Tải bản đầy đủ (.pdf) (360 trang)

Lý thuyết cải biên học từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh trường hợp kurosawa akira

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.89 MB, 360 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

ĐÀO LÊ NA

LÝ THUYẾT CẢI BIÊN HỌC: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN
TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH –
TRƯỜNG HỢP KUROSAWA AKIRA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------ĐÀO LÊ NA

LÝ THUYẾT CẢI BIÊN HỌC: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN
TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH –
TRƯỜNG HỢP KUROSAWA AKIRA
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62.22.32.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. NGUYỄN NAM
2. PGS. TS TRẦN THỊ PHƯƠNG PHƯƠNG
Phản biện:


1. PGS. TS. TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
2. TS. LÂM QUANG VINH
3. PGS. TS. PHAN THỊ THU HIỀN
Phản biện độc lập:
1. PGS. TS. TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
2. PGS. TS. TRẦN NHO THÌN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Luận án tiến sĩ ngữ văn của tôi mang tên: Lý thuyết cải biên học: từ tác
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh – Trường hợp Kurosawa Akira.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, chưa từng
được công bố ở một công trình khoa học khác.
Nếu không trung thực, tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn.

TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 09 năm 2015
Người thực hiện

Đào Lê Na


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Nam, cô Trần Thị Phương
Phương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận
án.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Luân Kim, cô Phan Thị Thu Hiền,
cô Phan Thị Bích Hà, cô Trần Lê Hoa Tranh, cô Trần Yến Chi, cô Nguyễn Vũ

Quỳnh Như, thầy Lê Giang đã nhiệt tình góp ý cho luận án để em có thể chỉnh
sửa một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trương Đăng Dung, thầy
Trần Nho Thìn đã cho em những đề xuất để có thể đi sâu hơn nữa vào một số lý
thuyết đề cập trong luận án. Em xin chân thành cảm ơn thầy Lâm Quang Vinh,
cô Phan Bích Thủy, cô Nguyễn Thị Thanh Xuân vì những nhận xét và góp ý của
quý thầy cô cho luận án của em.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Văn Nam Sơn vì đã tận tình hiệu
đính bài dịch liên quan tới luận án của em đồng thời truyền cho em nhiều cảm
hứng để em tiếp tục đi trên con đường nghiên cứu và giảng dạy mà em đã chọn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Phan Nhật Chiêu vì đã cho em những gợi ý về
một số thuật ngữ trong quá trình em chỉnh sửa luận án.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô khoa Văn học và
Ngôn ngữ, phòng Sau Đại học, các anh chị đồng nghiệp và những người bạn
thân thiết đã giúp đỡ em suốt thời gian qua. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn
thầy Huỳnh Như Phương, thầy Phan Xuân Viện, cô Hà Thị Minh Thu, anh Phan
Mạnh Hùng, chị Nguyễn Thị Mỹ Diễm, chị Nguyễn Ngọc Bảo Trâm, chị
Nguyễn Thị Tâm, em Võ Thị Mỹ Hạnh, em Dương Thị My Sa, em Trần
Phượng Linh và Minh Hiếu đã động viên, chia sẻ và giúp đỡ em rất nhiều để
hoàn tất các thủ tục liên quan đến hồ sơ bảo vệ luận án.
Cuối cùng, con xin gửi lời cảm ơn ba mẹ và anh hai, những người luôn
yêu thương, cổ vũ và tạo điều kiện tốt nhất để con có thể chuyên tâm hoàn thành
luận án.
TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 09 năm 2015
Người thực hiện

Đào Lê Na


1


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 2
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 4
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 16
4.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 17
5.Đóng góp của luận án ............................................................................................. 18
6.Cấu trúc của luận án................................................................................................ 19
CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT CẢI BIÊN HAY LÀ SỰ PHỨC HỢP CỦA CÁC LÝ
THUYẾT ............................................................................................................................ 21
1.1.Liên văn bản – tính xuyên thấm của văn bản ........................................................ 22
1.2.Phiên dịch học – tương đương trong khác biệt ..................................................... 36
1.3.Văn hóa học - diễn ngôn và định luận .................................................................. 49
1.4.Giải kiến tạo - những văn bản vô hình ................................................................. 60
CHƯƠNG 2 CẢI BIÊN HỌC – MỘT GÓC NHÌN MỚI TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN
ẢNH .......................................................................................................................... 73
2.1.Văn học và điện ảnh – hành trình chung và riêng ................................................. 73
2.2.Từ tác giả văn học đến tác giả điện ảnh – Tri âm và sáng tạo ............................... 86
2.3.Tác phẩm văn chương và tính cải biên khả thi ................................................... 100
2.4. Tác phẩm cải biên như là sự hồi đáp của người đọc/ người xem........................ 112
CHƯƠNG 3 KUROSAWA AKIRA – NHÀ LÀM PHIM VĨ ĐẠI VÀ NHÀ CẢI
BIÊN BẬC THẦY ................................................................................................... 124
3.1. Kurosawa Akira - Tác giả điện ảnh bậc thầy .................................................... 124
3.2. Những tác phẩm điện ảnh cải biên của Kurosawa – nghiên cứu trường hợp ...... 136
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 195
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 199
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 212


2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, những bộ phim cải biên từ tác phẩm văn học vẫn liên tục được trình
chiếu với những cấu trúc tự sự mới lạ, những kỹ xảo chất lượng cao và sự sáng tạo
không ngừng của đạo diễn. Phim cải biên luôn chứng tỏ được sức hút của nó trong
lòng những khán giả say văn chương mê điện ảnh. Vì vậy, dù có nhiều ý kiến khen
chê, dù bị đánh giá là trung thành hay không trung thành với tác phẩm văn chương thì
phim cải biên vẫn tiếp tục dòng chảy của nó để cho hành trình liên văn bản không bị
gián đoạn khi đi qua những loại hình nghệ thuật khác nhau và đến với từng đối tượng
tiếp nhận khác nhau.
Mặc dù phim cải biên đã tự mình chinh phục được những đỉnh cao trong nghệ
thuật điện ảnh nhưng cơ sở lý luận, các lý thuyết cải biên từ văn học đến điện ảnh vẫn
chưa nhất quán và còn nhiều tranh luận. Tại Việt Nam, tài liệu nghiên cứu về lý thuyết
cải biên một cách có hệ thống và chuyên biệt hầu như vắng bóng. Những vấn đề cải
biên học chỉ được đưa ra xen kẽ trong các công trình nghiên cứu tác phẩm cải biên cụ
thể hoặc trong một số bài báo khoa học và bài tham luận tại các hội thảo. Trong khi
đó, các tài liệu về cải biên học ở nước ngoài được dịch và giới thiệu trong nước với
một mức độ khan hiếm. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu văn học cũng như
nghiên cứu nghệ thuật đều xem vấn đề cải biên là một phương pháp thuần túy chứ
không phải một lý thuyết nghiên cứu. Do đó, khi nghiên cứu việc cải biên một tác
phẩm văn học sang một loại hình khác, nhất là điện ảnh, đa số các nhà nghiên cứu đều
dùng phương pháp so sánh để cho thấy sự giống và khác nhau của tác phẩm cải biên
và tác phẩm nguồn, tranh luận về tính trung thành với nguyên tác, từ đó bình giá tác
phẩm cải biên chứ ít nhìn nhận về tính độc lập tương đối của tác phẩm cải biên hay
thế mạnh của từng tác phẩm trong loại hình của nó.
Các bài báo, các bài điểm phim gần đây cũng chỉ nhìn vào các bộ phim cải biên
ở góc độ trung thành hay biến đổi so với văn bản nguồn chứ không thấy được những
sự dịch chuyển ký hiệu từ loại hình này sang loại hình khác, sự thay đổi bối cảnh từ
tác phẩm cải biên này đến tác phẩm cải biên khác và sự tiếp nhận của tác giả điện ảnh
với tư cách là một độc giả. Một vấn đề nữa là đối với tác phẩm văn học có nhiều tác



