Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận xử lý nợ và tăng giá trị tài sản qua hoạt động của công ty VAMC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.95 KB, 17 trang )

MỤC LỤC


NHÌN LẠI TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG
TY VAMC TRONG THỜI GIAN VỪA QUA
1. Bối cảnh ra đời:
Trong những năm gần đây, kinh tế toàn cầu suy thoái đã ảnh hưởng không nhỏ
đến nền kinh tế của Việt Nam. Tình hình hê thống ngân hàng đã bộc lộ những yếu kém
trong hoạt động đặc biệt tỷ lệ nợ xấu luôn ở mức cao. Vấn đề tìm kiếm một mô hình
xử lý nợ xấu phù hợp cho Việt Nam đã được đặt ra từ năm 2011, khi bắt đầu có những
dấu hiếu cảnh báo về mức nợ xấu tăng cao của hệ thống ngân hàng và những hệ lụy
của nó đối với nền kinh tế. Trong năm 2012, yêu cầu 1 này càng trở lên cấp bách bởi
khối nợ xấu ngày một phình to và đã trở thành “cục máu đông” nghẽn mạch tăng
trưởng. Những tháng đầu năm 2013, nợ xấu tiếp tục xu hướng tăng và tình hình cũng
không khả quan mặc dù bản thân các ngân hàng đã có những biện pháp tự xử lý nhằm
giảm nợ.
Trong bối cảnh đó, công tác xử lý nợ xấu cần phải được gấp rút thực hiện và có
hiệu quả tức thời để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp và TCTD.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ
chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) và
ban hành Quyết định số 843/2013/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 về phê duyệt đề án “xử lý
nợ xấu của hệ thống các TCTD” và đề án “thành lập công ty quản lý tài sản của các
TCTD Việt Nam”. Ngày 27/6/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số
1459/QĐ-NHNN chính thức thành lập Công ty Quản lý tài sản (VAMC), vốn điều lệ
500.000.000.000 đồng.
2. Mô hình tổ chức:
VAMC được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH Một thành viên, do Nhà
nước sở hữu 100% vốn điều lệ và chịu sự quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát của
Ngân hàng Nhà nước. Giai đoạn đầu thực hiện nhiệm vụ mua nợ xấu thanh toán bằng
trái phiếu đặc biệt. Khung pháp lý triển khai nhiệm vụ:
- Nghị định số 53/2013/ND-CP ngày 18 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng


Chính phủ quy định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC;
- Thông tư số 9/2013/TT-NHNN quy định về việc mua bán, xử lý nợ xấu của
VAMC;
Trang 2


- Thông tư số 20/2013/TT-NHNN quy định về việc tái cấp vốn của NHNN với các
ngân hàng thương mại (NHTM) trên cơ sở trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành.

Mô hình tổ chức hiện tại thể hiện tại sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức của VAMC
3. Chức năng:
Theo giấy phép, VAMC được thực hiện các hoạt động sau:
a. Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng;
b. Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm;
c. Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp,
vốn cổ phần của khách hàng vay;
d. Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã
được VAMC thu nợ;

Trang 3


e. Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có liên
quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ xấu và bảo
đảm tiền vay;
f. Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản;
g. Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần;
h. Tổ chức bán đấu giá tài sản;
i. Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của tổ chức tín

dụng;
j. Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VAMC sau khi được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
k. VAMC được ủy quyền cho các tổ chức tín dụng bán nợ thực hiện các hoạt
động được quy định tại điểm b, c, d, e.
Việc xử lý nợ và gia tăng giá trị tài sản qua hoạt động của VAMC thể hiện theo
sơ đồ dưới đây:

Sơ đồ 2: Xử lý nợ và tăng giá trị tài sản qua hoạt động của VAMC
4. Về điều kiện đối với các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản
mua:
Trang 4


Theo quy định tại Nghị định 53, Công ty Quản lý tài sản mua các khoản nợ xấu
có đủ 5 điều kiện sau:
Thứ nhất, khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, bao gồm nợ xấu trong các hoạt
động cấp tín dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp,
uỷ thác cấp tín dụng và hoạt động khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
Thứ hai, khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm;
Thứ ba, khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp
lệ;
Thứ tư, khách hàng vay còn tồn tại;
Thứ năm, số dư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không
thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cụ
thể về điều kiện các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua.
Ngoài ra, Nghị định số 53 cũng quy định theo đề nghị của Ngân hàng Nhà
nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc Công ty Quản lý tài sản mua lại các khoản
nợ xấu của TCTD không đáp ứng đầy đủ 5 điều kiện quy định.
5. Phương thức mua nợ xấu:

