Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.32 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƯƠNG MINH TIẾN

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
NGUY HẠI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƯƠNG MINH TIẾN

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
NGUY HẠI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đức Phúc

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo chương
trình và đã thực hiện tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Dương Minh Tiến


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường


BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

KCN

Khu công nghiệp

PLHS

Pháp luật hình sự

TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VPPL

Vi phạm pháp luật

WHO


Tổ chức Y tế Thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Tình hình xử phạt hành chính trong lĩnh vực..................................................66
quản lý chất thải nguy hại............................................................................................66
Bảng 2.2. Số liệu xét xử các tội phạm môi trường giai đoạn 2010 – 2014......................67


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế - xã hội - môi trường được coi là một trong ba trụ cột của phát
triển bền vững. Vì vậy, bảo vệ môi trường (BVMT) đang là vấn đề có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, có tính chất sống còn không chỉ đối với Việt Nam mà
còn đối với các nước trên thế giới.
Nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là một số nước đang phát triển,
điển hình như Trung Quốc đã phải trả giá đắt khi hy sinh lợi ích lâu dài về
môi trường để đổi lấy lợi ích trước mắt về kinh tế. Rút kinh nghiệm từ một
số nước, trong chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước
đều thể hiện rõ tinh thần: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường" (Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004) của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước). Tiếp đến Đại hội Đảng XI, trong Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 nêu rõ: "Phát triển nhanh gắn liền
với phát triển bền vững…phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo
vệ và cải thiện môi trường".
Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh. Kiên định với mục tiêu đó, cần ý thức rõ phải có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường, phải quan tâm và hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật về bảo
vệ môi trường. Trong quá trình phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tạo ra những cơ hội lớn
để đất nước phát triển nhanh, toàn diện và vững chắc hơn, bên cạnh mục tiêu
vì sự phát triển kinh tế nhanh luôn kéo theo nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi
1


phải xử lý tốt để phát triển bền vững, trong đó có vấn đề rất quan trọng là bảo
vệ môi trường. Sự phát triển kinh tế - xã hội luôn đi kèm với nó là việc gia
tăng khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ quả là số
lượng và tính chất độc hại của các loại chất thải nói chung và chất thải nguy
hại nói riêng phát sinh ngày một nhiều hơn gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe
con người và đời sống xã hội. Điển hình một số vụ việc về vi phạm về bảo vệ
môi trường trong đó có vi phạm về quản lý chất thải nguy hại của một số
doanh nghiệp lớn mới bị phát hiện thời gian gần đây như: Công ty TNHH
Vedan Việt Nam; Công ty cổ phần Công nghiệp Tungkuang, Công ty TNHH
Miwon Việt Nam, Công ty cổ phần Thuộc da Hào Dương, Công ty cổ phần
Giấy Việt Trì, Công ty cổ phần Sonadezi Long Thành và Công ty TNHH Tân
Phát Tài (Đồng Nai); Công ty TNHH Long Tech Precision (Bắc Ninh), Công
ty TNHH MTV Môi trường và Đô thị Hà Nội (URENCO), đặc biệt gần đây
là vụ vi phạm của Công ty Nicotex Thanh Thái ở tỉnh Thanh Hóa…đã gây
hậu quả rất nghiêm trọng đến đời sống sức khỏe nhân dân và gây bức xúc
rộng rãi trong dư luận cần được xem xét xử lý nghiêm theo pháp luật.
Các nước trên thế giới cũng như Việt Nam có nhiều biện pháp để ngăn
chặn và xử lý các vụ việc vi phạm về bảo vệ môi trường như biện pháp xử
phạt vi phạm hành chính nhưng có lẽ biện pháp hữu hiệu và có tính răn đe
hơn cả là biện pháp dùng pháp luật hình sự (PLHS). Với những đặc điểm của

PLHS, các biện pháp PLHS có vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng ngừa và chống các loại hành vi xâm hại môi trường.
Kể từ khi Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985 có hiệu lực, mặc dù một
số điều luật về tội phạm về môi trường được quy định rải rác trong một số
chương như ở Chương VII: Các tội phạm về kinh tế hay Chương VIII: Các tội
xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính nhưng hầu
như không có việc thụ lý và xét xử các vụ án về môi trường. Như vậy vi phạm