3

phẩm điện ảnh cải biên thì người nghiên cứu chỉ lựa chọn duy nhất một tác phẩm mà
không có sự so sánh đối chiếu để tìm hiểu xem các tác phẩm điện ảnh cải biên đó có
sự tương quan với nhau như thế nào và bản nào được xem là cải biên, bản nào được
xem là làm lại từ tác phẩm cải biên đó.
Ngày nay, trong bối cảnh mới của thế giới, cải biên học (adaptation studies) đã
có những sự phát triển trên cơ sở lý luận liên văn bản, phiên dịch học, giải cấu trúc,
văn hóa học. Nhờ những lý thuyết này cộng với sự phát triển mạnh mẽ của điện ảnh,
cải biên học từ văn học đến điện ảnh đã được khảo nghiệm và hệ thống hóa thành lý
thuyết. Lý thuyết cải biên giúp các nhà nghiên cứu có được cái nhìn đúng và thận
trọng hơn khi đánh giá tác phẩm cải biên đồng thời giúp cho những người làm phim
có những lựa chọn thích hợp khi muốn cải biên một tác phẩm văn học nào đó. Trong
điện ảnh, có rất nhiều tác phẩm cải biên thành công và để lại nhiều ấn tượng tốt cho
khán giả như: “Bố Già” (The Godfather) , “Nhà tù Shawshank” (The Shawshank
Redemption), “Forrest Gump”, “Hồ sơ điệp viên Bourne” (The Bourne Identity),
“Cuốn theo chiều gió” (Gone with the Wind), “Bệnh nhân người Anh” (The English
Patient)... Và cũng có những tác giả điện ảnh nổi tiếng nhờ vào việc cải biên tác phẩm
văn học như: Hitchcock, Kurosawa Akira, Stanley Kubrich. Tuy nhiên, chuyên luận
về những “tác giả điện ảnh” cũng như thành tựu cải biên của họ đến nay vẫn chưa
được chú ý nhiều.
Khi nghiên cứu lý thuyết cải biên học, chúng tôi muốn thông qua trường hợp
Kurosawa khảo nghiệm lại những vấn đề quan yếu của cải biên ví như vai trò của văn
bản nguồn trong cải biên, nghịch lý của tính trung thành trong cải biên hay mối quan
hệ giữa tác giả và đạo diễn trong cải biên, tác động của chủ nghĩa hậu hiện đại đến
việc cải biên. Trong lịch sử điện ảnh thế giới, đạo diễn trứ danh Nhật Bản Kurosawa
Akira được xem là bậc thầy của những tác phẩm điện ảnh cải biên. Do vậy, khảo sát
các tác phẩm cải biên của ông bằng lý thuyết cải biên hứa hẹn sẽ đem đến một cái

nhìn mới về sự sáng tạo của Kurosawa nói riêng, và làm phong phú thêm cho lý luận
cải biên nói chung. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm đến cách thức chuyển thể
của Kurosawa Akira trong điện ảnh thế giới và những yếu tố giúp ông thành công
trong việc cải biên tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh.


4

Cuộc tiếp xúc đầu tiên của người viết với đạo diễn Kurosawa Akira là những
tháng ngày học ở Dự án điện ảnh K6 năm 2010-2011 tại Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội. Từ ám ảnh ban đầu về “Những giấc mơ” trong tập phim ngắn
“Dreams” của ông, người viết đã tìm về nhiều bộ phim khác nhau thuộc nhiều giai
đoạn khác nhau của đạo diễn và nhận thấy ở Kurosawa Akira có một dạng ngôn ngữ
điện ảnh hấp dẫn kỳ lạ, mời gọi khán giả tìm hiểu, khai phá. Mặt khác, hầu hết các bộ
phim của ông sử dụng chất liệu văn chương nhưng giữa tác phẩm văn chương làm
chất liệu và phim Kurosawa luôn có một cuộc đối thoại ngầm mang tính tri âm và
sáng tạo của đạo diễn với nhà văn. Kurosawa cải biên rất nhiều các thể loại văn học
như: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản văn học. Sự thành công của phim Kurosawa
đôi lúc làm khán giả lãng quên chất liệu có trước bởi cuộc chuyển vị ngoạn mục từ
văn học sang điện ảnh. Do đó, có thể xem Kurosawa là một trong những trường hợp
tiêu biểu nhất để đặt vào cải biên học trong bối cảnh hậu hiện đại. Từ những lý do đã
nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: Lý thuyết cải biên học: từ tác phẩm
văn học đến tác phẩm điện ảnh – Trường hợp Kurosawa Akira.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1.

Lý thuyết cải biên từ văn học đến điện ảnh

Vấn đề cải biên học từ văn học đến điện ảnh vốn đã được xem xét từ rất lâu
trong lịch sử điện ảnh thế giới, tiêu biểu nhất là công trình Tiểu thuyết đi vào phim

(Novels into Film) của George Bluestone do Berkeley: University of California ấn
hành năm 1957. Trong công trình này, tác giả đã dành phần lớn dung lượng để bàn
đến mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh và chỉ ra sự vô lý trong các nghiên cứu tác
phẩm điện ảnh cải biên bằng cách so sánh tác phẩm cải biên với tác phẩm văn chương
có trước để kết luận sự hay dở và để đánh giá về tính trung thành. Cách so sánh này rõ
ràng là phản khoa học bởi văn học và điện ảnh thuộc hai loại hình nghệ thuật khác
nhau. Mặc dù đưa ra những lập luận có lý như vậy từ cách đây nửa thế kỷ nhưng quan
điểm của George Bluestone vẫn không được phổ biến rộng rãi và các nghiên cứu tác
phẩm điện ảnh cải biên vẫn sa đà vào sự so sánh, đánh giá.
Từ sau công trình của George Bluestone, các bài báo và nghiên cứu về mối quan
hệ giữa văn học và điện ảnh và các tác phẩm điện ảnh cải biên lại tiếp tục được giới
nghiên cứu, phê bình quan tâm. Năm 1965, các tác giả Alexander Kluge, Edgar Reitz


5

và Wilfried Reinke đã cùng nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
trong bài báo “Từ và phim” (Word and Film). Bài báo này tập trung giải quyết vấn đề
của từ và phim bằng cách “so sánh phim và văn học với tư cách là những phương thức
biểu hiện” và từ đó rút ra thế mạnh của mỗi loại hình. Bên cạnh đó, bài báo còn đề cập
đến thoại phim, lời bình thuyết minh, sự tự do của ngôn ngữ và phân tích bộ phim
“Công dân Kane” (Citizen Kane) (1941) của Orson Wells để làm ví dụ minh họa cho
ngôn ngữ điện ảnh. Bela Balazs trong công trình Lý thuyết phim: nhân vật và sự phát
triển của một loại nghệ thuật mới (Theory of Film: Character and Growth of a New
Art) viết năm 1970 đã nhấn mạnh vào kịch bản điện ảnh, xem kịch bản điện ảnh cũng
giống như một tác phẩm văn học. Để làm sáng tỏ điều này, tác giả đã so sánh kịch bản
phim và kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tiểu thuyết để nhận thấy những đặc
trưng riêng biệt của kịch bản phim và tính văn chương của nó.
Năm 1981, lịch sử nghiên cứu cải biên đã bắt đầu có sự khởi sắc khi Dudley
Andrew đi sâu nghiên cứu bản thân tác phẩm cải biên và tiến trình cải biên trong công