Nghị định 53 quy định Công ty Quản lý tài sản mua nợ xấu của tổ chức tín dụng
dưới một trong hai phương thức sau đây:
Một là, mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ số dư nợ gốc khách
hàng vay chưa trả đã được khấu trừ số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập chưa sử dụng
cho khoản nợ xấu đó, đồng thời trả cho tổ chức tín dụng bán nợ bằng trái phiếu đặc
biệt do Công ty Quản lý tài sản phát hành;
Hai là, mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn
không phải trái phiếu đặc biệt trên cơ sở thỏa thuận và giá trị khoản nợ xấu được đánh
giá lại. Đối với khoản nợ xấu này, ngoài việc phải đáp ứng 5 điều kiện khoản nợ xấu
được Công ty Quản lý tài sản mua thì khoản nợ đó phải được đánh giá có khả năng thu
hồi đầy đủ số tiền mua nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có khả năng phát
mại và khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ.

Trang 5


Đồng thời, Nghị định 53 cũng quy định trường hợp tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ
xấu từ 3% trở lên hoặc một tỷ lệ nợ xấu khác do Ngân hàng Nhà nước quy định không
bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản thì Ngân hàng Nhà nước xem xét, áp dụng các
biện pháp:
Thứ nhất, tiến hành thanh tra hoặc yêu cầu tổ chức tín dụng thuê công ty kiểm
toán hoặc tổ chức định giá độc lập đánh giá lại chất lượng và giá trị tài sản, vốn chủ sở
hữu và vốn điều lệ của tổ chức tín dụng đó; chi phí kiểm toán, định giá do tổ chức tín
dụng thanh toán;
Thứ hai, trên cơ sở kết quả thanh tra, định giá và kiểm toán độc lập, tổ chức tín
dụng phải bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản để đảm bảo tỷ lệ nợ xấu của tổ chức
tín dụng ở mức an toàn; thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và tuân thủ các tỷ lệ an
toàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; cơ cấu lại tổ chức tín dụng theo phương
án được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt.
6. Các quyền của Công ty Quản lý tài sản trong hoạt động xử lý nợ xấu:

Theo quy định tại Nghị định 53, Công ty Quản lý tài sản được thực hiện quyền:
(i) Yêu cầu tổ chức tín dụng bán nợ, khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ,
bên bảo đảm và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các thông tin, tài
liệu về tổ chức và hoạt động của khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm;
thông tin, tài liệu về các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu đã được
bán cho Công ty Quản lý tài sản;
(ii) Đề nghị tổ chức tín dụng bán các khoản nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản;
(iii) Tham gia quá trình cơ cấu lại khách hàng vay sau khi góp vốn, mua cổ
phần tại khách hàng vay;
(iv) Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên
bảo đảm;
(v) Thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý, thu hồi nợ;
(vi) Đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, cơ quan bảo vệ pháp luật
hoàn tất các thủ tục, hồ sơ pháp lý về tài sản bảo đảm và phối hợp, hỗ trợ trong quá
trình thu giữ tài sản bảo đảm và thu hồi, xử lý nợ, tài sản bảo đảm;
(vii) Đề nghị các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện đăng ký giao
dịch bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu do Công ty Quản lý tài
sản mua chưa được đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong trường hợp này, Công ty Quản
lý tài sản trở thành bên nhận bảo đảm và được thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo
đảm dựa trên hợp đồng mua bán nợ xấu mà không phải ký lại hợp đồng bảo đảm với
bên bảo đảm;
Trang 6


(viii) Giám sát, kiểm tra các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện các hoạt động
được Công ty Quản lý tài sản uỷ quyền;
(ix) Được hưởng một tỷ lệ nhất định trên số tiền thu hồi các khoản nợ xấu được
Công ty Quản lý tài sản mua bằng trái phiếu đặc biệt;
(x) Các quyền khác của chủ nợ, bên nhận bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy qua các quyền này và cơ chế mua bán nợ của VAMC ở trên thì việc