2


pháp luật (VPPL) về bảo vệ môi trường trong đó có tội phạm về môi trường
là loại tội phạm vẫn còn mới mẻ so với các loại tội phạm khác trong PLHS
Việt Nam. Đến năm 1999, BLHS mới tổng hợp lại thành một chương riêng và
khái quát một cách khá toàn diện. Cùng với sự phát triển kinh tế, thu hút đầu
tư ồ ạt trong những năm cuối thế kỷ XX, một lần nữa, khi xây dựng BLHS
năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, các tội phạm về môi trường được đưa
ra xem xét lại để sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Trong Chương XVII của BLHS đã bổ sung Điều 182a về
“Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại”.
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, các hành vi xâm hại môi trường là
một trong những loại hành vi xảy ra phổ biến nhất ở nước ta hiện nay và các
thiệt hại do các hành vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Đặc biệt là với tính chất nguy hiểm của chất thải nguy hại thì các hành
vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại sẽ vô cùng nguy hại đến
sức khỏe và môi trường cần được ngăn chặn và xử lý nghiêm minh khi có vi
phạm xảy ra.
Tuy nhiên, thực tiễn đã xảy ra nhiều vụ việc vi phạm về quản lý chất thải
nguy hại gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe, hoa màu, gây ô nhiễm nguồn
nước, ô nhiễm đất…đã từng bị phát hiện qua các vụ việc điển hình nêu trên

nhưng thực tiễn xét xử cho thấy có rất ít vụ việc được đem ra xử lý hình sự.
Vậy vai trò và ý nghĩa của các biện pháp PLHS đối với đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm về môi trường nói chung và tội vi phạm về
quản lý chất thải nguy hại nói riêng phải chăng chưa được nhận thức một cách
sâu sắc cũng như chưa được đánh giá một cách đúng đắn? Hay việc quy định
cụ thể trong Điều 182a còn chưa phù hợp, khó áp dụng trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử trong thực tiễn? Cần sự đầu tư nghiên cứu một cách khoa
học và thực tiễn để có thể sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể của Điều luật

3


này và các văn bản hướng dẫn có liên quan nhằm áp dụng được Điều luật này
trên thực tiễn để trừng trị và răn đe các hành vi vi phạm về quản lý chất thải
nguy hại.
Có thể khẳng định trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cần có nghiên
cứu sâu về các quy định hiện hành đối với tội phạm này. Đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về các tội phạm môi trường nói chung, về trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm môi trường… nhưng chưa có nghiên cứu riêng
nào cho tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại. Vì vậy, tác giả
mạnh dạn chọn đề tài “Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
trong Luật Hình sự Việt Nam” để nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, do đất nước ta chuyển từ bao
cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên vấn đề ưu tiên
phát triển kinh tế được ưu tiên hàng đầu. Vì lẽ đó mà các tội phạm về môi
trường và TNHS đối với tội phạm về môi trường là vấn đề còn khá mới trong
khoa học luật hình sự và còn ít được nghiên cứu do thực tiễn những năm
trước đây mới phát sinh. Qua những năm thu hút đầu tư nước ngoài ồ ạt dẫn

đến các vấn đề về môi trường cũng phát sinh đặc biệt là trong các khu kinh tế,
khu công nghiệp, khu chế xuất, các địa điểm tập trung nhiều nhà máy, xí
nghiệp. Đến thời điểm Đảng và Nhà nước thấy rõ vấn đề cần phát triển bền
vững và bảo vệ môi trường thì VPPL môi trường nói chung và tội phạm về
môi trường nói riêng mới bắt đầu được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học...tập
trung quan tâm nghiên cứu. Hàng loạt các công trình, đề tài khoa học, các nội
dung về bảo vệ môi trường và pháp luật về bảo vệ môi trường được nghiên
cứu và công bố, điển hình trong số đó là:

