ thực tiễn xây dựng con

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.19 KB, 17 trang )

Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Muốn xây dựng XHCN trước
hết cần có nhưng con người XHCN”. Liên hệ thực tiễn xây dựng con
người mới ở Việt Nam hiện nay.

BÀI LÀM
I.

Đặt vấn đề
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định mục
tiêu của Đảng và nhà nước ta hiện nay là “xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Vì vậy có thể
nói sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá định hướng xã hội chủ nghĩa là
“một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội”. Đó trước hết là cuộc cách mạng con người, vì con người
và do con người. Chủ nghĩa xã hội chính là kết quả của của những nỗ lực
vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về
trí lực, cả về khả năng lao động, và tính tích cực chính trị “xã hội, và đạo
đức, tình cảm trong sáng” (Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị
lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khoá VII). Nhận định trên một lần
nữa thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta coi tư tưởng Hồ Chí Minh là một
trong những nền tảng tư tưởng quan trọng, thực hiện lời dạy của Bác trong
thời gian miền Bắc nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, mùa
xuân năm 1961: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những



con người xã hội chủ nghĩa”. Lời Người chỉ ra rằng:
Con người luôn luôn là chủ thể sáng tạo trong bất cứ sự nghiệp cách mạng


nào, do đó chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động tự giác của
con người.

1




Tuy cách mạng nước ta được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930,
tuy con người Việt Nam từ đó đến nay đã qua mấy cuộc đổi đời căn bản, đã
lập nên những kì tích trong cuộc đấu tranh xoá bỏ ách áp bức dân tộc và
ách áp bức giai cấp, nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa đánh dấu một giai
đoạn mới trong sự phát triển của con người Việt Nam: tự cải tạo xây dựng
mình thành con người xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội - một con đường
còn đầy cam go, trắc trở. Hơn nữa, trong tình hình thế giới có nhiều biến
động đặc biệt khi Liên Xô đã từng được coi là “thành trì của chủ nghĩa xã
hội” bị sụp đổ thì việc nhận thức cho đúng về chủ nghĩa xã hội và tìm ra
những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp để đưa sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội tiến lên phía trước, phù hợp với quy luật khách quan và
những điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta là vấn đề cấp thiết cần giải quyết
để loại bỏ những sai lầm đã mắc phải trước kia để đưa chủ nghĩa xã hội ra
khỏi khủng hoảng và tiếp tục giành những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.

II.

Giải quyết vấn đề
1.
Phân tích luận điểm
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và

rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng chân chính, bộ tham
mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam,
để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những di sản mà
Người để lại, những luận điểm của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam nói
chung và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng đã đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và còn được vận dụng
cho đến ngày này. Một trong số những câu nói bất hủ mà Người để lại đó là:
“Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
vị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới
2


thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. (Đường
Cách mệnh, 1927).
Dưới ách thống trị của thực dân – phong kiến, có hàng trăm cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản nổ ra,
nhưng cuối cùng đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra,
nhân dân đang mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực
dân phong kiến cùng với sự thấm nhuần những tư tưởng của chủ nghĩa Mác
– Lênin, “Đường Cách mệnh” đã ra đời đúng lúc nhằm vạch ra những cong
đường cụ thể để cách mạng thành công và đặc biệt là khẳng định vai trò to
lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo nhân dân kháng chiến.
Như chúng ta đã biết, không có một cuộc cách mạng nào thành công mà
không có sự đoàn kết, hợp tác nhất trí của dân chúng và người lãnh đạo.
Thật vậy, quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo và là nòng cốt của
cuộc cách mạng, nó kết thành những làn song vô cùng mạnh mẽ khiến nhiều
kẻ thù lớn mạnh cũng phải dè chừng. Cách mạng là việc chung của dân
chúng chứ không phải một hai người. Tuy nhiên, sức mạnh to lớn ấy chỉ

phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính
trị chặt chẽ, chí khí và phải kiên quyết.
Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề thật khéo léo: “Cách mệnh trước hết phải có cái
gì?”. Một câu hỏi ngắn gọn, súc tích nhưng lại chứa đựng nhiều nội dung
quan trọng và có ý nghĩa, là đòn bẩy đưa người dọc đến với những lý giải ở
phần tiếp sau. Nội dung câu hỏi của Người không chỉ đơn giản là cách mạng
cần phải có những cái gì mà ở đây, điều mà Người muốn nhấn mạnh đó là từ
“trước hết”. “Trước hết” không phải là cái duy nhất mà là cái đặt trên đầu
tiên hay nói cách khác nó chính là cái quan trọng nhất. Và cái “trước hết”
đó, cái quan trọng nhất đó được Người khẳng định là “Đảng cách mệnh”.
Vậy “Đảng cách mệnh” là gì? Tại sao “Đảng cách mệnh” lại là yếu tố Người
lựa chọn làm cái cần thiết, cái “trước hết” khi đề cập đến vấn đề cách mạng.
3


Trong thời kỳ nào Đảng cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, và trong thời
kỳ này, giai đoạn này “Đảng cách mệnh” được xem là quan trọng hơn cả
trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Vậy “Đảng cách mệnh” nó giống và
khác Đảng ở chỗ nào. Ta thấy “Đảng cách mệnh” và Đảng khác như ở hai
chữ “cách mệnh”.
-

Theo tinh thần Nho giáo Trung Quốc: “cách mệnh” nghĩa là đổi mới

mệnh Trời giao cho con trời (thiên tử) – là vua nếu vua không làm tròn
nhiệm vụ, giữ cái mệnh ấy, vì vậy phải giao sứ mệnh này cho trời khác.
-

Theo quan điểm phương tây, “cách mệnh” lại có nghĩa là “vòng quay, sự


quay vòng, chu kỳ quay vòng hay đó là những biến động trong cơ cấu kinh
tế - xã hội, là sự thay đổi từ chất lượng này sang chất lượng khác.
-

Theo sổ tay Hán Việt, “cách mệnh” được hiểu là một biến đổi căn bản

lớn trong quan hệ xã hội, chính trị, thực hiện thông qua đấu tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hoặc biến đổi về căn bản.
-

Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi đến một định nghĩa

về “cách mệnh”, để từ lý luận đó trở thành lý luận cách mạng cho cách mạng
Việt Nam. “Không có lý luận cách mạng Việt Nam thì không có vận động
cách mạng Việt Nam”. Vậy Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa như thế nào
về “cách mệnh” và “Đảng cách mệnh”? Ngay từ trang đầu, chương đầu của
“Đường cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một định nghĩa mới chưa
hề có trong từ điển bách khoa: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá
cái xấu đổi cái tốt”. Và khi trở thành chủ tịch nước, Hồ Chí Minh cũng nhắc
lại một lần nữa rằng: “cách mệnh là tiêu diệt những cái gì xấu, xây dựng
những cái gì tốt”.
Quay trở lại với nhận định của Người: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?.
Trước hết phải có Đảng cách mệnh”. Vậy cái Người đề cập đến đó là “Đảng
cách mệnh”. “Đảng cách mệnh” là cái cần thiết nhất, là yếu tố quan trọng
hàng đầu của “cách mệnh”. Hay “Đảng cách mệnh” phải hiểu rõ được sứ
mệnh được giao của mình, phải biết thay đổi những gì cổ hủ, lạc hậu, loại bỏ
những cái xấu, phát huy những cái tốt để có cái nhìn đúng đắn về mọi vấn
4