bán nợ xấu cho VAMC là một mệnh lệnh hành chính, và phần rủi ro vẫn thuộc về
ngân hàng, trong khi đó trách nhiệm của VAMC thì rất mờ nhạt bởi vì chúng ta thấy
rằng không có một sự ràng buộc rằng VAMC phải có trách nhiệm xử lý nợ xấu đó,
nếu không thì sẽ có những chế tài , xử lý trách nhiệm của VAMC và những cá nhân
liên quan. Đằng này thì VAMC sau 5 năm không xử lý nợ xấu thì trả về cho ngân
hàng, các khoảng nợ xấu đó lại được chuyển cho chủ cũ của nó và VAMC chẵng mất
mát gì và cũng chẳng xử lý được căn bệnh “Nợ xấu”, ví như lời của thống đốc NHNN
thì mua bán nợ xấu giống như là “nhốt nơ”, tức là nợ xấu vẫn tồn tại trong nền kinh tế,
trong khi đó chúng ta đang cần một tổ chức xử lý triệt để vấn đề nợ xấu này, tuy nhiên
chúng ta đang chứng kiến một tổ chức đang thực hiện một việc là kéo giãn nợ, làm đẹp
sổ sách cho các TCTD hơn là giải quyết vấn đề nợ xấu nay.
7. Kết quả hoạt động của VAMC kể từ khi thành lập cho đến nay:
Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến cuối tháng 12/2014, tổng nợ xấu nội
bảng là 145.000 tỷ đồng, chiếm 3,25% tổng dư nợ, giảm so với mức 4,17% tháng
6/2014 và mức 3,61% tháng 12/2013. Như vậy, sau khi tăng nhanh trong 6 tháng đầu
năm 2014 do tình hình kinh tế vĩ mô chưa có nhiều cải thiện, hoạt động của DN còn
nhiều khó khăn và TCTD phải áp dụng chuẩn mực mới về phân loại nợ chặt chẽ hơn
theo những quy định trong Thông tư số 09/2014/TT-NHNN, nợ xấu của hệ thống ngân
hàng đã bắt đầu giảm.
Đến cuối tháng 12/2014, tổng số dư các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ
khi thực hiện theo Quyết định số 780/QĐ-NHNN và Thông tư số 09/2014/TT-NHNN
là 309.000 tỷ đồng. Nếu đánh giá thận trọng về số liệu nợ xấu bao gồm cả những
khoản nợ đã thực hiện cơ cấu lại nợ nhưng có khả năng sẽ chuyển thành nợ xấu trong
2015, tổng nợ xấu của hệ thống trong năm 2015 sẽ lên 332.000 tỷ đồng (bao gồm
145.000 tỷ đồng đã được phân loại nợ xấu cộng với 187.000 tỷ đồng nợ xấu được cơ
cấu lại).

Trang 7



Thực tế cho thấy, tỷ lệ nợ xấu giảm dần của các TCTD có mối quan hệ chặt chẽ
với việc mua nợ xấu tăng dần của VAMC trong giai đoạn 6 tháng cuối năm 2014 (biểu
đồ 1).

VAMC tổ chức mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) đối với những
khoản nợ của các TCTD đáp ứng đủ điều kiện quy định. Lũy kế từ tháng 10/2013 đến
31/12/2014, VAMC đã thực hiện mua 133.555 tỷ đồng dư nợ gốc với giá mua 108.652
tỷ đồng của 39 TCTD. Kết quả mua nợ xấu của các TCTD bằng TPĐB của VAMC đã
góp phần tích cực trong việc giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD tính đến cuối năm 2014.
Sau đó, Công ty tổ chức thực hiện phân loại, đánh giá khoản nợ và tài sản đảm
bảo để xử lý, theo hướng:
- Thứ nhất, khách hàng có khả năng phục hồi thì cơ cấu nợ, miễn giảm lãi, giảm
lãi suất cho vay về mức phù hợp. Trường hợp xét thấy khách hàng có phương án khả

Trang 8


thi thì đề nghị TCTD cho khách hàng tiếp tục được vay vốn để thực hiện dự án, hoạt
động sản xuất - kinh doanh.
- Thứ hai, khách hàng không có khả năng khắc phục thì tiến hành xử lý tài sản
đảm bảo để thu hồi nợ, hoặc bán nợ. VAMC trực tiếp đôn đốc thu hồi nợ hoặc ủy
quyền cho TCTD thu hồi nợ, kể cả phát mại tài sản đảm bảo và bán nợ.
Về hoạt động cơ cấu lại nợ: đã thực hiện điều chỉnh lãi suất cho 28 khoản nợ
của 9 khách hàng với dư nợ gốc được điều chỉnh là 367 tỷ đồng; miễn, giảm lãi/phí
cho 17 khách hàng với số tiền miễn giảm lãi là 66 tỷ đồng; cơ cấu lại thời hạn trả nợ
cho 11 khách hàng với dư nợ gốc được cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 446 tỷ đồng. Cùng
với việc cơ cấu lại nợ, VAMC đã trao đổi với TCTD tiếp tục cấp hạn mức 950 tỷ đồng
cho 2 khách hàng để hoàn thiện 2 dự án, đến nay đã giải ngân được 425 tỷ đồng.