4


- Các tội phạm về môi trường được đề cập trong hầu hết các giáo trình
về Luật Hình sự Việt Nam của các trường đại học chuyên đào tạo về ngành
luật, cụ thể: giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên; giáo trình Luật
hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội; giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(phần các tội phạm) của Đại học Huế do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên. Trong
các giáo trình này, các tội phạm về môi trường mới chỉ được đề cập, nghiên cứu
ở mức độ khái quát các dấu hiệu của nhóm tội phạm về môi trường cũng như
của từng tội cụ thể trong nhóm tội này.
- Trong cuốn sách "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm", Tập VIII, của tác giả Đinh Văn Quế cũng có đề cập đến TNHS đối
với các tội phạm về môi trường. Công trình này có phân tích sâu các dấu hiệu
cấu thành tội phạm (CTTP) của các tội phạm về môi trường (mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể, khách thể).
- Trong bài viết "Chính sách hình sự đối với các tội phạm về môi
trường" GS.TSKH Đào Trí Úc, GS.TS Võ Khánh Vinh - hai nhà khoa học về
Luật Hình sự hàng đầu của Việt Nam đã đi sâu phân tích khái niệm, nội dung
và các lĩnh vực thể hiện chính sách hình sự đối với các tội phạm về môi

trường, cụ thể là chính sách về tội phạm hoá các hành vi xâm hại môi trường
và kèm theo đó là chính sách về hình sự hoá các biện pháp tác động đối với
các tội phạm về môi trường, chính sách tổ chức đấu tranh phòng chống tội
phạm về môi trường... qua nội dung bài viết người đọc một cái nhìn tổng quát
nhưng sâu sắc đối với tội phạm về môi trường.
- GS.TS Võ Khánh Vinh còn đề cập đến vấn đề TNHS đối với các tội
phạm về môi trường như khái niệm, đặc điểm, các hình thức của TNHS trong
bài viết "Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm về môi trường theo pháp luật
hình sự hiện hành; Ngoài ra, GS.TS Võ Khánh Vinh cũng có nghiên cứu về

5


"Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tội phạm hóa các hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường", đề cập đến vấn đề TNHS khi phân
tích cơ sở của việc tội phạm hoá các hành vi xâm hại môi trường và hoàn
thiện các quy định của PLHS về tội phạm về môi trường.
- Trong công trình nghiên cứu "Tội phạm về môi trường - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn" do PGS.TS Phạm Văn Lợi chủ biên, ông và các đồng
nghiệp của ông đã đi sâu phân tích các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về
môi trường, chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa tội phạm về môi
trường với các tội phạm khác. Công trình nghiên cứu này giúp nhận thức sâu
hơn và có cách nhìn mới hơn về các tội phạm về môi trường, đặc biệt là về
tính phức tạp của chúng, từ đó nhận diện để áp dụng trong thực tiễn và hoàn
thiện PLHS.
- Vấn đề tội phạm về môi trường cũng được các bộ, ngành phối hợp
nghiên cứu trong một số đề tài khoa học và được đánh giá là có kết quả tốt
như: Đề tài khoa học cấp Bộ "Cơ sở khoa học định lượng hóa khung hình
phạt tội phạm về môi trường" do Cục Môi trường (thuộc Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường trước đây) phối hợp với Viện Nhà nước và Pháp luật thực

hiện đã đi sâu phân tích cơ sở khoa học của việc xây dựng các khung hình
phạt đối với các tội phạm về môi trường trên cơ sở định lượng hoá các hậu
quả mà các tội phạm về môi trường gây ra.
- Bên cạnh các đề tài nghiên cứu tội phạm về môi trường, các đề tài
nghiên cứu về VPPL môi trường cũng được đặt ra thực hiện, thậm chí ở cấp
độ đề tài khoa học cấp Nhà nước. Trong số đó có thể kể đến đề tài "Những vi
phạm pháp luật về môi trường và giải pháp phòng chống", mã số KX.07-06
do GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân làm
chủ nhiệm. Đề tài này đã đi sâu phân tích, làm rõ các dấu hiệu của VPPL về
môi trường, các hình thức biểu hiện, cơ sở phân biệt với các hành vi vi phạm