trình Những khái niệm trong lý thuyết phim (Concepts in Film theory). Công trình này
đặt cải biên từ góc nhìn xã hội lẫn mỹ học chứ không chỉ dừng lại ở các nghiên cứu về
quan hệ giữa văn học và điện ảnh. Tác giả bắt đầu việc nghiên cứu cải biên từ nguồn
gốc phim, các nguồn vay mượn, tương giao và chuyển đổi, xã hội học và mỹ học của
cải biên.
Năm 1992, nhà biên kịch Linda Seger viết cuốn Nghệ thuật của cải biên: chuyển
sự thật và tiểu thuyết vào phim (The Art of Adaptation: Turning Fact and Fiction into
Film) để hướng dẫn cách cải biên một tác phẩm văn chương thành phim. Cuốn sách
này tuy không đề cập đến nghiên cứu cải biên nhưng những chỉ dẫn của nó cho thấy
khả năng cải biên của tác phẩm văn chương thông qua phân tích nhân vật, chủ đề,
phong cách.
Đến những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, cải biên học được xem xét một
cách có hệ thống hơn. Năm 2000, William K. Ferrell, trong tác phẩm Văn học và phim
như thần thoại hiện đại (Literature and Film as Modern Mythology) đã xem xét cách
đọc tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh dựa trên niềm tin của người đọc và người
xem bằng cách dung hòa giữa yếu tố thực và hư cấu thông qua việc nghiên cứu các tác
phẩm điện ảnh của hơn 50 năm trước, những tác phẩm có liên quan đến các thần thoại


6

Judeo-Christian, Greek, Celtic và nguồn gốc phương Đông. Từ nghiên cứu này, vấn
đề trải nghiệm văn hóa và sự chuyển vị văn hóa được bộc lộ rõ nét dần.
Năm 2003, Thomas M. Leitch đã viết về mười hai sai lầm trong lý thuyết cải
biên đương đại trong bài báo “12 sai lầm trong lý thuyết cải biên đương đại” (Twelve
Fallacies in Contemporary Adaptation Theory) Tạp chí Phê bình (Critique), số 45:2,
Xuân 2003, trang 149 đến 171. Đây là bài báo vừa có tính chất tổng kết của Thomas
về cải biên học vừa mang tính phê phán những quan điểm sai lầm theo đánh giá và
phân tích của tác giả. Những quan điểm sai lầm mà Thomas M. Leitch nêu ra là: vấn
đề lý luận cải biên đương đại; khác biệt giữa văn chương và điện ảnh là thuộc tính

truyền thông; văn chương là ngôn từ, điện ảnh là hình ảnh; tiểu thuyết hay hơn phim;
tiểu thuyết xử lý khái niệm, phim xử lý cảm thức; tiểu thuyết xây dựng nhân vật phức
tạp hơn; cụ thể hóa của điện ảnh phá hỏng tưởng tượng người xem; trung thành với
nguyên tác là tiêu chuẩn thích hợp để phân tích tác phẩm cải biên; văn bản gốc độc
đáo hơn tác phẩm cải biên; tác phẩm cải biên cải biên chính xác trọn một văn bản; tác
phẩm cải biên là liên văn bản, tác phẩm có trước là văn bản; nghiên cứu cải biên là
công việc ngoại vi. Cùng thời điểm, công trình Làm thế nào để cải biên cái gì đó
thành kịch bản phim (How to Adapt Anything Into a Screenplay) của Richard
Krevolin chia sẻ kinh nghiệm cải biên nhiều loại hình khác nhau như tiểu thuyết,
truyện ngắn, báo chí, thơ ca thành điện ảnh thông qua tiến trình bảy bước.
Năm 2005, Mireia chủ biên một tập sách về điện ảnh viết về cải biên, liên văn
bản, nguồn tác giả là Sách trong sự chuyển dịch: cải biên, liên văn bản, tác quyền
(Books in Motion: Adaptation, Intertextuality, Authorship). Công trình này đề cập đến
lĩnh vực phức hợp chồng đắp của cải biên học. Đó là nghịch lý của tính trung thành,
tác giả văn học và tác giả điện ảnh, quan hệ giữa ngữ cảnh văn bản và liên văn bản cải
biên và các vấn đề của hậu hiện đại, căn tính bản thể, và chủ nghĩa nữ quyền. Trong
khi đó, Stephanie Harrison với công trình Cải biên: từ truyện ngắn tới màn ảnh rộng:
35 truyện ngắn vĩ đại truyền cảm hứng cho những bộ phim vĩ đại (Adaptations: From
Short Story to Big Screen: 35 Great Stories That Have Inspired Great Films), đã tập
trung sự chú ý vào loại hình truyện ngắn bằng cách phân tích những bộ phim nổi tiếng
được cải biên từ truyện ngắn như: “Memento”, “Tất cả về Eve” (All About Eve),


7

“Cửa sổ phía sau” (Rear Window), “La Sinh môn” (Rashomon), và “2001: A Space
Odyssey”.
Một năm sau đó, tác giả Julie Sanders viết Cải biên và chiếm dụng (Adaptation
and Appropriation) nghiên cứu về sự phức tạp của cái gọi là cải biên và chiếm đoạt
thông qua một loạt định nghĩa và những ví dụ thực tiễn. Tác giả đã đặt nghiên cứu cải

biên trong sự phức hợp của một loạt lý thuyết như: cấu trúc luận, hậu cấu trúc luận,
hậu thực dân, hậu hiện đại, nữ quyền luận và nghiên cứu giới tính. Năm 2006 là năm
khởi sắc của lý thuyết cải biên khi Linda Hutcheon cho ra đời một công trình quan
trọng khác của cải biên học là Một lý thuyết cải biên (A Theory of Adaptation). Đây là
một công trình nghiên cứu về cải biên từ góc độ lý thuyết với cách viết khá lôi cuốn.
Người viết tập trung nghiên cứu lý thuyết cải biên bằng cách đặt ra những câu hỏi
như: cái gì, ai, tại sao, thế nào, khi nào, ở đâu. Trả lời những câu hỏi này sẽ làm sáng
tỏ được những hình thức cải biên, người cải biên, khán giả và bối cảnh cải biên.
Năm 2007, James M. Welsh và Peter Lev biên tập một công trình về cải biên với
tên gọi Người đọc văn học/ điện ảnh – Những vấn đề của cải biên (The
Literature/Film Reader Issues of Adaptation). Công trình này gồm năm phần, tập hợp
nhiều bài tiểu luận khác nhau về vấn đề cải biên và những trường hợp cụ thể. Phần
một là những bài viết mang tính bút chiến về lý thuyết cải biên. Phần hai là những tác
phẩm văn học cổ điển và đại chúng. Phần ba là vấn đề chính trị và cải biên. Phần bốn
là lịch sử, tiểu sử và hồi ký. Phần năm là những bài viết mang tính dự đoán về tương
lai của cải biên. Trong khi đó, tác giả Christine Geraghty cho xuất bản nghiên cứu
Điện ảnh trọng yếu hiện nay: Những phim cải biên từ văn học và kịch (Now a Major
Motion Picture: Film Adaptations of Literature and Drama) để tập trung những khía
cạnh ít người để ý khi nghiên cứu tác phẩm cải biên là: loại hình, dựng phim, hành
động, âm thanh. Bên cạnh đó, khi truy xuất về tác phẩm gốc, tác giả còn quan tâm đến
những tác phẩm liên văn bản với tác phẩm gốc đó và những ký ức của chúng ta chứ
không chỉ tác phẩm gốc.
Năm 2007, Lawrence Venuti, trong bài viết “Cải biên, Dịch thuật, Phê bình”
(Adaptation, Translation, Critique) đăng trên Tạp chí Văn hóa thị giác (Journal of
Visual Culture), đã sử dụng lý thuyết phiên dịch để trả lại cho tác phẩm cải biên vị trí
xứng đáng của nó. Đồng thời, ông cũng nêu ra vấn đề mà các nhà phê bình tác phẩm