Về hoạt động bán nợ, bán tài sản đảm bảo: đã thực hiện bán 68 khoản nợ của 10

khách hàng với tổng giá trị nợ gốc là 2.306 tỷ đồng, giá bán nợ là 1.773 tỷ đồng; thực
hiện bán tài sản đảm bảo của 13 khoản nợ với giá bán 490 tỷ đồng.
Với các nguồn thu từ hoạt động sản xuất - kinh doanh của khách hàng sau khi
được cơ cấu nợ, thu từ bán nợ, bán TSĐB cùng với các biện pháp thu hồi nợ khác, đến
hết năm 2014, VAMC đã phối hợp với các ngân hàng thu được 5.021 tỷ đồng.
Như vậy, theo thời gian, có thể thấy VAMC là công cụ hữu hiệu trong quá trình
xử lý nợ xấu không sử dụng vốn ngân sách của Việt Nam, mà kết quả là sau gần 2
năm đi vào hoạt động đã giúp cho các TCTD giảm được dư nợ xấu hơn 128.000 tỷ
đồng, tháo gỡ khó khăn cho DN thông qua cơ cấu nợ, miễn giảm lãi, tiếp cận được
vốn vay của TCTD.
Trong năm 2015 là năm cuối cùng của giai đoạn 2011 – 2015 thực hiện Đề án
cơ cấu lại các TCTD và năm bản lề thực hiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các
TCTD. Do đó, Chính phủ và NHNN đang và sẽ thực hiện quyết liệt để xử lý triệt để
nợ xấu – một trong những tác nhân lớn gây bất ổn kinh tế vĩ mô Việt Nam.
+ Để tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu nêu tại Đề
án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” ban hành kèm theo Quyết định 843 và phấn
Trang 9


đấu đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 3% đến cuối năm 2015 như đã nêu tại Nghị quyết
01/NQ-CP ngày 03/01/2015 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ
đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà
nước năm 2015, NHNN đã ban hành Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 27/01/2015 về việc
tăng cường xử lý nợ xấu của TCTD. Với Chỉ thị này, NHNN yêu cầu: VAMC phải có
kế hoạch mua 70.000 – 100.000 tỷ đồng nợ xấu trong năm nay; các TCTD phải xử lý
được tối thiểu 60% số nợ xấu cần xử lý trong năm 2015 trước 30/06; thực hiện bán nợ
cho VAMC phải đạt tối thiểu 75% trong 06 tháng đầu năm; và các TCTD phải tập
trung nguồn lực xử lý nợ xấu.
+ Gần 2 năm thành lập nhưng VAMC vẫn khá loay hoay trong hoạt động xử lý
nợ xấu. Và một trong những nguyên nhân mà theo các chuyên gia nhận định là mức

vốn điều lệ khá nhỏ bé so với khoảng nợ xấu khổng lồ. Bên cạnh đó, cơ chế mua bán
nợ vẫn còn phụ thuộc ở biện pháp hành chính, chưa theo hướng thị trường. Chính vì
vậy, ngày 31/3/2015, Nghị định 34/2015/NĐ-CP ra đời về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18/05/2013.
Bảng: So sánh giữa Nghị định 53 và Nghị định 34

+ Đến tháng 06/2015, thống kê từ báo cáo tài chính của 12 ngân hàng thương
mại cổ phần thì lợi nhuận bị bào mòn đến 46% vì chi phí dự phòng. Chi phí dự phòng
tăng lên nhưng theo đúng lộ trình chỉ 20%/năm khi bán nợ xấu đổi lấy trái phiếu đặc
biệt của VAMC. Chính vì vậy, lợi nhuận ngân hàng có bào mòn mạnh nhưng sẽ bớt
sốc hơn với chính sách mua bán nợ của VAMC. Và tính cho đến tháng 07/2015,
VAMC cũng đã tiếp nhận thêm 64.000 tỷ đồng từ các TCTD, phê duyệt được 59.000
tỷ đồng với giá gốc và giá mua là 54.000 tỷ đồng. Theo đó, VAMC đã phát hành được
51.300 tỷ đồng TPĐB. Về bán nợ, sau 7 tháng đầu năm triển khai, VAMC xử lý bán
tài sản bảo đảm, bán nợ và thu hồi được 6.513 tỷ đồng.
Trang 10


+ NHNN luôn có những bước đi vững chắc trong xử lý dứt điểm nợ xấu của các
TCTD. Cụ thể, ngày 28/08/2015, NHNN ban hành Thông tư số 14/2015/TT-NHNN
sửa đổi, bổ sung một số điều của TT 19/2013/TT-NHNN về việc mua, bán và xử lý nợ
xấu của Công ty VAMC. Thông tư này cụ thể hóa những thay đổi trong Nghị định
34/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/03/2015. Và chính thức quy định
việc VAMC mua lại nợ xấu theo giá thị trường bằng phát hành trái phiếu trực tiếp cho
tổ chức tín dụng bán nợ xấu, bên cạnh trái phiếu đặc biệt với cơ chế đã có. Cơ chế mới
gắn kèm với nhiều lợi ích như sau: Trái phiếu VAMC phát hành dùng để thanh toán
cho tổ chức tín dụng bán lại nợ xấu; các TCTD sở hữu trái phiếu mới này thì không
phải trích lập dự phòng rủi ro như TPĐB; TCTD sở hữu trái phiếu như một tài sản có
tính thanh khoản cao, bởi có thể chuyển nhượng giữa TCTD với NHNN, và giữa các
TCTD với nhau.