6


môi trường bị coi là tội phạm; đánh giá thực trạng đấu tranh phòng chống
bằng tổng thể các biện pháp, đặc biệt là biện pháp pháp luật. Vấn đề TNHS
cũng được đề cập trong công trình này khi nói đến những vấn đề liên quan
đến biện pháp xử lý, biện pháp đấu tranh.
- Tài liệu tham khảo “Công tác đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp
luật về BVMT” do Cục Bảo vệ môi trường phát hành năm 2007 cũng phân
tích khái quát đến các VPPL về môi trường và các tội phạm về môi trường.
- Gần đây, Luận án Tiến sĩ về "Trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về môi trường" của tác giả Dương Thanh An - Tổng cục Môi trường đã
đi sâu phân tích và làm rõ vấn đề TNHS đối với các tội phạm về môi trường
rất cần được giải quyết một cách thấu đáo trên cả ba phương diện: lý luận
(nhận thức), quy định trong luật và trong cách thức tổ chức thực hiện trên
thực tế. Các yếu tố nhận diện một cách chính xác TNHS đối với các tội phạm
về môi trường, tính đặc trưng và tính phức tạp của nó trong mối liên hệ với
các dạng trách nhiệm pháp lý khác đối với VPPL môi trường.
- Phân tích các công trình nghiên cứu được liệt kê trên đây có thể thấy

phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu các dấu hiệu
CTTP của các tội phạm về môi trường, TNHS đối với tội phạm về môi trường
chứ chưa có đề tài/công trình nào nghiên cứu cụ thể về hành vi vi phạm quy
định về quản lý chất thải nguy hại. Đặc biệt chưa có những nghiên cứu sâu, cụ
thể về cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng “Tội vi phạm quy định về quản lý
chất thải nguy hại trong Luật hình sự Việt Nam”. Điều đó càng cho thấy
tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ở cấp độ luận văn thạc sĩ mà tác giả
đang thực hiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội Vi phạm quy định về quản lý
CTNH và thực trạng xử lý các VPPL về quản lý chất thải nguy hại. Qua đó
7


kiến nghị và đề xuất những nội dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS
Việt Nam hiện hành về Tội này cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả xử
lý đối với hành vi vi phạm về quản lý chất thải nguy hại.
3.2. Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là về những vấn đề lý luận và thực tiễn
về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại được quy định trong
Điều 182a BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
- Về địa điểm: Luận văn nghiên cứu thực trạng việc điều tra, truy tố, xét xử
các hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn toàn quốc.
- Về thời gian: trong khoảng thời gian 5 năm (2010 – 2014) kể từ khi Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội danh này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài “Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải
nguy hại trong Luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn hướng vào làm rõ cơ sở lý

luận và thực tiễn về TNHS đối với hành vi vi phạm về quản lý chất thải nguy
hại; những hạn chế, tồn tại, bất cập và nguyên nhân trong áp dụng Điều luật
này trong thực tiễn, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm áp dụng quy
định của Điều luật phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu về đấu tranh,
phòng chống tội phạm vi phạm quy định về quản lý về chất thải nguy hại.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích tổng quát nêu trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và khoa học để quy định tội vi phạm quy
định về quản lý chất thải nguy hại.

8


- Nghiên cứu những quy định của pháp luật về tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại trên cơ sở đó xác định các đặc điểm pháp lý đối với
tội phạm này.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn mức độ nguy hiểm của hành
vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại.
- Nghiên cứu những khó khăn, tồn tại của công tác điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm này.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội phạm này.
- Đề các giải pháp nhằm nâng cao khả năng phát hiện, điều tra và xử lý
tội vi phạm quy định về quản lý chất thải
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết của Bộ

Chính trị như: Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15 tháng 11
năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013
về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường; Chỉ thị số 48- CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử
dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như:
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương
pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội
9


học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hiện nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu chung về tội phạm về môi
trường hoặc trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường nhưng chưa có đề tài nghiên cứu riêng về tội vi phạm quy định
về quản lý chất thải nguy hại.
- Nghiên cứu “Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
trong Luật Hình sự Việt Nam” góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận cho các quy
định PLHS đối với nhóm các tội phạm về môi trường nói chung và tội vi
phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại nói riêng.
- Những đề xuất trong Luận văn sẽ giải quyết vấn đề thực tiễn áp dụng
nhằm xử lý, răn đe, ngăn chặn kịp thời các tội phạm về quản lý chất thải nguy
hại, tránh hậu quả đối với sức khỏe con người và cho xã hội.
- Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo không những cho
các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp

phần nâng cao năng lực xét xử vụ án hình sự, mà còn cho các nhà nghiên cứu,
các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh
viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến
hành tố tụng và các cơ quan quản lý, chuyên môn về môn trường áp dụng trên
thực tiễn để việc giải quyết tội vi phạm về quản lý chất thải một khách khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, bảo vệ môi trường sống xanh sạch đẹp.