8


cải biên hay mắc phải trong nghiên cứu cải biên là: “dựa trên cách luận thuật về tính
trung thành, bộ phim không được so sánh trực tiếp với các văn bản văn chương, thay
vào đó được so sánh với một phiên bản qua trung giới của diễn giải có trước”.[188]
Cũng trong năm này, Thomas Leitch lại tiếp tục phát triển quan tâm của mình
thông qua công trình Phim cải biên và những vấn đề của nó (Film Adaptation and Its
Discontents). Nghiên cứu này vượt ra ngoài những khảo sát đối sánh một-đối-một
giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh, mở rộng phạm vi thể loại của văn bản
nguồn, không tự giới hạn trong khuôn khổ văn chương để xem xét truyện tranh, trò
chơi video, truyện đã được chuyển thể thành phim như thế nào.
Năm 2008, Jack Boozer đã viết tác quyền trong cải biên trong công trình Tác
quyền trong phim cải biên (Authorship in Film Adaptation), Austin, TX: University of
Texas Press. Nhà nghiên cứu đã bàn luận rất chi tiết về lý thuyết tác giả có sự chuyển
biến từ thời của Truffaut cho tới hiện đại. Đặc biệt, vai trò của biên kịch, người trực
tiếp cải biên tác phẩm văn chương được nhà nghiên cứu đề cao và nâng lên ngang
hàng với đạo diễn.
Một năm sau đó, Rachel Carroll viết cuốn Cải biên trong văn hóa đương đại:
tính không trung thành văn bản (Adaptation in Contemporary Culture: Textual
Infidelities) để nghiên cứu những bộ phim cải biên từ các tác phẩm văn học kinh điển
lẫn hiện đại ở Anh, Mỹ như: Jane Austen, Edgar Allen Poe and Charles Dickens to
Bret Easton Ellis, P.D James, Sarah Waters. Thông qua việc nghiên cứu này, tác giả
khám phá ra cách nhìn mới về cải biên trong việc cấu trúc loại hình, tiêu chuẩn. Các
nghiên cứu của tác giả vừa đi theo chiều rộng lẫn chiều sâu với hướng nghiên cứu
chính về tính trung thành, liên văn bản, tính lịch sử và tác quyền và mở rộng ra các
loại hình như phim làm lại, trò chơi video, phim đời tư…
Năm 2010 xuất hiện một công trình nghiên cứu xem cải biên học là một khoa
học độc lập, đó là công trình Cải biên học (Adaptation Studies) của Christa AlbrechtCrane, Dennis Ray Cutchins. Công trình này mở rộng không chỉ phạm vi của văn bản
nguồn, mà cả các hình thức đa dạng của tác phẩm cải biên, khảo sát trên cơ sở tính
chất hỗ tương, liên văn bản của công trình cải biên, tiến đến kết luận rằng các văn bản
là sự tổng hòa từ các phương tiện.



9

Năm 2012, Deborah Cartmell biên tập công trình Văn học, Điện ảnh và Cải biên
(Literature, Film, and Adaptation), Malden, MA: Wiley-Blackwell, trong đó đáng chú
ý có bài viết của Thomas Leitch về “Cải biên và Liên văn bản, hay, Cái gì không phải
là cải biên và Cái gì là vấn đề?” (Adaptation and Intertextuality, or, What Isn’t an
Adaptation, and What Does It Matter?) ở trang 87 đến 105. Trong bài viết này, Leitch
xem xét cải biên là bộ phận của liên văn bản. Ông viết: “tôi bắt đầu bài viết này với cơ
sở cho rằng cải biên là một bộ phận liên văn bản. Tất cả cải biên rõ ràng đều là liên
văn bản, không có nghĩa là tất cả liên văn bản đều là cải biên. Qua bài này, tôi sẽ đưa
ra chín điều khoản khác nhau nhằm cung cấp cho bạn đọc những tiêu chí gợi ý, dùng
những tiêu chí này để nhận thức những vấn đề của cải biên và mỗi tiêu chí đó có giá
trị để đóng góp vào diễn ngôn về cải biên. Khi chúng ta xem xét tất cả điều khoản này
chung với nhau thì việc xem xét đó giúp chúng ta làm sáng tỏ hơn từng khoản một.”
[121]. Chín điều khoản khác nhau để giúp người đọc nhận thức về cải biên như: mối
quan hệ song phương giữa một bên là tác phẩm điện ảnh và một bên là những loại
hình khác, cải biên mang tính liên truyền thông, cải biên là đối tả, cải biên là xuyên
văn bản, cải biên là ví dụ tinh túy của thực hành liên văn bản, cải biên là bản dịch, cải
biên là ký hiệu…
Trong công trình này, Diane Lake cũng có bài viết về “Cải biên cái không thể
cải biên theo quan điểm của biên kịch” (“Adapting the Unadaptable – The
Screenwriter’s Perspective”) ở trang 408 đến 415. Bà đưa ra những luận điểm sắc bén
để giúp biên kịch cởi bỏ những vướng mắc, ràng buộc khi cải biên một tác phẩm văn
chương. Bà viết: “Đối với người biên kịch, điều quan trọng phải hiểu rằng, mỗi cái
diễn giải một cảnh ở trong sách mà người ta có thể tưởng tượng ra được không phải là
bản thân cuốn sách đó. Sách: kể một câu chuyện, phim: dựa trên cuốn sách để kể một
câu chuyện. Hai câu chuyện này không phải là một, hai câu chuyện khác nhau. Đây
chính là công việc của người biên tập khi đưa quyển sách đó đến cuộc sống và trình
hiện nó lên màn ảnh. Mỗi hành động kể câu chuyện của cuốn sách cũng sẽ là một sự

thay đổi đối với quyển sách. Phim không kể như là sách, phim luôn luôn có sự thay
đổi. Sự trung thành với sách là không bao giờ có.” [121] Bà nhấn mạnh thêm, với
công nghệ làm phim hiện đại, không có bất kỳ tác phẩm nào không thể cải biên bởi
bản chất cải biên là sáng tạo, người biên kịch chỉ cần tìm ra hồn cốt của tác phẩm văn


10

chương mà mình cải biên là được. Và bà đã đưa ra những chỉ dẫn rất rõ ràng để các
nhà viết kịch bản cải biên có thể học hỏi.
Cũng trong năm này, các tác giả Colin Maccabe, Rick Warner, Kathleen Murray
biên tập tập sách Sự thật tới tinh thần: phim cải biên và những vấn đề về sự trung
thành (True to the Spirit: Film Adaptation and the Question of Fidelity) tập hợp rất
nhiều bài viết của các tác giả khác nhau bàn về cải biên như: khía cạnh kinh tế của cải
biên, sự chiếm dụng văn chương và phiên dịch trong điện ảnh thời kỳ đầu, cải biên
mang tính tác giả của Max Ophuls, tính trung thành và loại hình trong “Sự sáng ngời”
(The Shining) của Stanley Kubrick.
Năm 2013, một nhóm tác giả khác là Jorgen Bruhn, Anne Gjelsvik, Eirik
Frisvold Hanssen cũng tập hợp những bài nghiên cứu mới về cải biên với hai phần rõ
ràng in trong cuốn Cải biên học: những thách thức mới (Adaptation Studies: New
Challenges). Phần một là suy nghĩ lại về cải biên bằng những câu hỏi then chốt. Trong
phần này, có những bài viết đáng chú ý như: cải biên lý thuyết hóa và những lý thuyết
cải biên, cải biên bên trong phạm vi biến đổi đa phương tiện, điện ảnh muốn gì…Phần
hai là những trường hợp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ lý thuyết.
Năm 2013, Dự án điện ảnh Quỹ Ford tại trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội đã cho dịch công trình Điện ảnh và văn học nghiên cứu về mối quan
hệ giữa văn học và điện ảnh của Timothy Corrigan. Công trình này đã giới thiệu và
phân tích khá sâu sắc mối quan hệ giữa điện ảnh và văn học trong những tư tưởng đối
lập của lịch sử. Vấn đề cải biên cũng được tác giả nhìn nhận bằng quan điểm rõ ràng.
Tác giả viết: “Cải biên là một trong những hoạt động điển hình trong sự giao lưu văn