Bảng: So sánh giữa trái phiếu đặc biệt và trái phiếu mới

8. Những thuận lợi và khó khăn:
a) Những lợi ích đạt được thông qua hoạt động của VAMC:
+ Đối với TCTD:
Việc mua bán nợ xấu của VAMC giúp các TCTD giảm nhanh nợ xấu, làm sạch
bảng cân đối kế toán, lành mạnh hóa tình hình tài chính;
Được sử dụng trái phiếu đặc biêt vay tái cấp vốn tại NHNN với tỷ lệ tối đa 70%
để phục vụ cho tăng trưởng tín dụng có muc tiêu hoặc hỗ trợ thanh khoản.
Được tiếp tục cho doanh nghiệp vay vốn nếu có phương án, dự án khả thi.
Được sử dụng quyền năng của VAMC khi thu giữ, phát mại tài sản hoặc hoàn
thiện thủ tục pháp lý tài sản đảm bảo khi được ủy quyền.
Trang 11


Hệ số tín nhiệm được nâng lên, đủ uy tín để vay vốn tại các tổ chức quốc tế với
lãi suất hợp lý.
Cơ hội để TCTD tự tái cấu trúc lại chính mình, nhất là khi thực hiện phân loại
nợ theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 và Thông tư 09/2014/TTNHNN ngày 18/3/2014, qua việc tự phân loại và xử lý nợ xấu, trường hợp không tự xử
lý được thì TCTD sẽ nhận được sự hỗ trợ của VAMC.
Chủ động về mặt tài chính khi tính toán bán nợ xấu cho VAMC, trích dự phòng
rủi ro khoản nợ xấu.
+ Đối với khách hàng:
Có cơ hội được xem xét lại trong việc cơ cấu nợ. Thực tế khoản nợ xấu đã bán
cho VAMC phần lớn đã được TCTD thực hiện cơ cấu. Việc VAMC xem xét cơ cấu nợ
là cơ hội cuối cùng của doanh nghiệp.
Được xem xét miễn giảm lãi phạt, phí, lãi vay quá hạn thanh toán và kể từ ngày
VAMC mua nợ, khoản nợ xấu được điều chỉnh lãi suất về mức hợp lý.
Được VAMC hỗ trợ thông qua phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp, tình
hình tài chính, thẩm định phương án SXKD mới, nếu có hiệu quả thì đề nghị TCTD

xem xét cho vay tiếp để vượt qua khó khăn
b) Những khó khăn mà VAMC gặp phải:
So với thực trạng nợ xấu, tốc độ xử lý còn chậm, kết quả bán nợ, tài sản đảm
bảo còn rất khiêm tốn. Quá trình triển khai xử lý nợ xấu trong thời gian qua, VAMC
gặp phải một số khó khăn, bất cập.
- Thứ nhất, việc tiến hành cơ cấu nợ, miễn giảm lãi còn nhiều hạn chế, do nhiều
nguyên nhân:
+ TCTD không muốn xem xét miễn giảm lãi, cơ cấu khoản nợ cho khách hàng,
thậm chí nhiều khách hàng có đơn đề nghị xem xét cơ cấu nợ, miễn giảm lãi, song
không được đáp ứng vì khoản nợ có tài sản đảm bảo giá trị kém.
+ Từ phía khách hàng: khách hàng chưa đưa ra được phương án sản xuất - kinh
doanh khả thi, chưa chứng minh được tình hình tài chính, cũng như thu xếp vốn để đầu
tư tiếp.
+ Từ phía VAMC: Công ty không thể chủ động tiến hành miễn giảm lãi cho
khách hàng khi TCTD chưa thống nhất, việc quyết định miễn giảm lãi ảnh hưởng trực
tiếp tới tình hình tài chính của các TCTD. Mặt khác, TCTD vẫn phải chịu mọi rủi ro