10


7. Kết cấu của Luận văn
Phần Mở đầu
Chương 1: Nhận thức chung về quản lý chất thải nguy hại và tội vi
phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Luật Hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực trạng vi phạm, xử lý vi phạm về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam
hiện nay và những hạn chế, bất cập trong xử lý vi phạm về quản lý chất thải nguy.

Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Luật Hình sự đối với tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại.
Phần Kết luận

11


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về quản lý chất thải nguy hại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về chất thải nguy hại
Hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người luôn làm phát sinh ra
các loại chất thải. Hiểu một cách đơn giản, chất thải là những chất không sử
dụng được nữa, do con người thải bỏ ra trong hoạt động của mình. Theo định
nghĩa tại Khoản 12 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2014:
“Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt
hoặc hoạt động khác” [45]; Khoản 13 Điều 3 Luật BVMT năm 2014 quy
định: “Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây
nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại
khác”[45]. Từ những quy định này, chúng ta có thể hiểu về chất thải như sau:
i) Chất thải trước hết là dạng vật chất chất cụ thể, tồn tại ở các dạng:
rắn, lỏng, khí.
ii) Loại vật chất này được sinh ra từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt, hoặc các hoạt động khác do con người thực hiện.
iii) Loại vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ. Như vậy, vật chất đó có phải
là chất thải hay không phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của chủ sở
hữu. Tuy nhiên, phải loại trừ trường hợp do đặc thù trong hoạt động của
mình, chủ sở hữu phải thải bỏ vật chất và hoạt động thải bỏ này mang tính
chất bị động đối với chủ sở hữu cũng như đối với đối tượng khác. Một vật
chất sẽ tồn tại dưới dạng chất thải từ khi chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp
pháp thải ra cho đến khi nó được đưa vào sử dụng ở một chu trình sản xuất
hoặc chu trình sử dụng khác [31, tr.45].
12


Hiện nay, dựa trên tính chất vật lý và hóa học của chất thải, các quy
định pháp lý chuyên ngành về bảo vệ môi trường chia chất thải thành: Chất

thải nguy hại và chất thải thông thường. Do tính chất nguy hại của chất thải
nguy hại, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường quy định việc quản
lý chất thải nguy hại rất chặt chẽ.
Theo chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP): Chất thải
nguy hại là các chất thải (không bao gồm các chất phóng xạ) có khả năng
phản ứng hóa học hoặc có khả năng gây độc, gây cháy, ăn mòn, có khả năng
gây nguy hại cho sức khỏe con người hay môi trường khi tồn tại riêng lẻ, hoặc
khi tiếp xúc với các chất khác.
Theo luật Bảo tồn và Phục hồi tài nguyên Mỹ (RCRA): Chất thải nguy
hại là chất thải rắn hoặc tổ hợp các chất thải rắn do lượng hoặc nồng độ hay
do đặc tính vật lý, hoá học hoặc truyền nhiễm mà chúng có thể: (1)Tạo ra
hoặc góp phần đáng kể vào việc tăng khả năng tử vong hay là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng nguy kịch không thể cứu chữa; (2) Tạo ra sự nguy hại đến
sức khỏe con người hoặc môi trường trong khi xử lý, bảo quản, vận chuyển.
Theo quy định của pháp luật BVMT Philippin: Chất thải nguy hại là các
loại vật liệu có khả năng gây nguy hiểm cho con người, động vật, có khả năng
gây độc, ngộ độc, ăn mòn, dị ứng, nhạy cảm cao, gây cháy nổ.
Nhìn chung, định nghĩa chất thải nguy hại ở các nước tuy có khác nhau
về cách diễn đạt, nhưng bản chất đều nhấn mạnh đến tính chất độc hại của
loại chất thải này đến môi trường và sức khỏe con người.
Ở Việt Nam, khái niệm chất thải nguy hại lần đầu tiên được đề cập đến
chính thức tại Quy chế quản lý chất thải nguy hại ban hành kèm theo Quyết
định số 155/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 16 tháng 7 năm
1999, tại Khoản 2 Điều 3 của Quy chế quy định: “Chất thải nguy hại là chất
thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại

13


trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc

tính gây nguy hại khác) hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại đến
môi trường và sức khỏe con người” [48].
Định nghĩa này đã được sửa đổi và diễn đạt ngắn gọn và súc tích hơn
tại Khoản 11 Điều 3 Luật BVMT năm 2005: “Chất thải nguy hại là chất thải
chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây
ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác”. Đến Luật BVMT năm 2014, khái
niệm chất thải nguy hại cơ bản kế thừa và nhấn mạnh đặc tính “lây nhiễm”
lên trước một số đặc tính khác.
Khi đối chiếu khái niệm chất thải nguy hại ở 03 văn bản pháp luật trên,
có thể dễ dàng nhận thấy về mặt hình thức thì khái niệm chất thải nguy hại
trong Luật BVMT năm 2005 và Luật BVMT năm 2014 đã rút gọn đi rất nhiều
về số lượng câu, chữ, cách diễn đạt cũng rõ ràng hơn và súc tích hơn. Tuy
nhiên, điều đó vẫn không làm giảm hay sai lệch phần nội dung mà khái niệm
muốn đề cập đến: “Chất thải nguy hại là một loại chất thải, có các đặc tính
lý, hóa hoặc sinh học có thể gây nguy hại trực tiếp hay gián tiếp khi tương tác
với các chất khác”.
Có nhiều tiêu chí để phân loại chất thải nguy hại như: Phân loại theo
nguồn thải đặc thù, phi đặc thù; phân loại theo chất thải công nghiệp; phân
loại theo loại nguy hại; theo nhóm hóa học; theo thành phần hóa học ban đầu;
theo tình trạng vật lý…[26, tr.6]. Theo Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT
của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 26 tháng 12 năm 2006 về việc ban
hành danh mục chất thải nguy hại, chất thải nguy hại được phân loại theo các
nhóm nguồn hoặc dòng thải chính như: Chất thải từ ngành thăm dò, khai thác,
chế biến khoáng sản, dầu khí và than; chất thải từ ngành sản xuất hóa chất vô
cơ, hữu cơ; chất thải từ ngành luyện kim; chất thải từ ngành sản xuất vật liệu
xây dựng và thủy tinh; chất thải từ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; chất

14



thải từ ngành y tế và thú y; chất thải từ các cơ sở tái chế, xử lý, tiêu hủy chất
thải, xử lý nước cấp sinh hoạt và công nghiệp…
Như vậy, qua các khái niệm về chất thải nguy hại ta có thể rút ra đặc
điểm của chất thải nguy hại như sau:
Một là, chất thải nguy hại trước hết có đầy đủ đặc điểm của chất thải
được quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia, tức là các loại hình vật chất
cụ thể được thải ra qua quá trình sinh hoạt, sản xuất. Dưới một số khía cạnh
khác nhau thì chất thải có thể chỉ là vật chất bỏ đi không có giá trị sử dụng
hoặc tái sử dụng. Tuy nhiên, hầu hết hiện nay các chất thải phát sinh từ các
quá trình tiêu dùng hay sản xuất đều có thể tái sử dụng, tái chế được. Do đó,
chất thải của quy trình sản xuất này có thể là nguồn nguyên liệu đầu vào của
quá trình sản xuất khác. Ví dụ, sản phẩm là xỉ than thải ra sau quá trình sử
dụng của nhà máy nhiệt điện có thể trở thành nguồn nguyên liệu trong ngành
xây dựng như sản xuất gạch xi măng, rải đường...
Hai là, chất thải nguy hại ngoài đặc điểm chung như các loại chất thải
khác chúng có đặc điểm riêng là có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong
các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn,
dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác) hoặc tương tác với các chất
khác gây nguy hại đến môi trường và sức khỏe con người. Như vậy bản thân
tính nguy hại thể hiện ở chỗ chúng gây nguy hại trực tiếp cho môi trường hay
sức khỏe của con người. Ví dụ như sản phẩm bùn đỏ sau quá trình sản xuất
aluminum từ quặng bô xít có khả năng gây nguy hại rất lớn cho môi trường...
Chính vì đặc điểm này mà quy chế về quản lý chất thải nguy hại tương đối
khác biệt so với các loại chất thải thông thường khác. Bất kì quốc gia nào
cũng có những quy định hết sức chặt chẽ nhằm bảo đảm quản lý được nguồn
chất thải này.