học và điện ảnh, mô tả sự chuyển hóa tiểu thuyết, kịch cùng những nguồn văn học
khác của phim. Dù thuật ngữ này đôi khi chỉ dấu tới một hoạt động sao chép hay kém
sáng tạo, thì ta cũng cần nhớ là ngay cả những tác phẩm điện ảnh và văn học nguyên
bản nhất cũng có thể được coi là chuyển thể những tư liệu từ nguồn này hay nguồn
khác”. [95, tr.29] Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất của công trình này chính là sự tập hợp
và giới thiệu các quan điểm lịch sử về cải biên, trong đó có những bài viết nổi bật
như: “Các giới hạn của tiểu thuyết và các giới hạn của phim” của George Bluestone
[95, tr.268-291], “Từ ngữ và phim” của Alexander Kluge, Edgar Reitz và Wilfried


11

Reinke [95, tr.316-337], “Chuyển thể” của Dudley Andrew [95, tr.365-380], “Độc giả
và Khán giả” của Judith Mayne [95, tr.381-398]…
Vấn đề cải biên được công bố trên các tạp chí đầu thế kỷ XXI cũng diễn ra khá
sôi nổi với các bài viết của các học giả ở rất nhiều quốc gia khác nhau như: Sue
Clayton (2007) với bài viết “Những yếu tố biểu diễn và thị giác trong điện ảnh cải
biên: một quan điểm của nhà làm phim” (Visual and performative elements in screen
adaptation: A film-maker's perspective) đăng trên tạp chí Media Practice nghiên cứu
diễn xuất và hiệu ứng hình ảnh trên phim. Năm 2011, học giả Mary H. Snyder nghiên
cứu mối quan hệ từ văn học đến điện ảnh thông qua bài báo “Phân tích văn học thành
phim cải biên: sự thăm dò và hướng dẫn của tiểu thuyết gia” (Analyzing Literature-toFilm Adaptations: A Novelist's Exploration and Guide). Năm 2012, nhà nghiên cứu
châu Á Leo Chan đề cập đến một quy tắc mới trong cải biên học liên quan đến phiên
dịch và văn hóa thông qua bài viết “Khảo sát quy luật mới của cải biên học: giữa
phiên dịch và tương tác văn hóa học, những quan điểm: Nghiên cứu trong phiên dịch
học” (A survey of the ‘new’ discipline of adaptation studies: between translation and
interculturalism, Perspectives: Studies in Translatology), Lauro Maia Amorim (2014)
là học giả người Brazil nghiên cứu về mối quan hệ giữa phiên dịch và cải biên qua bài
viết “Dịch và cải biên trong sân khấu và điện ảnh, người dịch” (Translation and
adaptation in theatre and film, The Translator).

Ở trong nước, vấn đề cải biên hay chuyển thể bắt đầu được tìm thấy trong các
luận văn sau đại học và các khóa luận đại học. Năm 2009, Trương Nữ Diệu Linh đã
thực hiện luận văn thạc sĩ: Từ tác phẩm văn học đến phim truyện điện ảnh (Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh). Trong luận văn này, người viết đưa
ra những thuật ngữ điện ảnh, nêu khái quát về mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và
tác phẩm điện ảnh, trình bày những kiến thức chung nhất về chuyển thể.
Năm 2012, học viên cao học Nguyễn Thị Hoa, cũng tiếp tục chú ý đến vấn đề
cải biên [chuyển thể] thông qua nghiên cứu Từ trang viết đến màn bạc: Chuyển thể
điện ảnh và sự hồi đáp của người xem/ người đọc qua một số tác phẩm chuyển văn
học Việt Nam đương đại, (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP. HCM). Luận
văn này khảo sát việc chuyển thể thông qua phương thức so sánh giữa văn học và điện


12

ảnh Việt Nam đồng thời nêu lên những hạn chế của điện ảnh Việt Nam thông qua
những bộ phim chuyển thể.
Năm 2014, nghiên cứu về cải biên tiếp tục được khẳng định thông qua công
trình của TS Phan Bích Thủy: Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh, Nxb Mỹ
thuật, Hội điện ảnh Việt Nam. Đây là nghiên cứu phác thảo một cách tương đối toàn
diện về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh trong phim cải biên, về những tương
đồng và khác biệt giữa văn học và điện ảnh. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày về
những yếu tố cơ bản được chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh,
quy trình sản xuất phim chuyển thể. Đóng góp lớn nhất của nhà nghiên cứu trong
công trình này là khảo sát một loạt những tác phẩm cải biên thành công của điện ảnh
Việt Nam từ trước đến nay.
2.2. Kurosawa Akira
Kurosawa Akira (1910 – 1998) là tác giả điện ảnh lớn trên thế giới. Phong cách
của ông đã ảnh hưởng đến rất nhiều nhà làm phim sau này nên không có gì ngạc nhiên
khi có nhiều nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Năm 1983, Kurosawa kể

lại câu chuyện cuộc đời và hành trình làm phim của mình thông qua tác phẩm Điều gì
đó như một tự truyện (Something Like an Autobiography). Đây là cuốn sách cung cấp
khá nhiều tư liệu hữu ích về quan điểm làm phim của Kurosawa Akira thông qua quá
trình làm phim của ông trên thực tế.
Năm 1987, Christopher Hoile công bố bài báo ““Vua Lear” và “Loạn” của
Kurosawa Akira: phân cắt, song trùng, giãn cách” (“King Lear” and Kurosawa's
“Ran”: Splitting, Doubling, Distancing) trên tạp chí Pacific Coast Philology. Đây là
bài báo nghiên cứu rất cụ thể về hệ thống nhân vật, cốt truyện và tiêu đề của tác phẩm
Shakespeare khi được cải biên thành “Loạn” của Kurosawa Akira. Bài báo phân tích
rất kỹ vấn đề tiếp nhận tác phẩm kịch và sự thêm thắt, chia tách của đạo diễn để làm
sáng tỏ nội dung cải biên của mình.
Năm 1998, Donald Richie viết cuốn Những bộ phim của Akira Kurosawa (The
Films of Akira Kurosawa) giới thiệu một số phim và phương pháp, kỹ thuật, phong
cách của Kurosawa. Đây là cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về những bộ phim của
Kurosawa thể hiện qua góc nhìn điện ảnh.