Trang 12


đối với khoản nợ xấu mua bằng TPĐB, do vậy nếu TCTD không thống nhất thì
VAMC cũng không thể tiến hành được.
- Thứ hai, việc tiến hành thu hồi nợ, bán nợ, bán tài sản kết quả còn khiêm tốn,
mà thực chất phần lớn giá trị thu hồi là do nỗ lực của TCTD tự thực hiện (VAMC đã
tiến hành uỷ quyền thu hồi nợ, bán nợ, bán tài sản đảm bảo cho TCTD).
- Thứ ba, thực tế hiện nay có nhiều DN phát sinh nợ xấu tại một hoặc nhiều
TCTD, nợ xấu đã được bán cho VAMC. Tuy nhiên, khi khách hàng đề nghị được cơ
cấu nợ, xây dựng phương án để tiếp tục kinh doanh, TCTD không đồng ý cho DN
được tiếp tục vay vốn.
- Thứ tư, TCTD phối hợp với VAMC tiến hành thu giữ, phát mại tài sản đảm

bảo của khách hàng vay đúng trình tự và thống nhất phương án thu giữ, phát mại tài
sản. Tuy nhiên, khách hàng không đồng ý bàn giao tài sản dẫn đến VAMC và TCTD
không thể xử lý để thu hồi nợ.
- Thứ năm, trong trường hợp TCTD bán nợ cho VAMC sau đó phối hợp tiến
hành thu giữ tài sản để phát mại, thì khách hàng khởi kiện tài sản có tranh chấp từ
trước khi bán nợ cho VAMC. Tình huống này đưa VAMC vào tình thế phải xử lý sau
khi có bằng chứng có tranh chấp và phải trả lại khoản nợ cho TCTD, ảnh hưởng đến
uy tín, vai trò của VAMC.
- Thứ sáu, khách hàng dựa vào lý do đã bán nợ cho VAMC để kéo dài việc trả
nợ, không hợp tác với TCTD, thậm chí có yêu cầu VAMC thực hiện cơ cấu nợ, miễn
giảm lãi trong khi không có phương án kinh doanh khả thi, không đáp ứng được điều
kiện theo quy định.
- Thứ bảy, về phía TCTD, việc bán nợ cho VAMC chỉ giúp giảm nợ xấu về tỷ lệ
theo quy định, TCTD vẫn phải chịu trách nhiệm như trích dự phòng rủi ro, thu hồi nợ,
bán nợ, bán tài sản đảm bảo, thậm chí gánh chịu hậu quả nếu xảy ra thất thoát. Do vậy,
TCTD vẫn xác định quyền chủ nợ của họ sau 5 năm sẽ thu hồi, dẫn đến sự hợp tác
không chặt chẽ, thậm chí không cần VAMC xử lý nợ xấu đã bán.
- Thứ tám, VAMC không có quyền chủ động xử lý những khoản nợ xấu mua
bằng tài sản đảm bảo. Do vậy, trên danh nghĩa, TCTD vẫn có quyền quyết định đối
với tài sản thế chấp của khoản nợ, VAMC không có nhiều vai trò định đoạt tài sản
đảm bảo các khoản nợ xấu đã mua. Thực tế cho thấy, nếu TCTD phối hợp chặt chẽ với
VAMC thì Công ty thể hiện được vai trò của mình và ngược lại, TCTD không hợp tác
thì VAMC không thực hiện được vai trò trong công tác xử lý nợ.

Trang 13


- Thứ chín, cho dù khách hàng rất muốn bán tài sản để trả nợ TCTD, tuy nhiên,
sau khi bán tài sản, giá trị thu hồi không đủ trả nợ TCTD, khách hàng không còn
nguồn lực để trả nợ TCTD. Vì vậy, khách hàng thường không chấp nhận định giá tài

sản theo mức giá thị trường mà luôn yêu cầu phải đủ để trả nợ gốc và lãi. Mặt khác,
một số trường hợp TCTD không phối hợp để bán nợ, tài sản do có vấn đề trong quá
trình vay vốn.
- Thứ mười, hiện Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ xấu. Tổ chức muốn
mua nợ xấu cần phải có đăng ký kinh doanh với ngành nghề mua bán nợ. Hiện tại chỉ
có VAMC, DATC và các AMC của các TCTD mới có thể thực hiện các giao dịch mua
bán nợ xấu. Từ thực tế đó, VAMC mua nợ xấu cũng không thể bán, mà chỉ có thể xử
lý qua hình thức bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
- Thứ mười một, việc bán khoản nợ khi chưa có cơ sở định giá rất phức tạp.
Trong khi đó, khả năng của VAMC trong giai đoạn này chưa thể tự định giá để mua
bán được khoản nợ.
9. Một số vấn đề đặt ra:
a) Nguồn vốn của VAMC còn hạn chế:
Khó khăn đầu tiên mà VAMC gặp phải trong hoạt động mua bán nợ xấu chính
là hạn chế về nguồn lực trong khi nhiệm vụ và các mục tiêu đặt ra là khá lớn. Theo
Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, VAMC hiện đang phải thực hiện mua nợ xấu của các
TCTD chỉ với vốn điều lệ 500 tỷ đồng. Tại thời điểm thành lập VAMC (tháng
5/2013), số vốn này chỉ bằng 0,3% tổng nợ xấu nên số vốn điều lệ này chỉ đại diện cho
vốn lưu động, còn việc mua lại toàn bộ các khoản nợ xấu của các TCTD là khó khả thi
trong bối cảnh VAMC thực hiện mua bán nợ xấu theo nguyên tắc không dùng vốn
NSNN. Để giải quyết vấn đề này, VAMC đã sử dụng đến trái phiếu đặc biệt thay cho
tiền mặt , loại trái phiếu mà các TCTD có thể sử dụng để tái cấp vốn tại NHNN.
Tuy nhiên, xét về dài hạn, việc mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt sẽ có một số
hạn chế:
(i) Nếu sử dụng trái phiếu đặc biệt trong thời gian dài thì các TCTD sẽ phải liên
tục trích lập dự phòng bằng 20% giá trị của trái phiếu đặc biệt, do đó hạn chế tăng
trưởng tín dụng chung của cả hệ thống;
(ii) Công tác xử lý nợ thường kéo dài, nên việc thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra
của VAMC sẽ mất nhiều chi phí, điển hình là phí quản lý để BĐS không bị xuống cấp
và mất giá trị6 và bảo lãnh tài sản thế chấp;