đề, có như vậy thì mới có thể lạnh đạo nhân dân, lãnh đạo cách mạng đi đến
thắng lợi cuối cùng được. “Đảng cách mệnh” nó vừa thực hiện các nhiệm
vụ như những Đảng bình thường khác tuy nhiên nó phải chân chính hơn,
chắc chắn hơn, ngoài lợi ích của nhân dân thì không còn lợi ích nào khác.
Đây cũng chính là nhiệm vụ, là sứ mệnh của “Đảng cách mệnh”.
Sau khi khẳng định được cơ sở tiên quyết, yếu tố quan trọng nhất của cách
mệnh thì vế sau Hồ Chí Minh đã làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản “để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp ở mọi nơi”. Sử dụng hai từ nối trái nghĩa nhau “trong thì”
và “ngoài thì” là Người đang muốn nhấn mạnh đến vai trò của Đảng. Mà
bên trong thì phải luôn “vận động” và “tổ chức” dân chúng, hay chính là
phải tuyên truyền và bằng nhiều cách khác nhau để làm cho dân chúng được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn. Còn
bên ngoài thì phải “liên lạc với dân tộc vị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi
nơi”. Bởi thực chất, nhiều người dân các nước trên thế giới cũng đang phải
chịu đau khổ, họ cũng mong muốn được giải phóng dân tộc, giải phóng cho
nhân dân mình, cho giai cấp mình. Và Người cũng rút ra được những lý luận
mới mẻ, đó là mối quan hệ giữa nhân dân các dân tộc khác. Hơn nữa, khẳng
định được vai trò này của Đảng còn cho ta thấy việc định hướng đúng đắn
của Người và thúc đẩy phong trao cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ
hơn. Hai vai trò quan trọng “trong thì”, “ngoài thì” của Đảng cũng được xem
như là các hoạt động đối nội và đối ngoại của Đảng. Qua đây, Hồ Chí Minh
cũng muốn khẳng định vai trò to lớn của “Đảng cách mệnh” trong phong
trào cách mạng, giải phóng dân tộc.
Và cuối cùng, Người chốt lại rằng: “Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Người khẳng định
để cách mệnh thành công thì bắt buộc Đảng phải vững. Đơn giản vì Đảng là
nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam thắng lợi. Đảng
Cộng sản Việt Nam là chính Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội
5



tên phong của giai cấp công nhân , có khả năng đoàn kết , “tập hợp”, “lôi
kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng. “Đây là đội tiên
phong, đội tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc” như Hồ Chí Minh từng nói. Vì thế mà “Đảng có vững thì cách
mạng mới thành công”.
Ở đây, Người cũng thật khéo léo và tinh tế khi lựa chọn hình ảnh so sánh hết
sức độc đáo mà cũng thật ý nghĩa khi so sánh Đảng như “người cầm lái”,
còn cách mạng ta như chiếc thuyền. Ta thử hình dung nếu như chiếc thuyền
mà không có người cầm lái nó sẽ trôi vô định, không phương hướng và rồi
sẽ bị cuốn trôi theo dòng nước, nhưng khi nó có người cầm lái thì tất nhiên
chiếc thuyền đó như được phập phồng nhựa sống, nó sẽ xác định được
phương hướng của mình. Đây cũng chính là cách so sánh ngầm của Hồ Chí
Minh nhằm khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của Đảng. Đó là vai trò tổ
chức, lãnh đạo của Đảng dẫn dắt cách mạng thành công.
Tóm lại, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ thực tiễn
của cuộc cách mạng cũng như những truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh
đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân vì vậy họ
cần phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối
đúng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn, như nhiều chiếc đũa bó thành
một bó, chứ không phải “mỗi chiếc một nơi”, như con thuyền phải có người
cầm lái vững vàng theo một phương hướng đúng đắn thì thuyền mới vượt
qua được gió to song cả để đi đến bến bờ đến bến. Qua đây, Hồ Chí Minh
muốn khẳng định vai trò quan trọng của Đảng trong phong trào cách mạng,
giải phóng dân tộc.
2. Con người xã hội chủ nghĩa là gì?
Nhân tố con người là một nhân tố quan trọng nhất của mọi hoạt động. Để
tìm hiểu nhân tố này ta có thể xem xét trên nhiều phương diện, nhiều khía
cạnh khác nhau. Con người có thể nói gồm hai mặt đó là con người sinh