15



Ba là, chất thải nguy hại được quản lý theo một quy chế riêng được quy
định rất chặt chẽ trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật BVMT
và BLHS... Đây là đặc điểm tương đối khác biệt so với các loại chất thải
thông thường khác. Bởi lẽ chất thải nguy hại có tính nguy hại cho con người
và môi trường cao hơn so với các loại chất thải khác. Quy chế quản lý chất
thải nguy hại là cơ sở pháp lý, là kim chỉ nam cho hoạt động quản lý đối với
chất thải nguy hại của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm hạn chế
một cách tối đa sự tác động xấu tới sức khỏe con người và môi trường của
chất thải nguy hại.
Bốn là, chất thải nguy hại cũng giống như các loại hình chất thải khác,
đòi hỏi chủ thể phát tán chất thải hoặc chủ thể quản lý phải có những nghĩa vụ
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn. Tuy nhiên, khác với các loại chất thải
thông thường khác, chất thải nguy hại có tính nguy hiểm cao hơn nên các văn
bản quy phạm pháp luật quy định chặt chẽ hơn nghĩa vụ của các chủ thể trong
quản lý chất thải nguy hại, nếu để xảy ra những hậu quả nhất định thì sẽ phải
chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Trong đó có hình thức trách nhiệm cao nhất
là trách nhiệm hình sự. Điều này là khác biệt so với các chất thải thông
thường, bởi lẽ đối với chất thải thông thường không có một quy chế riêng quy
định nghĩa vụ của chủ thể quản lý, mà thường nằm trong các quy định chung
về BVMT.
1.1.2. Khái niệm và quy trình quản lý chất thải nguy hại
Tại Khoản 3 Điều 3 Quy chế quản lý chất thải nguy hại ban hành kèm
theo Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg ngày 16 tháng 7 năm 1999 của Thủ
tướng Chính phủ quy định: “Quản lý chất thải nguy hại là các hoạt động
kiểm soát chất thải nguy hại trong suốt quá trình từ phát sinh đến thu gom,
vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu huỷ CTNH” [49].

16



Theo Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14 tháng 4 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (sau đây gọi tắt là Thông tư
12/2011/TT-BTNMT) tại Khoản 1 Điều 3 quy định: “Quản lý chất thải nguy
hại là các hoạt động liên quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân định,
phân loại, tái sử dụng trực tiếp, lưu giữ tạm thời, vận chuyển và xử lý chất thải
nguy hại” [7].
Khái niệm quản lý chất thải nguy hại lần đầu tiên được quy định tại
Quy chế quản lý chất thải nguy hại, tiếp đó khái niệm này đã được chỉnh sửa
tại Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT. Theo đó, khái niệm quản lý chất thải
nguy hại được diễn đạt một cách cụ thể, rõ ràng, có nội hàm rộng hơn và đầy
đủ hơn so với quy định tại Khoản 3 Điều 3 của Quy chế. Các nhà làm luật đã
liệt kê hàng loạt hoạt động của việc quản lý chất thải nguy hại theo một quy
trình chặt chẽ hơn, bao gồm cả những hoạt động liên quan đến việc phòng
ngừa, giảm thiểu, phân định, phân loại, tái sử dụng trực tiếp, lưu giữ tạm thời,
vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại. Như vậy, trách nhiệm quản lý chất
thải của cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc quản
lý chất thải nguy hại không chỉ có từ khi chất thải đó phát sinh, mà các chủ
thể trên còn có trách nhiệm trong việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân định,
phân loại, tái sử dụng trực tiếp bằng việc áp dụng mọi biện pháp kĩ thuật hiện
đại, công nghệ tiên tiến… nhằm hạn chế lượng chất thải nguy hại phát sinh
trên thực tế.
Theo quy định trên, quản lý chất thải nguy hại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trách nhiệm quản lý chất thải thuộc về cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quản lý chất thải nguy hại và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý chất thải nguy hại trong phạm
vi chức năng luật định. Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm quản lý chất thải