(iii) Nếu chỉ dựa vào trái phiếu đặc biệt, VAMC sẽ không thể mua và giải quyết
dứt điểm toàn bộ các khoản nợ xấu hiện nay, gây áp lực lớn về chi phí đối với công ty
nếu quá trình xử lý nợ kéo dài.
Trang 14


b) Thị trường mua bán nợ chưa phát triển và thiếu tính cạnh tranh:
Trên thị trường, mặc dù nguồn cung về nợ xấu khá lớn nhưng số lượng công ty
chuyên về mua bán nợ xấu lại không nhiều. Ngoài VMAC, đang có hơn 20 AMC của
các NHTM và DATC thuộc Bộ Tài chính7 . Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các AMC
của các NHTM hoạt động chưa thực sự hiệu quả trong suốt 13 năm qua chủ yếu bởi
các lý do:
(i) Chỉ hoạt động trong phạm vi các tài sản và khoản nợ của NHTM mẹ, thay vì
tham gia vào thị trường mua bán nợ với các AMC khác;
(ii) Được thành lập chỉ để xử lý vụ việc nhất định và bị giải thể sau khi vụ việc
được xử lý xong.
Cùng với những hạn chế về năng lực, phương thức mua bán nợ của các công ty
này trên thị trường còn thiếu tính đa dạng. Hoạt động mua bán nợ được thực hiện chủ
yếu dưới 2 hình thức: Mua bán nợ theo thoả thuận và mua bán nợ theo chỉ định của
Thủ tướng Chính phủ13. Phương thức mua nợ theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ
chỉ áp dụng cho DATC, giá cả mua bán sẽ do các cơ quan quản lý nhà nước liên quan
xem xét, xây dựng, thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài
DATC, các công ty mua bán nợ khác thường áp dụng phương pháp duy nhất là mua
bán nợ theo thỏa thuận.
c) Thiếu một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa VAMC và các TCTD:
Mặc dù, VAMC ra đời và hoạt động đã gần hai năm, vẫn chưa có một cơ chế
phối hợp hiệu quả giữa VAMC và các TCTD trong việc thống nhất phương án, lộ
trình, kế hoạch xử lý cũng như việc giải quyết những vướng mắc trong quá trình xử lý
các khoản nợ đã mua bán. Nợ xấu đã được bán cho VAMC nhưng các TCTD vẫn trực
tiếp xử lý, chưa tách bạch rõ ràng chủ thể mua nợ và chủ thể bán nợ nên hiệu quả xử lý

nợ của VAMC còn thấp. Trên thực tế, sau khi bán nợ xấu cho VAMC, các TCTD
được ủy quyền chủ động thực hiện việc xử lý các khoản nợ đã bán và báo cáo VAMC
theo định kỳ. Như vậy, trong khi động lực thu hồi nợ đối với các TCTD là khá rõ ràng
(bởi nếu không tích cực xử lý, các TCTD sẽ phải gánh lại những khoản nợ xấu đã bán
sau 5 năm), thì động lực xử lý nợ xấu của VAMC chưa rõ ràng.
Đối với một số khoản nợ xấu chưa bán, các TCTD tự thực hiện trích lập dự
phòng rủi ro theo quy định của NHNN với các tỷ lệ khác nhau căn cứ vào số dư nợ
cho vay, giá trị khấu trừ tài sản đảm bảo và tỷ lệ trích lập của từng nhóm nợ. Nếu bán
nợ cho VAMC, các TCTD sẽ phải thực hiện trích lập dự phòng hàng năm 20% giá trị
trái phiếu VAMC trong thời gian 5 năm. Như vậy, các TCTD sẽ không còn được chủ
động trong việc trích lập dự phòng đối với các khoản nợ đã bán cho VAMC, trong khi
số nợ bán cho VAMC càng nhiều đồng nghĩa với số tiền trích lập dự phòng càng lớn,
Trang 15