học và con người xã hội. Con người sinh học ngoài những tư chất tự nhiên
6


nhất định phục thuộc vào những đặc điểm giải phẫu sinh lí của cơ thể còn
có những tố chất quy định khuynh hướng tự nhiên của mỗi cá nhân. Con
người sinh học còn tồn tại trong nó những tính xấu như: kèn cựa, ích kỉ,
tham lam,… Song bên cạnh con người sinh học lại có con người xã hội
đầy tình người, lòng nhân ái, biết giúp đỡ, tương trợ nhau,... Hai con người
này cùng tồn tại trên một cá thể và đấu tranh với nhau. Con người là một
cá thể người, nhưng không phải mọi cá thể người nào cũng là con người.
Để thể hiện đúng tư cách là con người thì cần phải trải qua một quá trình
phát triển nhất định để có một nhân cách đầy đủ, mang tính chính thể. Thuở
sơ khai, từ những thực thể hoang dã, chưa đủ sức mạnh để tách ra khỏi giới
tự nhiên, sống chung với tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, con
người tách dần ra và từng bước thống trị giới tự nhiên. Mác viết"Chỉ có
trong cộng đồng, cá nhân mới có được những phương tiện để phát triển
toàn diện những năng khiếu của mình“. Thật vậy, tư chất tự nhiên chưa thể
là cơ sở đủ cho việc giảI quyết bản chất nhân đạo của con người. Toàn bộ
vấn đề là ở chỗ, mỗi cá nhân bao giờ cũng được sinh ra trong một dân tộc,
một quốc gia, một xã hội với một nền văn hoá và các quan hệ kinh tế,
chính trị, đạo đức, thẩm mĩ, .. nhất định, và cái chủ yếu nhất là mới một hệ
thống phân công lao động xã hội. Tất cả những yếu tố đó tạo nên tình
huống khách quan quy định nhu cầu về mặt xã hội của con người. Yếu tố xã
hội có ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo đIều kiện cho sự hình thành những
năng lực trên cơ sở các tư chất của cá nhân. Hoạt động của cá nhân làm
phát huy và phát triển năng lực. Còn các điều kiện cho sự thực hiện các hoạt
động thì không chỉ là vật chất, kinh tế, kỹ thuật, công nghiệp,.. mà cả các
đIều kiện xã hội, văn hoá, đạo đức, thẩm mĩ,.. tức là các điều kiện ở tầng
tinh thần. MôI trường tinh thần xã hội quan trọng hàng đầu phải kể đến

gia đình, sau đó đến nhà trương và các tổ chức xã hội. Gia đình là cái nôI
trực tiếp cho sựu phát triển các tố chất di truyền. Nhà trường nhân lên tố
chất đó thông qua tri thức nhân loại. Các tổ chức xã hội bổ sung phông phú
vốn sống cho một sự trưởng thành đầy đủ. Tất cả các đIều kiện xã hội - tâm
7


lí, văn hoá, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ,.. của gia đình, nhà trường, tập thể
như là tổ hợp tri thưc, quan hệ, lối sống,.. với tư cách là môi trường nuôi
dưỡng, kích thích, phát huy năng khiếu của cá nhân.
Từ cái nhìn toàn diện, phải thấy rằng con người không chỉ là sản phẩm của
lịch sử, cao hơn nữa con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử và đIều còn
quan trọng hơn con người phải là những chủ thể văn hoá.
Hồ Chí Minh có lòng thương yêu nhân dân gắn liền với lòng tin mãnh liệt
vào sức mạnh, tính chủ động sáng tạo của nhân dân và lòng tôn trọng, kính
trọng nhân dân.
Người khái quát:"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân“. Một nội dung
rất quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là phải chăm lo bồi
dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân. Hồ Chí
Minh coi"con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất“,"dân làm
chủ“. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công
cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Mọi quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Trong công cuộc kháng chiến phải"động viên toàn
dân, vũ trang toàn dân“. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước cũng
phải"động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng
vĩ đại của toàn dân“.
Có thể nói, con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện,
hoàn toàn đi đến không có chủ nghĩa cá nhân. Con người xã hội chủ nghĩa
phải mang những đặc điểm chính sau:

1)

Đậm đà bản sắc dân tộc: Kiên định giữ vững nền độc lập dân tộc, tự hào
dân tộc, yêu quê hương, thương đồng bào, phát triển đất nước theo lí tưởng
xã hội chủ nghĩa.