13

Một năm sau Stephen Prince viết cuốn Ống kính của nhà làm phim lỗi lạc hay là
điện ảnh của Akira Kurosawa (The Warrior's Camera: The Cinema of Akira
Kurosawa) (1999) đề cập đến nhiều vấn đề về quá trình làm phim của Kurosawa,
phương pháp biện chứng trong phong cách và trong đó không thể không nhắc đến
những kinh nghiệm của ông trong việc cải biên những tác phẩm văn học.
Năm 2000, Mitsuhiro Yoshimoto cho ra đời công trình Kurosawa: Nghiên cứu
phim và điện ảnh Nhật Bản (Kurosawa: Film Studies and Japanese Cinema). Đây là
sách nghiên cứu về điện ảnh Nhật Bản bằng cách thông qua khảo cứu trường hợp
Kurosawa Akira để tìm hiểu về văn hóa, chính trị, xã hội Nhật Bản.
Năm 2005, trong một nghiên cứu về Shakespeare mang tên Shakespeare ở Nhật
Bản (Shakespeare in Japan) của Tetsuo Kishi,Graham Bradshaw giới thiệu về sự cải

biên và sự phiên dịch, trong đó mục 6 giới thiệu về Shakespeare và phim Kurosawa
Akira.
Ba năm sau, Bert Cardullo đã cho phát hành cuốn Akira Kurosawa: Những cuộc
phỏng vấn (Akira Kurosawa: Interviews) (2008), giới thiệu về những đạo diễn hàng
đầu Nhật Bản và sau đó là những bài phỏng vấn về Kurosawa Akira để kỷ niệm 10
năm ngày mất của đạo diễn.
Đầu thế kỷ XXI, các nghiên cứu về Kurosawa được chú ý nhiều trên các công bố
khoa học như: năm 2001, nhân vật Kaede trong phim “Loạn” được tác giả Zvika
Serper nhìn lại thông qua những truyền thống về loài vật trong bài viết “Phu nhân
Kaede trong Loạn của Kurosawa: mô tả bằng lời và hình ảnh qua những tín ngưỡng
động vật” (Lady Kaede in Kurosawa's Ran: verbal and visual characterization through
animal traditions), năm 2005, Noriko Reider công bố bài báo “Những giấc mơ của
Kurosawa Akira, khi được nhìn qua những nguyên tắc của văn học và nghệ thuật biểu
diễn Nhật Bản cổ điển” (Akira Kurosawa's Dreams, as seen through the principles of
classical Japanese literature and performing art) nghiên cứu về tập phim ngắn “Những
giấc mơ” qua những nguyên tắc của văn học cổ điển Nhật Bản và nghệ thuật biểu
diễn. Cùng đề cập đến “Dreams” nhưng Carl Pletsch lựa chọn một trường hợp nghiên
cứu cụ thể là phim ngắn “Những con quạ” (Crows) viết về cuộc gặp gỡ giữa
Kurosawa và Vincent Van Gogh qua bài báo “Phản chiếu của Kurosawa Akira trên


14

hành trình trở thành thiên tài” (Akira Kurosawa's Reflection on Becoming a Genius)
đăng trên tạp chí Popular Film and Television.
Thời gian đó, Evelyn Tribble nghiên cứu về việc cải biên tác phẩm Macbeth
thành “Throne of Blood” của Kurosawa thông qua vấn đề âm thanh và nỗi sợ trong
bài báo: ““Khi mỗi tiếng ồn làm tôi kinh sợ”: âm thanh và nỗi sợ trong Macbeth và
“Ngai vàng đẫm máu” của Kurosawa Akira” (When Every Noise Appalls Me”: Sound
and Fear in Macbeth and Akira Kurosawa's Throne of Blood). Rachael Hutchinson

viết về bộ phim “One Wonderful Sunday” trong bài viết “Một ngày chủ nhật tuyệt vời
của Kurosawa Akira: quyền kiểm duyệt, bối cảnh và phim ‘phản định luận’”
(Kurosawa Akira's One Wonderful Sunday: censorship, context and ‘counterdiscursive’ film) năm 2007.
Ba năm sau, Olga V. Solovieva viết về phim “Dersu Uzala” đăng trên Tạp chí
Japanese and Korean Cinema với nội dung “Ngôi mộ bị xóa bỏ của Dersu Uzala”
điện ảnh về ký ức và tang tóc của Kurosawa” (The erased grave of Dersu Uzala:
Kurosawa's cinema of memory and mourning). Cũng vào năm đó, Yuna De Lannoy
tiếp tục bàn đến tác phẩm điện ảnh “The idiot” (Gã khờ) khi công bố bài viết “Thăm
lại Gã khờ của Kurosawa Akira: một sự so sánh với Sergei Eisenstein” (Revisiting
Kurosawa Akira's The Idiot: A comparison with Sergei Eisenstein) trên tạp chí
Japanese and Korean Cinema với sự phân tích khá chi tiết vấn đề cải biên tác phẩm
Gã khờ (Dostoevsky) của Kurosawa thông qua những nội dung như: Dostoevsky trên
phim, Cuộc gặp gỡ của Kurosawa Akira với Dostoevsky, sự diễn giải của Kurosawa
Akira và Eisenstein về Dostoevsky.
Năm 2013, nhà nghiên cứu Mark Thornton Burnett lựa chọn xem xét lại tác
phẩm Hamlet của Shakespeare trong bài báo “Đọc lại Những kẻ xấu ngủ ngon của
Kurosawa Akira, một bộ phim cải biên từ Hamlet: nội dung, thể loại và bối cảnh”
(Re-reading Akira Kurosawa's The Bad Sleep Well, a Japanese film adaptation of
Hamlet: content, genre and context). Thời điểm này, Olga V. Solovieva cũng xem xét
tác phẩm cải biên khác của Kurosawa là phim “The Lower Depths” (Dưới đáy) qua
bài báo “Dưới đáy của Kurosawa Akira: điện ảnh về người ăn mày ở sự phân ly của
thời đại” (Kurosawa Akira's The Lower Depths: Beggar cinema at the disjuncture of
times) đăng trên Tạp chí Japanese and Korean Cinema. Năm này, bộ phim “La Sinh


15

môn” được tác giả Nick Redfern nhìn nhận và bổ sung thêm những cách hiểu mới về
phong cách và truyện kể trong bài viết “Phong cách phim và tự sự trong La Sinh môn”
(Film style and narration in Rashomon), đăng trên tạp chí Japanese and Korean

Cinema.
Mối quan hệ giữa tác giả văn học và tác giả điện ảnh Shakespeare và Kurosawa
lại tiếp tục được các nhà nghiên cứu quan tâm thông qua bài viết “Nốt ruồi, đốm, vết
nhơ, sắc thái màu: những dấu vết tương lai trong Shakespeare and Kurosawa” (Moles,
spots, stains, and tincts: marks of futurity in Shakespeare and Kurosawa) của Simon
Ryle năm 2014.
Ở Nhật Bản, các công trình nghiên cứu về đạo diễn Kurosawa Akira khá nhiều
và mỗi năm thường xuất bản ít nhất một ấn phẩm, đặc biệt là trong những năm gần
đây. Có thể liệt kê một số công trình của một số tác giả tiêu biểu như: Tadao Sato với
công trình Akira Kurosawa của thế giới, năm 1986 (佐藤忠男 『黒澤明の世界』
朝日文庫 1986), Naofumi Higuchi với nghiên cứu Akira Kurosawa giải phẫu điện
ảnh (樋口尚文 『黒澤明の映画術』) viết năm 1999 , Hiromichi với công trình Tiểu
sử Akira Kurosawa (堀川弘通 『評伝黒澤明』) viết năm 2000 , Kazuko Kurosawa
với công trình Bố, Akira Kurosawa (黒澤和子 『パパ、黒澤明』 ) viết năm 2000 ,
Kazuko

Kurosawa

với

công trình

Nhớ

về

Akira

Kurosawa


(黒澤和子

『回想黒澤明』) viết năm 2004 , Hiroshi Tasogawa với công trình Akira Kurosawa


Hollywood

(田草川弘

『黒澤明vsハリウッド

〈トラ・トラ・トラ!〉

その謎のすべて』) viết năm 2006, Masaaki Tsuzuki với tác phẩm Akira Kurosawa
toàn bộ tác phẩm và cuộc sống (都築政昭 『黒澤明 全作品と全生涯』 ) viết năm
2010.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về Kurosawa chưa nhiều. Năm 2009, học
viên Trần Thị Huyền Trang của Dự án điện ảnh Quỹ Ford đã thực hiện đề tài tốt