chi phí tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các TCTD. Những
vướng mắc này là nguyên nhân khiến các TCTD chưa thực sự tích cực trong việc bán
nợ cho VAMC (đầu vào) trong khi việc xử lý các khoản nợ xấu đã mua của VAMC
(đầu ra) còn chậm.
d) Cơ chế xử lý tài sản đảm bảo chưa hiệu quả:
Cùng với những khó khăn trong việc tìm khách hàng mua nợ, xử lý đầu ra cho
các khoản nợ xấu đã mua, VAMC còn gặp khó khăn cả trong quá trình thu hồi và phát
mãi tài sản khiến cho quá trình xử lý nợ xấu mất nhiều thời gian. Nguyên nhân chủ
yếu do cơ chế xử lý tài sản đảm bảo chưa hiệu quả. Cụ thể:
(i) VAMC được phép tổ chức bán đấu giá đối với tài sản đảm bảo các khoản nợ
xấu không có thỏa thuận với TCTD và chủ nợ trị giá dưới 10 tỷ đồng và tài sản bảo
đảm không thuê được tổ chức đấu giá chuyên nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, do chưa có
quy định về tiêu chí, cách thức lựa chọn nơi tổ chức đấu giá tài sản nên mỗi nơi thực
hiện khác nhau;
(ii) Chưa có quy định rõ ràng về cách thức UBND và cơ quan công an thực thi

vai trò hỗ trợ cho bên xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm như thế
nào.
(iii) Quy trình giải quyết tài sản đảm bảo hiện nay có liên quan đến rất nhiều đối
tác, gây khó khăn cho việc giải quyết dứt điểm khoản nợ xấu. Bất cập này dẫn đến
việc VAMC dù đã mua được các khoản nợ, nhưng cũng không thể phối hợp với các
TCTD để phát mãi các tài sản đảm bảo. Khi VAMC và các TCTD không xử lý thu hồi
được nợ, các khoản nợ này sẽ chuyển thành nợ quá hạn và nợ xấu, đẩy tỷ lệ nợ xấu
tăng lên.
đ) Thị trường thông tin nợ xấu thiếu minh bạch, còn nhiều bất cập:
VAMC thực hiện mua bán nợ xấu với nguyên tắc không dùng vốn NSNN. Do
đó, sẽ là rất quan trọng nếu công ty này có thể xây dựng một kế hoạch xử lý nợ xấu
chính xác dựa trên các thông tin có sẵn, nhằm giảm thiểu được các chi phí phát sinh.
Trên cơ sở thông tin về nợ xấu thống nhất, minh bạch, VAMC mới có thể đưa ra chiến
lược và các phương án thích hợp để mua bán và xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, điều này
không dễ dàng bởi thị trường thông tin về nợ xấu hiện nay còn chưa đồng nhất và
thiếu tính minh bạch
Một là, Sự chênh lệch về số liệu nợ xấu giữa báo cáo của các TCTD và báo cáo
của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là khá lớn. Xét về tính khách quan và mức
độ tin cậy, cơ quan giám sát ngân hàng có nhiều nguồn thông tin khác nhau để đánh
giá chất lượng nợ xấu của TCTD (thông tin chung về toàn hệ thống, thông tin về
khách hàng vay, thông tin từ hoạt động thanh tra tại chỗ….) nên có độ tin cậy cao hơn,
Trang 16


tuy nhiên, VAMC sẽ gặp khó khăn trong công tác xử lý nợ xấu khi tiếp nhận thông tin
nợ xấu từ các TCTD có ý định bán nợ xấu cho VAMC.
Hai là, do quan hệ sở hữu chéo và những lợi ích kinh tế gắn kết giữa ngân hàng
và các DN liên quan đến các chủ sở hữu, nên có thể xuất hiện trường hợp các NHTM
không muốn chuyển giao nhóm đối tượng khách hàng đặc biệt này cho VAMC. Đối
với các NHTM cổ phần nhà nước, việc bán nợ cho VAMC cũng đồng nghĩa với việc

để lộ ra những khoản vay không hiệu quả. Đây là những rào cản lớn nhất làm chậm
quá trình xử lý nợ xấu của VAMC cũng như các tổ chức mua bán nợ khác vì thông tin
nợ xấu không chính xác khiến cho việc lập chiến lược và thực hiện quy trình giải
quyết dứt điểm nợ xấu trở nên khó khăn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 17



×