17



nguy hại là những chủ thể có những hoạt động liên quan trực tiếp đến chất
thải nguy hại như: chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, xử lý, tiêu huỷ.
Thứ hai, nội dung quản lý chất thải nguy hại là các hoạt động mà các
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và các tổ chức, cá nhân có
liên quan phải thực hiện. Cụ thể là: các cơ quan nhà nước có trách nhiệm xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý chất thải nguy hại, thanh
tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm… các tổ chức, cá
nhân có liên quan phải tiến hành những hoạt động phân loại, thu gom, vận
chuyển, xử lý… chất thải nguy hại.
Quy trình quản lý chất thải nguy hại được thực hiện theo 5 giai đoạn.
Đó là:
Giai đoạn 1: Quản lý nguồn phát sinh chất thải nguy hại. Đây là việc
tiến hành các biện pháp để quản lý chất thải nguy hại ngay tại chính nguồn phát
sinh ra chất thải đó. Kiểm soát chất thải nguy hại tại nguồn là một công việc
khá phức tạp. Cách thông thường nhất được nhiều quốc gia sử dụng để giải
quyết những vấn đề trên là tiến hành thủ tục đăng ký cấp giấy phép đối với các
chủ nguồn thải chất thải nguy hại, đặc biệt là trong ngành công nghiệp.
Giai đoạn 2: Phân loại, thu gom và vận chuyển chất thải nguy hại. Giai
đoạn này được thực hiện bằng việc phân loại, thu gom toàn bộ chất thải nguy
hại tại tất cả các nguồn phát sinh ra chúng. Sau khi tiến hành việc thu gom,
chất thải sẽ được vận chuyển đến khu xử lý và thải bỏ hoặc đến trạm trung
chuyển hay đến nơi lưu giữ tạm thời [48, tr.79].
Giai đoạn 3: Xử lý trung gian. Giai đoạn này được tiến hành bởi những
phương pháp xử lý khác nhau như: xử lý cơ học, xử lý hóa học, sinh học và
nhiệt… nhằm làm giảm khối lượng chất thải nguy hại, giảm thiểu hoặc loại bỏ
độc tính để phù hợp hơn với khâu thải bỏ cuối cùng.

18



Giai đoạn 4: Chuyên chở chất thải nguy hại đi xử lý tiếp. Chất thải
nguy hại sau khi xử lý trung gian sẽ được vận chuyển bằng những phương
tiện chuyên dụng đến nơi xử lý cuối cùng của quy trình.
Giai đoạn 5: Thải bỏ chất thải. Những phần chất thải khi không còn
được tái chế và tái sử dụng sẽ được thải bỏ bằng những cách thức khác nhau
như:chôn lấp hoặc thiêu đốt.
Việc quản lý chất thải nguy hại có thể được thực hiện bằng nhiều công cụ
như: kinh tế, pháp lý, kĩ thuật… trong đó công cụ pháp lý được coi là phương
tiện hiệu quả hàng đầu trong công tác quản lý chất thải nguy hại, thông qua việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật về
môi trường.
1.1.3. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại tới con người và môi
trường
* Ảnh hưởng của chất thải nguy hại đối với môi trường
Việc chôn lấp, xử lý chất thải nguy hại không đúng quy cách đã gây ra
những tác động vô cùng nghiêm trọng đối với môi trường, cụ thể là ảnh
hưởng đến nước ngầm, nước mặt, đất và không khí.
Đặc điểm địa lý của Việt Nam với phần lớn diện tích đồi, núi, phần còn
lại là đồng bằng với mạng lưới sông ngòi dày đặc. Đây được xem như một ưu
đãi của thiên nhiên đối với con người Việt Nam, bởi chúng ta có thể sử dụng
mạng lưới sông ngòi này vào sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, mạng lưới
sông ngòi này đang bị đe dọa trầm trọng bởi chúng đang được sử dụng như
nguồn chứa nước thải từ chính hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân,
đặc biệt ở những khu đô thị và khu công nghiệp... Tại những thành phố lớn
như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh… chưa có hệ thống xử lý
chất thải công nghiệp và sinh hoạt. Do đó, mạng lưới kênh rạch trong thành
phố được coi là nơi chứa chất thải chính, giải quyết vấn đề nhức nhối do chất
19



×