16

nghiệp về phim chuyển thể của Kurosawa trên cơ sở phân tích hiệu quả về mặt hình
ảnh của tác phẩm chuyển thể [cải biên]. Năm 2012, sinh viên Phạm Thị Hải Hà lớp Lý
luận Phê bình điện ảnh K28 thực hiện nghiên cứu về Một số đặc điểm trong sáng tác
của đạo diễn Akira Kurosawa. Công trình này nhấn mạnh vào cuộc đời và sự nghiệp
của Kurosawa và hai dòng phim chính là cổ trang và chuyển thể [cải biên].
Cũng trong năm 2012, tạp chí Nghiên cứu văn học đăng tải bài viết của nhà
nghiên cứu Nguyễn Nam về “Sự thực tuyệt đối trong tự sự: Tiếp nhận và cải biên
Rashomon ở Việt Nam”. Mặc dù đây không phải là bài viết nghiên cứu cụ thể tác

phẩm điện ảnh “Rashomon” nhưng là một góc nhìn cho thấy tính liên văn bản của tác
phẩm điện ảnh này và sức ảnh hưởng của phim Kurosawa trong phạm vi toàn cầu và ở
nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau.
Có thể thấy, lý thuyết cải biên hay vấn đề cải biên của Kurosawa đều ít nhiều
được các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước nhắc đến. Đặc biệt, trong những
năm gần đây, cải biên học và Kurosawa được quan tâm nhiều hơn. Lý thuyết cải biên
ngày càng phát triển kéo theo sự phức tạp ở nhiều mức độ và nhiều vấn đề nảy sinh.
Do đó, việc nghiên cứu tác phẩm của Kurosawa Akira dưới góc nhìn cải biên học
cũng đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn. Ở luận án này, chúng tôi cố gắng tái hiện lại toàn bộ
những vấn đề nổi bật nhất của cải biên học trong những năm gần đây và đặt nó trong
bối cảnh hậu hiện đại. Từ đó, chúng tôi chọn nghiên cứu những trường hợp cụ thể của
Kurosawa Akira để làm rõ hơn những vấn đề lý thuyết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài Lý thuyết cải biên học: từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh –
Trường hợp Kurosawa Akira nghiên cứu việc cải biên tác phẩm văn học thành tác
phẩm điện ảnh từ góc độ lý thuyết lẫn trường hợp cụ thể. Do đó, để triển khai công
trình nghiên cứu này, đề tài tập trung vào các đối tượng chính sau: (1) Các lý thuyết
phức hợp của cải biên học (Liên văn bản, Phiên dịch học, Văn hóa học và Giải kiến
tạo); (2) Lý thuyết cải biên học nhìn từ lịch đại; (3) Phim của Kurosawa Akira
Về phạm vi tư liệu, luận án khảo sát các tác phẩm văn chương được cải biên
thành điện ảnh và các tác phẩm điện ảnh cải biên tiêu biểu, cập nhật của Việt Nam lẫn
nước ngoài để làm dẫn chứng cho lý thuyết cải biên.


17

Bên cạnh đó, luận án khảo sát 30 tác phẩm điện ảnh của Kurosawa Akira để tìm
hiểu phong cách, con người điện ảnh Kurosawa nhằm có những căn cứ vững chắc khi
đưa ra những nhận xét, đánh giá các tác phẩm điện ảnh cải biên của ông. Trong 30 tác
phẩm của Kurosawa, người viết tập trung nghiên cứu sâu ba tác phẩm điện ảnh là “La

Sinh môn”, “Gã khờ” và “Loạn”. Đây là ba tác phẩm điện ảnh cải biên ba loại hình
văn học khác nhau: truyện ngắn, kịch bản văn học và tiểu thuyết, từ ba tác giả khác
nhau bao gồm cả Nhật Bản và nước ngoài. Ngoài ra, lựa chọn bộ phim này cũng tiêu
biểu cho thời kỳ phim trắng đen và phim màu của Kurosawa Akira.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về lý thuyết cải biên từ văn học đến điện ảnh và lựa chọn
trường hợp nghiên cứu là đạo diễn Nhật Bản Kurosawa Akira trên cơ sở kế thừa các
lý thuyết nghiên cứu như: liên văn bản, giải kiến tạo, phiên dịch học, văn hóa học và
sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu loại hình và phương pháp hệ thống: nghiên cứu
những đặc trưng của văn học và điện ảnh, sự phát triển của những tác phẩm điện ảnh
cải biên trong lịch sử điện ảnh.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: phương pháp này được sử dụng để soi chiếu
vào những thay đổi của tác phẩm điện ảnh cải biên so với tác phẩm văn học mà nó cải
biên nhằm tìm ra những nguyên nhân, mục đích thay đổi của các nhà làm phim và tìm
ra giá trị nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ điện ảnh.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: đặt các tác phẩm cải biên nói chung và các tác
phẩm của Kurosawa Akira nói riêng trong bối cảnh văn hóa xã hội sẽ thấy được
những tác động của phông văn hóa đến mục đích cải biên, đến sự tiếp nhận tác phẩm
văn chương của các nhà làm phim và những phản ứng của độc giả, khán giả.
- Phương pháp nghiên cứu liên văn bản: phương pháp này cho thấy sự chuyển
dịch ký hiệu của các văn bản khi đi từ văn học đến điện ảnh và khi soi chiếu từ góc
nhìn điện ảnh trở về lại văn học.
- Phương pháp liên ngành: nghiên cứu cải biên phải vận dụng rất nhiều kiến thức
liên ngành của văn chương và điện ảnh để có những diễn giải quan trọng trong việc


18

lựa chọn cải biên của các nhà làm phim cũng như sự đối thoại giữa văn chương và

điện ảnh.
5. Đóng góp của luận án
Thứ nhất, nhìn nhận cải biên học trong sự phức hợp của các lý thuyết: liên văn
bản, giải kiến tạo, văn hóa học và phiên dịch học. Cải biên là một bộ phận của liên
văn bản. Liên văn bản cho thấy sự dịch chuyển các ký hiệu từ văn bản nguồn là tác
phẩm văn học đến văn bản đích là tác phẩm điện ảnh. Ngoài ra, xem xét cải biên từ
góc nhìn liên văn bản sẽ thấy được hành trình xuyên suốt của các văn bản kể cả văn
bản nguồn lẫn văn bản đích bởi tất cả các văn bản đều hấp thụ, biến đổi và trở thành
từ các văn bản khác. Bộ phim cũng chỉ là kết quả của tiến trình liên văn bản, thể hiện
một cách đọc của nhà làm phim và bên trong nó không chỉ có liên văn bản từ tác
phẩm văn học nguồn mà còn rất nhiều văn bản khác thông qua ngôn ngữ, hành động
nhân vật, thông qua diễn xuất của diễn viên cũng như các hiện tượng văn hóa, xã hội.
Từ góc nhìn giải kiến tạo, tác phẩm điện ảnh cải biên sẽ được trả lại vị trí của chính
nó, tức là mối quan hệ thứ bậc của tác phẩm nguồn và tác phẩm phái sinh, văn bản
trước và văn bản sau sẽ bị xóa nhòa, thay vào đó là mối quan hệ đồng đẳng của các
loại hình nghệ thuật, của sân chơi liên văn bản. Từ góc nhìn văn hóa học sẽ cho thấy
hệ tư tưởng mang tính thống trị xã hội tác động đến quan điểm của những nhà làm
phim. Bên cạnh đó, lý thuyết này cũng giúp người nghiên cứu nhìn nhận nguyên nhân,
mục đích và bối cảnh xã hội của cải biên và sẽ kiến giải được tại sao có những bộ
phim cải biên từ cùng một tác phẩm văn chương nhưng lại có sự thay đổi rất lớn. Từ
góc nhìn của phiên dịch học, việc cải biên tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh
được xem là một kiểu dịch liên ký hiệu, do đó tính tương đương cũng được xem xét
trong quá trình nghiên cứu cải biên. Tuy nhiên, tính tương đương này là tính tương
đương giữa cái hồn cốt, cái tinh túy, cái đề tài cốt lõi của tác phẩm văn học so với tác
phẩm cải biên chứ không phải tương đương về những chi tiết, logic về mặt cốt truyện
hay cấu trúc tự sự.
Thứ hai, luận án sử dụng thuật ngữ “cải biên” để dịch thuật ngữ “adaptation”
trong tiếng Anh, định danh những tác phẩm điện ảnh sử dụng chất liệu có trước là văn
học và các loại hình nghệ thuật khác. Đây là cách dùng từ do nhà nghiên cứu Nguyễn
Nam đề xuất ở trang 33 của bài viết: “Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo – Liên văn bản