8


2)

Có trình độ khoa học, công nghệ: Có sức khỏe, được đào tạo có tay nghề,
có tư duy tốt, linh hoạt, sáng tạo, thích nghi, có nếp sống và làm việc văn
minh, hợp lí, làm việc có hiệu quả, làm giàu cho mình, cho nhà, cho nước.

3)

Có tinh thần công dân: Sống và làm việc theo pháp luật, có hiểu biết và ý
thức tuân theo pháp luật, có thế giới quan Mác - Lênin - Hồ Chí Minh.

4)

Đầy đủ tình nghĩa, nhân nghĩa, đạo đức, đạo lí: Có các quan hệ đẹp trong
giao tiếp đầy tính người, tình người, nghĩa cử vì một lí tưởng cao đẹp, hiếu
thảo, chân tình, có tinh thần làm chủ, coi trọng tín ngưỡng gia tiên, có cuộc
sống văn hoá, phong phú, thanh lịch,
3. Mục tiêu
Con người là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Điều này được thể hiện rất rõ
trong quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể:
kinh tế, chịnh trị, văn hóa-xã hội, phát triển con người toàn diện.

Mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự do dân tộc, hạnh phúc cho
nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành. Hồ chí Minh nói một cách trực tiếp: “Nói một cách đơn giản và dễ hiểu
là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” hay
nói một cách gián tiếp “ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất,
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Mục tiêu vì con người được thể hiện rõ ràng hơn trong các mục tiêu cụ thể
sau:
a. Mục tiêu chính trị
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân làm chủ, chế độ chính trị phải là
do nhân dân lao động làm chủ nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Trong
xã hội đó Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Hồ Chí Minh vạch rõ rằng chính phủ là “đầy tớ chung của nhân dân, từ
chủ tịch toàn quốc đến làng, dân là chủ thì chính phủ là đầy tớ”. Mặt khác,
Hồ Chí Minh cũng xác định rằng dân là chủ thì người dân phải có nghĩa vụ
của người làm chủ và phải có tính năng động: ”Đã là người chủ nhà nước thì
phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Đã là người chủ thì phải biết
tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”.
b. Mục tiêu kinh tế
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm
và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng
9


ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xóa
bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện. Nền kinh tế

xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những
ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó "công
nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà". Kết hợp các
loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt
nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích
kinh tế.
Nền kinh tế chủ nghĩa xã hội phải được tạo lập trên cơ sở công hữu về tư liệu
sản xuất. Tuy nhiên theo Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ nền kinh tế còn
tồn tại nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Sau này Người nói đến
những hình thức sở hữu tồn tại ở thời kỳ quá độ: sở hữu nhà nước, sở hữu
hợp tác xã, sở hữu của người lao động riêng lẻ và một ít sở hữu của nhà tư
bản. Hồ Chí Minh xác định: ”Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của
toàn dân và nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên. Người chỉ ra
rằng: ”Trên cơ sở kinh tế XHCN càng phát triển, cách bóc lột theo CNTB
được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được
cải thiện”.
c. Mục tiêu văn hóa
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng chủ nghĩa xã hội gắn liền với văn hóa là một giai đoạn phát
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về giải phóng con người.
Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Phải xây dựng
nền văn hóa lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Văn hóa
phải có vai trò soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa, tư tưởng với tính độc lập
tương đối của mình nhiều khi không phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện sinh
hoạt vật chất và mức sống mà có thể đi trước để mở đường cho chủ nghĩa xã
hội. Do đó phải đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hóa để làm cho nhân dân
lao động có trình độ dân trí ngày càng cao, nắm được những hiểu biết cần
thiết về khoa học và kỹ thuật và để hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần xã hội và trở thành hệ tư
tưởng toàn dân.

Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là
đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là con người. Trong lý luận xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến mặt tư
tưởng. Người cho rằng: Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết
quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao
lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến
trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời Người cũng rất quan tâm
đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài
10


năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn tài năng với đạo
đức. Theo Người, "có tài mà không có đức là hỏng"; dĩ nhiên đức phải đi đôi
với tài nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người
luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
trong đó "chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác". Hai mặt đó gắn bó
thống nhất trong một con người. Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn
trau dồi đạo đức và tài năng.
d. Mục tiêu xã hội
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý. Trong xã hội đó ai làm
nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít ai, ai không làm không hưởng. Các dân
tộc bình đẳng, miền núi ngày càng có nhiều điều kiện để tiến kịp miền xuôi.
Quan hệ xã hội được xây dựng với tiêu chí công bằng, dân chủ, bình đẳng,
tiến bộ. Quan hệ giữa người và người tốt đẹp. Con người trong xã hội phải
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, phải được phát triển toàn
diện về trí lực, thể lực, đạo đức và tinh thần.
Với nhưng đặc trưng nêu trên Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng chủ nghĩa xã hội là
công trình tập thể do nhân dân lao động xây dựng lấy dưới lãnh đạo của

Đảng.
e. Mục tiêu phát triển con người toàn diện
Xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có
quan hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được quan tâm
thực hiện đúng mực; đạo đức, lối sống xã hội phát triển lành mạnh.
Người khẳng định: “ muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa theo quan
niệm của Hồ Chí Minh phải là con người có tinh thần và năng lực làm chủ,
có đạo đức cần kiệm liêm chính, có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Để giải phóng mọi tiềm năng sẵn có của con người trong xây dựng xã hội
chủ nghĩa , Hồ Chí Minh nhấn mạnh cần phải giải phóng phụ nữ, “ Nói phụ
nữ là nói tới phân nữa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải
phóng một nữa loài người… nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ một nữa”.

4. Động lực của chủ nghĩa xã hội
Để hoàn thành được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho
rằng cần phải nhận thức, vận dụng và phát huy được tất cả các động lực của
chủ nghĩa xã hội. Động lực ở đây được hiểu là những nhân tố góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội thông qua hoạt động của con người. Những
động lực đó được biểu hiện ở các phương diện: động lực vật chất và động lực
tinh thần trong đó quan trọng nhất là con người, là nhân dân lao động, nồng
cốt là liên minh công – nông - trí thức

11


Hệ thống các động lực của CNXH trong tư tưởng Hồ chí Minh rất phong phú
nhưng suy đến cùng, các động lực muốn phát huy tác dụng đều phải thông
qua con người, do đó bao trùm lên vẫn là động lực con người trên cả hai bình

diện cộng đồng và cá nhân. Đó là:
Phát huy sức mạnh của đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc- Động lực chủ yếu
để xây dựng đất nước.
Con người trên bình diện cộng đồng bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân:
công nhân, nông dân, trí thức...các tổ chức đoàn thể, các dân tộc và tôn giáo,
đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài...Người cũng không quên nhắc
giai cấp tư sản dân tộc cũng là một lực lượng tham gia xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vì giai cấp tư sản dân tộc ở ta “có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng
yêu nước. Hồ Chí Minh luôn xác định muốn xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội thì phải phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc, bởi vì đây không phải
là sự nghiệp riêng của công nông mà là sự nghiệp của toàn dân tộc, mới giữ
vững được độc lập dân tộc.
Phát huy sức mạnh của con người với tư cách là cá nhân người lao động:
Sức mạnh của cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của từng cá nhân và
thông qua sức mạnh của cá nhân vì thế cần phải có những biện pháp khơi dậy,
phát huy động lực của mỗi cá nhân. Hồ Chí Minh đã chỉ ra một hệ thống nội
dung, biện pháp vật chất và tinh thần, nhằm tác động vào đó, tạo ra sức mạnh
thúc đẩy hoạt động của con người cho CNXH. Bao gồm:
+ Tác động vào nhu cầu lợi ích con người. Bởi vì, vào chủ nghĩa xã hội là đi
vào trận tuyến mới, do đó Hổ Chí Minh cho rằng cần phải biết kích thích
những động lực mới, đó là lợi ích chính đáng của con người lao động. Phê
phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân hơn ai hết nhưng Người rất quan tâm đến
việc khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng, coi trọng động lực cá nhân tạo
ra sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội.
+ Tác động vào các động lực chính trị tinh thần trên cơ sở coi trọng các đòn
bẩy kinh tế nhưng HCM cũng cho thấy rằng đó là phương thuốc chữa bách
bệnh có thể giải quyết tất cả những lĩnh vực hoạt động xã hội – tinh thần đòi
hỏi những hy sinh, thiệt thòi mà không có lợi ích vật chất nào có thể bù đắp
được. Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực
hiện công bằng xã hội, sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố khác như

chính trị, văn hóa đạo đức, pháp luật.
Qua đó ta thấy rõ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã
hội.
III.

Thực tiễn Việt Nam hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề
cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác
-Lênin. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho
việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi
12


mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày
nay.
Trong công cuộc xây dựng CNXH ở việt nam có những nết đặc trưng riêng so
với các nước chủ nghĩa xã hội khác nên công cuộc xây dựng co những thuận
lợivà khó khăn
Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta
đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn, như:
 Về thuận lợi:
Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và tạo động lực mới cho phát
triển; đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi trọng phát triển
kinh tế tri thức, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái.
Ðẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; phát triển nhanh hơn

công nghiệp và xây dựng; tạo chuyển biến tích cực về dịch vụ; xây dựng kết
cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại.
Giải quyết tốt và kết hợp hài hòa các vấn đề phát triển văn hóa, xã hội và con
người; tạo chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm; chăm
sóc sức khỏe nhân dân; kiềm chế tốc độ tăng dân số; làm cho đời sống xã hội
ngày càng lành mạnh; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phát triển các
quan hệ đối ngoại theo hướng rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; đổi mới hệ thống chính trị; nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước và chính quyền các
cấp; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, không
ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác
động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức
nào.
 Khó khăn:
+ Kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
+ Khoa học và công nghệ còn ở trình độ thấp.
+ Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
rất nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vẫn
chưa được khắc phục.

13


+ Các thế lực thù địch âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ đang

đe dọa tới an ninh trật tự và hòa bình của đất nước.
 Thành tựu:
Kinh tế: đất nước bước ra khòi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân
ngày càng ấm no hạnh phúc….
Chính trị: là một trong số nước có nền chịnh trị ổn định nhất,
Van hóa: tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc
 Hạn chế:
Kinh tế; Vẫn ở mức trung bình,
Xã hội: phân hóa giau ngeo,
Văn hoa; tôn tai một số hủ tục lạc hâu của xã hôi trước đê lại, du nhâp một số
văn hóa không lành mạnh.
Để thấy rõ những thành tưu và hạn chế trong công cuộc xây dựng cnxh trong
những năm qua đó thì mời các bạn xem đoạn video sau:
Vì vậy để tiếp tục phát huy thuận lợi và đạt được những thành tựu lớn cũng như
khắc phục những khó khăn găp phải trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc thì Đảng ta đã tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
1. Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc
cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục con đường
cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã
lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải
là thay đổi mục tiêu. Chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời
phải biết cách ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát
triển nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội. Giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt
được để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn
lực, trước hết là nội lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong
nước là chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý
nhất. Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài
năng, sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân
tộc để xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
+ Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm
cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con

14


người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực
của sự phát triển xã hội.
+ Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
+ Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên
cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận
xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế
đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng
để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp
tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân

tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực
quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh
và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột
của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản
lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc
hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền
văn hóa dân tộc.
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách
đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết,
tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những "ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu
lợi ích riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng
hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng
nước nhà như Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Một dân tộc biết cần, biết kiệm" là
một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn,
lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố
con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
15



chủ, công bằng, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã nêu quan
điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh chóng và bền vững”. Và “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc CNH-HĐH”.
IV. Kết thúc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp
đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội chính là con người, để thực hiện được mục tiêu đó cấn có những
động lực mà trong đó con người giữ vai trò quan trọng nhất. Giữa mục tiêu và đông
lực có mối quan hệ biện chứng, và tác động qua lại với nhau.

16


17



×