19

trong văn chương và điện ảnh”, Tạp chí Văn học, số tháng 12.2006. Trước đây, khi
phiên dịch thuật ngữ “adaptation” sang tiếng Việt, các dịch giả dùng từ “chuyển thể”.
Tuy nhiên, đối với động từ “adapt” cũng mang hàm ý như danh từ “adaptation”, các
dịch giả lại dùng từ “mô phỏng”, “dựa theo”, “cải tác”. Do đó, để sử dụng một thuật
ngữ dịch thuật đồng nhất, luận văn sẽ dùng từ “cải biên” với hàm nghĩa lý thuyết, thể
loại lẫn hàm nghĩa phương pháp, thao tác. Ngoài ra, cải biên học không chỉ được ứng
dụng trong các tác phẩm điện ảnh sử dụng chất liệu văn học mà còn ứng dụng nghiên
cứu các tác phẩm sân khấu “biến đoạn” và thậm chí là trong cùng một loại hình nghệ
thuật như các tác phẩm văn học Việt Nam cải biên từ các tác phẩm văn học nước
ngoài. Vì vậy, nếu dịch là “chuyển thể” sẽ không phù hợp khi mở rộng phạm vi
nghiên cứu. Cũng trong luận án này, lần đầu tiên, lý thuyết cải biên được giới thiệu và
đề cập một cách toàn diện từ mối quan hệ của văn học và điện ảnh, từ tác giả cải biên,
tác phẩm cải biên và người đọc, người xem. Bên cạnh đó, những bài nghiên cứu mới
về lý thuyết cải biên cũng được giới thiệu một cách có hệ thống trong luận án.
Thứ ba, luận án này nghiên cứu về Kurosawa Akira bằng lý thuyết cải biên một
cách triệt để thông qua những loại hình tiêu biểu được cải biên là: truyện ngắn, tiểu
thuyết và kịch bản văn học. Ở Việt Nam, có ít nhất hai công trình nghiên cứu về
Kurosawa Akira ở bậc đại học và sau đại học nhưng là nghiên cứu về sự nghiệp của
Kurosawa Akira một cách chung chung chứ không đi sâu vào cải biên học. Như vậy,
với những vấn đề được nêu lên ở trên, chúng tôi tin rằng, luận án sẽ đóng góp một
cách nhìn nhận mới đối với việc nghiên cứu các tác phẩm điện ảnh cải biên, giúp các
tác phẩm cải biên được quan tâm một cách xác đáng chính từ bản thân nó chứ không
phải từ sự giống nhau và khác nhau so với tác phẩm văn học. Đồng thời, luận án này
hy vọng cũng sẽ giúp các nhà biên kịch có thể có những phương pháp phù hợp trong
việc cải biên những tác phẩm văn học thành điện ảnh và giúp các nhà làm phim có thể
học tập được phương thức cải biên của đạo diễn bậc thầy Nhật Bản Kurosawa Akira

thông qua các nghiên cứu cụ thể.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án Lý thuyết cải biên học: Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh –
trường hợp Kurosawa Akira gồm có 198 trang, ngoài phần Mở đầu (20 trang), Kết
luận (4 trang), Tài liệu tham khảo ( 194 đề mục), được chia thành ba chương:


20

- Chương 1: Lý thuyết cải biên hay là sự phức hợp của các lý thuyết (52 trang):
trình bày khái quát các lý thuyết có tác động trực tiếp đến cải biên học như: liên văn
bản, phiên dịch học, văn hóa học và giải kiến tạo.
- Chương 2: Cải biên học – một góc nhìn mới từ văn học đến điện ảnh (51
trang): trình bày mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, sự thay đổi quan niệm về văn
học và điện ảnh theo lịch đại, mối quan hệ giữa tác giả văn học và tác giả điện ảnh,
khả năng cải biên của tác phẩm văn chương và sự tiếp nhận của độc giả, khán giả.
- Chương 3: Kurosawa Akira – nhà làm phim vĩ đại và nhà cải biên bậc thầy (71
trang): trình bày cuộc đời và con người điện ảnh Kurosawa Akira. Từ đó, luận án vận
dụng lý thuyết cải biên học và các phương pháp nghiên cứu cụ thể để nghiên cứu ba
trường hợp cải biên tiêu biểu của Kurosawa Akira là: phim “La Sinh môn”
(Rashomon), phim “Gã khờ” (Hakuchi) và phim “Loạn” (Ran).


21

CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CẢI BIÊN HAY LÀ SỰ PHỨC HỢP
CỦA CÁC LÝ THUYẾT
Ngày 22 tháng 3 năm 1895, anh em nhà Lumiere đã công chiếu thước phim
đầu tiên với tốc độ 16 hình/ giây tại “Hội khuyến khích công ngiệp quốc gia”, Paris.

Bộ phim với tên gọi “Workers Leaving the Factory” ghi lại hình ảnh chân thực của
những người công nhân tan ca từ một nhà máy. Ngày 28 tháng 12 năm 1985, tại quán
cà phê Grand, Paris đã diễn ra buổi chiếu phim có thu tiền đầu tiên. Với giá một đồng
franc, khán giả sẽ được xem trọn mười phim ngắn của anh em nhà Lumiere với độ dài
khoảng một phút mỗi phim. [11,tr.42]Buổi trình chiếu này được xem là buổi trình
chiếu nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh bởi nó đánh dấu mốc cho sự ra đời của điện
ảnh thế giới. Kể từ đó đến nay, điện ảnh thế giới đã có những bước tiến vượt bậc về
kỹ thuật lẫn nghệ thuật và nhanh chóng trở thành một loại hình nghệ thuật được đông
đảo công chúng yêu thích. Nhiều trường phái điện ảnh ra đời và sự phát triển phức tạp
của điện ảnh thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, các triết gia và các lý thuyết
gia nghệ thuật. Hai vấn đề nổi bật nhất được các nhà nghiên cứu quan tâm chính là
những suy ngẫm mang tính triết học về bản chất điện ảnh và mối quan hệ văn học –
điện ảnh.
Thế kỷ XX, XXI là thế kỷ ra đời và phát triển của các học thuyết hậu hiện đại
như: liên văn bản, giải kiến tạo, văn hóa học, phiên dịch học. Những tác phẩm điện
ảnh lấy chất liệu từ văn học cũng chính là một trong những đối tượng mà các học
thuyết này xem xét bởi chúng là tác phẩm mang tính liên văn bản trực tiếp từ tác
phẩm văn học có trước, là sản phẩm được tạo ra từ quá trình tiếp nhận của các nhà
làm phim, là sản phẩm dịch văn hóa và diễn ngôn của biên kịch, đạo diễn và là bản
dịch liên ký hiệu. Do đó, lý thuyết cải biên nghiên cứu các tác phẩm điện ảnh lấy chất
liệu từ văn học sẽ dựa trên cơ sở lý luận của các lý thuyết liên văn bản, giải kiến tạo,
văn hóa học, phiên dịch học hay nói cách khác, nó chính là sự phức hợp của các lý
thuyết ấy.


×